Máy
bay quân sự đưa tôi về Quảng trị. Tiểu khu báo cho tôi
biết hai ngày sau mới có xe đưa lên tiền cứ của tiểu
đoàn. Trễ phép mất hai ngày nhưng không sao, người ta
cho hay tiểu đoàn vẫn còn đóng yên tại chỗ. Trong khi
chờ đợi, tôi ở nhờ tại tiểu khu vì nơi đây có
phòng vãng lai khá đầy đủ tiện nghi. Trong phòng đã có
một anh sĩ quan cũng đi phép về và chờ đợi như tôi.
Chúng tôi đi ăn cơm chung với nhau rồi trở về tiểu khu
vì ở cái tỉnh địa đầu nầy, không có nhiều thú vui
ăn chơi như các tỉnh khác của miền Nam. Chúng tôi có
nguyên hai ngày để trò chuyện. Anh ta tự giới thiệu
mình là trung úy Trần Hy, sĩ quan chiến tranh chính trị
của Sư đoàn Một bộ binh. Không phải là sĩ quan tác
chiến nhưng Trần Hy tham gia đều đặn các cuộc hành
quân, mục đích là tìm tin tức và đề tài chiến trường
để viết bài cho một tờ báo lớn ở Sài gòn. Quả
thực, nói chuyện với anh, tôi tấy rõ sự hiểu biết
sâu và rộng của anh về cuộc chiến tranh nầy. Tôi chăm
chỉ nghe những nhận định của Hy vì một ý riêng.
Tôi
đã hứa với Thu Hồng là sẽ xúc tiến thủ tục kết
hôn với nàng. Lời hứa đó thốt lên trong lúc bồng bột
khi hai chúng tôi đang quấn quít bên nhau. Sau khi rời xa
nàng để trở về chốn địa đầu nầy, mùi hương của
da thịt, của hơi thở người trinh nữ vẫn phảng phất
quanh tôi, làm cho lời hứa dần dần trở thành một quyết
định dứt khoát. Tôi muồn gần gũi bên nàng để “khi
xem hoa nở, khi chờ trăng lên”. Tuy nhiên, trong tình cảnh
hiện tại của tôi, điều đó không dễ dàng thực hiện
được. Tôi đang ở cách nàng quá xa, may lắm mỗi năm
cũng chỉ được vài ngày gần gũi bên nhau.
Đơn
vị tôi thuộc lực lượng tổng trừ bị nhưng nay cứ
phải chôn chân ở tỉnh cực bắc xa xôi nầy, ngày nào
tôi mới có hi vọng trở vào Nam để tiện đi về với
người vợ sau ngày cuới? Tôi đem ý kiến nầy ra hỏi
thử Trần Hy. Đúng với tính cách của anh nhà báo, Trần
Hy không trả lời thẳng vào điều mà tôi muốn hỏi. Anh
ta nhận định dài dòng, nghe sốt cả ruột:
-
Cái Tết Mậu thân là một điểm mốc lịch sử quan trọng
của chiến cuộc Việt Nam. Chắc chắn anh còn nhớ, nhiều
năm trước đây, tuy không trực tiếp liên lạc với nhau
nhưng hai bên đã thỏa thuận ngầm một cuộc hưu chiến
ba ngày Tết để cho nhân dân đón rước ông bà. Và hàng
năm, hai bên đã thi hành đúng sự thỏa thuận ngầm. Tết
Mậu thân cũng vậy, chúng ta cũng tin vào điều đó. Đã
là người Việt Nam, ai nỡ để cho ông bà về chứng kiến
con cháu mình tàn sát lẫn nhau. Giấy phép được ký ào
ào cho quân nhân về đoàn tụ với gia đình. Việt cộng
đã lợi dụng sự cả tin của chúng ta, tiếng súng của
họ đã ẩn vào tiếng pháo mừng xuân của dân chúng, sự
gian xảo đã giúp họ xuyên qua được các hàng rào phòng
thủ quá sơ hở và xâm nhập vào tất cả các thành phố
trong cả miền Nam. Sau đó họ đã bị đánh bật, nhưng
trước khi tẩu thoát, họ cũng kịp để lại khắp nơi
dấu vết của chiến tranh, và ở một vài nơi, họ để
lại sự hoang tàn đổ nát, trầm trọng nhất là thành
phố Huế với biết bao di tích lịch sử tan tành không
bao giờ phục hồi lại được. Cuộc tấn công Mậu thân
là điều xấu xa nhất trong cả cuộc chiến ở miền Nam
và có lẽ trong lịch sử chiến tranh của nhân loại nữa.
Trong cuộc chiến nầy ngoại trừ những hành vi vô kỷ
luật có tính cá nhân, chúng ta cố tránh thiệt hại cho
dân chúng nên thường gặp khó khăn vì họ ẩn trong dân
chúng. Qua biến cố Mậu thân, họ mang chiến tranh vào nơi
đông dân cư nhất, làm cho thịt xương văng tung tóe ở
những nơi tập trung của dân lành vô tội.
Tôi nóng nảy ngắt lời:
-
Nhưng đâu phải chỉ có một mình cộng quân mới đưa
chiến tranh vào nơi đông dân. Cuối đệ nhị Thế chiến,
Mỹ không thả bom nguyên tử xuống giết chết dân chúng
Nhật ở hai thành phố hay sao?
-
Tôi không hề bênh vực Mỹ về hành động tàn ác nầy.
Nhưng có hai điểm khác biệt giữa hai sự kiện mà chúng
ta đang đề cập. Điểm thứ nhất là bom Mỹ rơi xuống
đầu dân Nhật chứ không rơi vào đầu dân Mỹ. Điểm
thứ hai là hai quả bom nguyên tử buộc Nhật phải đầu
hàng ngay, để cứu sinh mạng của nhiều trăm ngàn lính
Mỹ đang chiến đấu trên lục địa và hải đảo của Á
châu. Còn ở đây, họ đem cái chết đến cho chính đồng
bào của họ và không phải là để chấm dứt chiến
tranh bằng trận thắng cuối cùng. Họ không ngu dại gì
mà có ảo tưởng thắng được chúng ta lúc nầy; họ đem
cái chết cho hàng trăm ngàn người chỉ trong vài ngày
ngắn ngủi để làm gì? Chỉ để gây một tiếng vang mà
thôi.
Tôi
cảm thấy mất kiên nhẫn:
-
Ít nhất họ cũng gây được tiếng vang trên khắp thế
giới. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn hỏi ý
kiến anh.
Trần
Hy đưa tay chận tôi lại:
-
Điều anh muốn hỏi là lực lượng tổng trừ bị của
anh bao giờ rút được về Nam, có đúng vậy không? Anh cứ
bình tĩnh nghe tôi trình bày rồi tự anh rút ra kết luận
cho anh; như thế hay hơn chính tôi kết luận vội vàng cho
anh.
Tôi
hơi bực:
-
Được. Tôi còn nhiều thì giờ ở đây để nghe anh diễn
thuyết. Biết đâu đây là bài anh vừa viết xong cho báo
và anh đang dùng tôi để kiểm tra lại phản ứng của
độc giả khi đọc bài nầy.
Trần
Hy cười, giọng hòa giải:
-
Anh nghĩ thế cũng được. Tôi xin trình bày tiếp. Đúng
như nhận định của anh, cuộc tấn công Tết mậu thân
đã gây tiếng vang lớn trên thế giới. Hầu hết nhân
loại đều bàng hoàng và có lòng khâm phục kẻ thù của
chúng ta. Khâm phục vì các dân tộc khác không thể biết
được ý nghĩa thiêng liêng của tết cổ truyền đối
với nhân dân Việt Nam nên không hiểu được tính lật
lọng và vô luân của những người chủ trương cuộc tấn
công nầy. Đài phát thanh của cộng sản không ngớt rêu
rao chiến thắng, nhưng chính họ cũng phải biết rằng đó
là một thảm bại to lớn. Anh còn nhớ không, sau khi lật
đổ chế độ Ngô đình Diệm, những nhà lãnh đạo bất
tài của chúng ta tranh dành xâu xé nhau, gây bất ổn chính
trị, tạo điều kiện cho sự bành trướng của mặt trận
Giải phóng và sự xâm nhập của miền Bắc vào. Trong bao
nhiêu năm Việt cộng tốn biết bao công sức để xây
dựng lực lượng rồi nướng gần sạch trong mấy ngày
Tết Mậu thân.
-
Cũng như anh nhà quê nhịn ăn nhịn mặc suốt năm để
rồi cháy túi sau ba ngày tết?
-
Gần đúng như vậy. Tàn nhẫn hơn nữa là vài tháng sau
Tết, cảm thấy tiếng vang bắt đầu xẹp xuống thì họ
toan gây tiếng vang khác bằng cuộc phiêu lưu quân sự mới
gọi là cuộc tấn công Mậu thân lần thứ hai. Họ gom
góp các lực lượng đã bị tơi tả, gấp rút bổ sung.
Thanh niên đâu còn, họ đưa cả trẻ em ra cầm súng. Như
những con thiêu thân đáng thương, bọn trẻ con ôm AK, B40
lao vào các căn cứ của quân ta và quân Mỹ. Sau nhiều
trận đánh, chính tôi đã trông thấy những xác chết đa
số là trẻ vị thành niên. Các em nằm rải rác trên
chiến địa nồng nặc mùi máu và thuốc súng, nét mặt
thơ ngây, mắt nhắm nghiền như đang chìm sâu trong giấc
ngủ bình yên trên chiếc giường của mẹ. Có một anh
trung sĩ binh chủng Dù áp tải một số tù binh bắt được
trong một trận tấn công, toàn là trẻ con, mặt mày ngơ
ngác. Đến cửa Quân vụ thị trấn, anh trung sĩ oang oang:
-
Nhục lắm, nhục lắm. Ra chiến trường đánh với bọn
con nít nầy thì nhục lắm. Thắng chúng nó, quả thực
chẳng vinh quang chút nào. Rủi mà bị trúng đạn của
chúng nó thì ắt trở thành con ma nhục nhã lang thang khắp
trời đất để chửi thề.
Tôi
ra hiệu cho Trần Hy ngưng nói. Hình ảnh những đứa trẻ
mà anh vừa mô tả làm cho tôi vô cùng xúc động. Tôi
bỗng chợt nhớ tới bé Thanh, đứa bé thơ ngây dễ
thương đã xin tiền tôi ở phố Đà nẵng và đã khóc
trong bàn tay tôi ở cửa phòng hiệu trưởng của ngôi
trường mà em đang học. Rồi đây, trong khung cảnh núi
rừng đèo heo hút gió, khuôn mặt hai chị em mà tôi mang
đến bằng trí tưởng tượng là hai nét dịu dàng mà
người họa sĩ thiên tài nào đó đã dám vẽ lên trên
bức tranh mang màu sắc hung tàn.
Tôi
buồn bã hỏi Trần Hy:
-
Theo anh, cộng quân có thể mở một trận tấn công Mậu
thân nữa không?
-
Không, sau cuộc tấn công đợt hai nầy thì họ không còn
hơi sức nữa. Cái tết Kỷ Dậu kế tiếp thì anh thấy
rồi, thực là êm ả. Bên ta không mở cuộc hành quân nào
nhưng tất cả quân nhân đều túc trực ứng chiến tại
chỗ. Mọi người ăn Tết trong im lặng, không một tiếng
pháo, không một cuộc vui chơi ồn ào, dân chúng vừa đón
xuân vừa nhớ lại cái Tết kinh hoàng trước đây và
tưởng niệm cho những người đã khuất trong đó có
những trẻ em chưa hiểu được cuộc đời là gì thì đã
phải ôm súng xông vào chỗ chết.
Tôi
chán nản ngắt lời:
-
Không, anh hiểu lầm câu hỏi của tôi. Tôi muốn hỏi
anh, từ rày về sau, họ có thể mở ra một cuộc tấn
công theo kiểu Mậu thân hay không?
-
Có lẽ không, vì đâu còn yếu tố bất ngờ nữa. Vả
lại họ cũng rút được bài học về sự sai lầm quá
trầm trọng nầy. Nếu tôi là người đứng đầu miền
Bắc, ít nhất tôi cũng lột lon mấy ông tướng chủ
trương tấn công Mậu thân cho làm binh nhì hay cho về nhà
đuổi gà cho vợ. Sau Mậu thân, họ tăng cường xâm nhập
và tiến hành một cuộc chiến theo đúng bài bản. Họ sẽ
gây áp lực mạnh ở hai tỉnh địa đầu nầy vì dễ xâm
nhập nhất, sau đó là đến vùng rừng núi vì nằm trên
đường mòn Hồ Chí Minh.
-
Có nghĩa là tôi sẽ cùng đơn vị phải trụ lại đây
lâu dài?
-
Theo ý kiến riêng của tôi, sư đoàn Một Bộ binh không
đủ sức ngăn chận sự xâm nhập ồ ạt của miền Bắc
vào vùng nầy. Còn lực lượng tổng trừ bị có thường
xuyên ở lại đây hay không thì tùy thuộc mấy ông tướng
ở tổng tham mưu.
Sau
buổi nói chuyện với Trần Hy, lòng tôi thực nặng nề.
Dự định kết hôn với Thu Hồng đành gác lại. Tôi sẽ
viết thư bàn bạc lại kỹ lưỡng với nàng. Sự trì
hoãn nầy cũng hợp với lòng tôi. Tôi cần phải có thì
giờ giải quyết dứt khoát mối tình xưa cũ của tôi
trước đã.
Tôi
về trình diện tiểu đoàn. Đơn vị vẫn còn đồn trú
tại chỗ để chờ đợi lệnh hành quân. Nhờ đó, tôi
có nhiều ngày rảnh rỗi. Tôi lật giấy viết thư, đề
tên Ngọc Thúy vào đầu trang giấy. Tôi bỗng thấy lòng
quặn thắt. Lý trí tôi đã đi quá xa trong quyết định
từ giã nàng vĩnh viễn, nhưng nỗi đau trong lòng tôi vẫn
chưa chấm dứt.
Cuối
cùng tôi cũng viết xong lá thư thật dài, nói khá tỉ mỉ
về cuộc gặp gỡ định mệnh giữa tôi và Thu Hồng. Tôi
cũng viết rõ chỗ ở của Thu Hồng hiện tại. Tóm lại,
tôi không giấu giếm điều gì cả trong những trang giấy
viết cho nàng. Tôi gởi ngay lá thư nầy đi và mong thư
hồi âm để lần cuối cùng nhìn thấy nét bút của nàng.
Mười
ngày sau, tôi nhận được bức điện với bốn chữ vỏn
vẹn: “Vĩnh
biệt anh yêu”.
Năm hôm sau, tôi nhận được thư bảo đảm. Chữ trên
bao thư đều được đánh máy, địa chỉ người gởi rất
lạ, nhưng tôi đoán biết thư của nàng. Tôi vội bóc thư
ra. Đó chính là lá thư tôi viết cho nàng. Tôi không đọc
lại nhưng lật nhanh để tìm chữ viết của nàng. Tuyệt
nhiên không có. Tim tôi thắt lại khi nhận ra trên trang
thư cuối cùng, có dấu vết vài giọt nước đã khô đi,
ở đó vết mực nhòa đi. Nước mắt của nàng! Nàng đã
khóc khi đọc thư tôi!
Nàng
đã rút lui không một lời một lời oán trách. Tôi đã
giải quyết được gọn gàng chuyện tình cảm của mình.
Tôi không vui mừng mà thấy lòng đau như cắt.
Thôi,
nàng đã thuộc hẳn về dĩ vãng của tôi rồi; mai sau có
gặp lại chúng tôi cũng đối xử với nhau như người xa
lạ. Tôi còn giữ của nàng một kỷ vật đã thành thiêng
liêng. Đó là sợi dây chuyền vàng có mặt là tượng
Phật Bà mà nàng đã cởi từ cổ ra, vừa khóc vừa trao
cho tôi trong lúc giã từ trước đây. Tôi đã mang theo kỷ
vật nầy suốt hơn một năm rồi trên khắp chiến trường.
Biết đâu tượng Phật đã nhiều lần làm lệch hướng
những viên đạn thù từ những họng súng chĩa thẳng vào
tôi.
Bây
giờ, tôi không xứng đáng với sự che chở đó nữa. Gởi
trả lại cho nàng ư? Đây là sợi dây chuyền bằng vàng
khá đắt tiền. Tuy nhiên đối với nàng, giá trị vật
chất của kỷ vật nầy đâu có phải là điều đáng kể.
Biết đâu sợi dây chuyền được trả lại sẽ trở
thành mũi tên bắn thẳng vào quả tim đang rỉ máu của
nàng. Tôi bỏ ý định gởi trả lại, nhưng cũng không
muốn giữ bên mình kỷ vật ấy nữa. Có lẽ, tôi sẽ
tặng lại một cô gái nào đó trên bước đường hành
quân sắp tới của tôi. Ở đây chỉ có những bản làng
của dân tộc thiểu số. Mối tình Văn khoa thơ mộng nầy
sẽ bị chôn vùi trong núi rừng heo hút của dãy Trường
sơn.
Tôi
thở dài, xếp cất lá thư rồi đi kiểm tra trung đội
đang chuẩn bị hành trang cho một cuộc hành quân trực
thăng vận cùng với nhiều đơn vị bộ binh.
Sau
Tết mậu thân, nhờ sự xâm nhập gia tăng từ miền Bắc
vào và nhờ những chia rẽ nội bộ trong cấp lãnh đạo
miền Nam, cộng quân dần dần hồi phục. Bước vào năm
1970, chiến trường nổ ra những trận đánh lớn. Chúng
tôi hành quân liên miên, nay tăng cường chỗ nầy, mai
giải vây chỗ nọ. Tôi không còn dịp về thành phố nữa
nhưng vẫn đều đặn nhận thư Thu Hồng; thỉnh thoảng
có cả thư của bé Thanh nữa. Ngọc Thúy không còn viết
cho tôi một chữ nào nữa. Hình bóng nàng dần dần chìm
sâu trong ký ức tôi. Thỉnh thoảng tôi cũng nghĩ đến
nàng nhưng không còn đau đớn trong lòng nữa. Tôi cũng tự
an ủi rằng chung quanh nàng, có lắm vương tôn công tử
chầu chực đón nhận tình yêu của nàng. Tôi chỉ là một
chiến binh của núi rừng, không nghề nghiệp, không tương
lai, không của cải, mạng sống bấp bênh, càng ngày càng
cách xa với nếp sống nhung lụa trong hiện tại và vai
trò xã hội tương lai của nàng. Chia tay với tôi, nàng sẽ
có một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc hơn. Lập
luận nầy là nhát chổi quét sạch mọi ray rứt trong lòng
tôi khi chợt nhớ lại kỷ niệm về mối tình đầu thơ
mộng của mình.
Trong
lòng tôi bây giờ chỉ còn hình bóng Thu Hồng. Tôi mang
hình bóng nàng trên những nẻo đường từ Khe sanh của
Quảng trị đến A sao, A lưới của Thừa thiên, từ những
vườn dừa bát ngát của Bình định đến vùng núi non
trùng trùng điệp điệp của Pleiku,
Kontum. Có một lần
tôi chuyển quân qua Huế, được dừng lại trong chốc lát
để lính tráng hưởng một tí không khí phố phường.
Thành phố đã được sửa sang lại nhưng đó đây vẫn
còn vương dấu tích của cái Tết Mậu thân kinh hoàng.
Tôi nghĩ đến hài cốt cha và hai anh của người yêu đang
nằm đâu đó dưới nấm mồ vô chủ. Tôi tự nghĩ mình
sẽ tìm lại những hài cốt nầy, một ngày nào đó khi
hòa bình được lặp lại trên quê hương. Tôi viết cho
Thu Hồng ý nghĩ nầy nhưng rồi xé bỏ vì sợ gợi lại
vết thương lòng của nàng.
Tôi
đã làm đơn và lập thủ tục để xin thành hôn với Thu
Hồng. Tôi đã đắn đo rất lâu về việc nầy. Tôi sợ
một mai rủi bỏ thây ngoài chiến địa, Thu Hồng sẽ trở
thành người vợ góa ở tuổi thanh xuân. Sau cùng tôi viết
thư để nói nỗi đắn đo nầy. Nàng trả lời rằng kể
từ khi yêu tôi, nàng không dám ước mơ hạnh phúc bên
tôi. Bây giờ, hạnh phúc đó đang đến với nàng. Nàng
bảo được làm vợ tôi chỉ một ngày thôi, rồi chết
thì nàng cũng vui lòng. Sau khi nhận được lá thư nầy,
tôi xúc tiến hành ngay thủ tục kết hôn.
Song
song với thủ tục kết hôn, tôi cũng phải lo giải quyết
tổ ấm của chúng tôi. Dù vẫn phải theo đơn vị hành
quân, tôi cũng phải có một căn nhà riêng của mình, chứ
không thể để nàng tạm trú mãi trong trường được.
Cũng may, tôi đã có cách giải quyết.
Trước
đây mẹ tôi mất có để lại một số tiền, vòng vàng
nữ trang, giao cho chú tôi cất giữ. Những món đó bán đi
vừa đủ để mua một căn phố nhỏ trong con hẻm gần
trường nàng đang dạy, và sắm sửa cho ngày cưới của
chúng tôi. Việc mua được căn phố nầy để làm tổ ấm
là do sự giúp đỡ tận tình của Thịnh, người bạn rất
tốt của tôi.
Mùa
xuân năm 1972, tôi được giấy phép về Sài gòn. Lễ cưới
diễn ra đơn sơ với sự chứng kiến của gia đình chú
thím tôi, gia đình anh chị Thịnh và số ít bạn bè. Một
người bạn nào đó của tôi đã cho Ngọc Thúy biết. Dù
không nhận được thiệp mừng, nàng vẫn cho người mang
quà đến tặng. Tôi không dám tìm hiểu thêm một điều
gì về nàng. Tuy nhiên, sau đó tôi cũng được biết rằng
nàng vừa xong cử nhân Văn khoa và sắp kết hôn với một
giáo sư đại học. Điều nầy làm cho tôi nhẹ nhàng,
không còn áy náy về việc trước đây nữa. Hạnh phúc
ngày nay của tôi và Thu Hồng thực là trọn vẹn.
Sau
lễ cưới, tôi dùng vài ngày phép còn lại, đưa cô vợ
trẻ đi Đà lạt để hưởng tuần trăng mật. Chúng tôi
nắm tay nhau rong chơi trên các ngọn đồi, tôi dìu nàng
bước qua những gộp đá trơn trợt dưới chân những
thác nước, chúng tôi ngồi nghỉ trên đồi thông, đầu
nàng tựa vào vai tôi, bên gốc cây già. Chúng tôi tận
hưởng hạnh phúc tuyệt vời trong mấy ngày ở xứ anh
đào đó.
Chúng
tôi trở về Sài gòn và ngay hôm sau, tôi giã từ người
vợ mới cưới để trở lại vùng khói lửa.
Về
đến đơn vị, tôi nhận được công điện thăng cấp
trung úy, đồng thời nhận nhiệm vụ Đại đội trưởng
thay cho Đại úy Thành lên chức tiểu đoàn phó. Tôi nhập
hai tiệc làm một để đãi sĩ quan trong tiểu đoàn, tiệc
mừng cưới vợ và mừng lên lon. Bạn bè thông hiểu hoàn
cảnh của tôi nên thay vì quà tặng xa xỉ, họ chung góp
một số tiền kha khá để tôi gởi về cho Thu Hồng.
Chức
vụ mới làm cho tôi bận rộn hơn chức vụ trung đội
trưởng tác chiến trước đây. Tuy nhiên mỗi ngày tôi
vẫn đều viết cho Thu Hồng trong một quyển tập học
trò, vài ba ngày thì tách tờ giấy đầy chữ ra, cho vào
bao thư gởi về nàng. Thư nàng viết cho tôi cũng đều
đặn. Có khi, sau một cuộc hành quân nhiều ngày, tôi trở
về tiền cứ, nhận cùng lúc nhiều lá thư dồn lại, đọc
cả buổi mới hết.
Cưới
vợ xong, sự mặn nồng vừa mới khởi sự đã phải xa
nhau. Đêm đêm đi tuần quanh phòng tuyến, tôi thường
ngước nhìn bầu trời phương Nam, tưởng tượng người
vợ trẻ trong căn nhà nhỏ của chúng tôi. Những đêm
hành quân, nằm trên chiếc võng giăng giữa hai gốc cây
trong rừng, lòng tôi cứ cồn cào nỗi nhớ nhung. Tôi thèm
khát hơi thở của nàng, tôi thèm khát tấm thân trắng
nõn nà mà tôi đã chiêm ngưỡng và trên đó tôi được
hưởng những giây phút rung động tột đỉnh trong cái
đêm hợp cẩn sau lễ cưới của chúng tôi.
Những
phút mơ mộng về đêm ấy thường không trọn vẹn vì
những phát súng từ ngoài bắn vào hay từ trạm gác của
lính canh phòng bắn ra. Tôi bắt đầu căm ghét chiến
tranh. Tôi mơ ước hòa bình để trở về chung sống với
Thu Hồng, để nhìn thấy đứa con đầu lòng ra đời, kết
quả tuyệt vời của tình yêu nồng nàn. Tuy nhiên, tôi
biết rằng chiến tranh chỉ chấm dứt, hòa bình chỉ thực
sự đến cho dân chúng miền Nam một khi chúng ta đẩy lui
được bộ đội miền Bắc về bên kia bờ sông Bến hải.
Điều
nầy càng ngày càng khó khăn, càng xa vời. Sự thâm nhập
từ miền Bắc trở nên ồ ạt mà khả năng ngăn chận
của chúng ta suy giảm đi rõ rệt. Trên các ngõ ngách hiểm
trở và kín đáo của con đường mòn Hồ chí Minh, dọc
theo dãy Trường sơn, họ tràn vào như những đàn kiến.
Chết la liệt nhưng không hề nản chí. Lòng kiên trì và
ý chí sắt đá sẽ chiến thắng
Đúng
như sự nhận định của trung úy Trần Hy mà tôi gặp
trước đây, hai tỉnh Quảng trị và Thừa thiên của vùng
Một Chiến thuật trở thành tiền đồn của Việt Nam
Cộng hòa, nơi nóng bỏng nhất của miền Nam. Vì vậy,
đơn vị tôi thường xuyên trấn thủ nơi đây, việc đi
về thăm viếng và ân ái với người vợ mới cưới
không thể là điều thường xuyên được.
Tuy
thế, tôi cũng cạy cục xin đuợc hai lần nghỉ phép, vào
giữa năm 1972 và đầu năm 1973, khi hiệp định Paris
vừa có hiệu lực. Đó vẫn là những ngày vô cùng hạnh
phúc của chúng tôi. Ở lần thứ nhì, sức khỏe của
nàng có vẻ sa sút. Nàng vẫn tỏ ra tươi thắm cho tôi
vui lòng, nhưng tôi không khỏi lo lắng khi nhìn nét mặt
xanh xao và thân thể gầy ốm của nàng. Bé Thanh kể lại
với tôi, có lần Thu Hồng té xỉu trong lớp khi đang
giảng bài. Tôi đưa nàng đi khám bệnh, người ta cho hay
hệ tim mạch của nàng có điều bất ổn, sức căng động
mạch lên xuống thất thường. Đó có lẽ là kết quả
của sự xúc động xưa kia, cộng thêm với sự lo nghĩ
thường xuyên của nàng cho đời sống bấp bênh của tôi.
Bác sĩ cho thuốc và khuyên nên giữ tinh thần thực bình
thản, tránh những cảm xúc mạnh.
Hết
phép, tôi từ giã nàng, ra đi mà lòng nặng trĩu lo âu.
Tôi
cầu mong hiệp định Paris
được tôn trọng, dù chưa có hòa bình vĩnh viễn thì ít
nhất cũng bớt được cảnh máu đổ thịt rơi. Nếu tình
hình thực sự bớt căng thẳng, thì tôi có thể cùng đơn
vị trở vào Nam và sẽ có dịp gần gũi để săn sóc cho
nàng. Tôi nghĩ rằng những người bộ đội bên kia chiến
tuyến cũng ước mơ như tôi. Họ có mẹ, có vợ, có
người yêu ở ngoài miền Bắc xa xôi và chắc chắn ngày
đêm cũng hướng về quê nhà, mong chiến tranh chấm dứt
để quay về đoàn tụ với người thân. Chúng tôi, những
người lính chiến hai bên cùng chung dòng máu, cùng chung
tâm trạng, nhưng chúng tôi đã phải xả súng bắn vào
nhau vì tham vọng của những nhà lãnh đạo miền Bắc.
Đau đớn biết chừng nào!
Chúng
tôi đều hi vọng nhiều ở hiệp định Paris.
Nhưng chúng tôi đã thất vọng. Hiệp định nầy chẳng
những không đem lại hòa bình mà còn làm cho chiến tranh
tăng thêm cường độ. Bên kia, người và khí cụ ồ ạt
đổ vào. Bên nầy, người Mỹ cuốn gói bỏ đi, viện
trợ quân sự của họ nhỏ giọt cho có lệ, sự yểm trợ
của không quân và pháo binh phải dè sẻn làm cho những
cuộc hành quân của lục quân trở nên khó khăn và nguy
hiểm.
Giữa
tháng 5 năm 1974, tiểu đoàn tôi được lệnh chiếm lại
một quả đồi ở vùng A lưới, trước đó do một đơn
vị địa phương quân trấn đóng và bị cộng quân tràn
ngập. Ngọn đồi nầy là một trong những điểm chiến
lược quan trọng. Nó góp phần kiểm soát con đường nối
liền quận lỵ với thành phố Huế. Đối với ta, con
đường nầy quan trọng vì đó là đường giao thông huyết
mạch để bảo vệ biên giới rừng núi chập chùng. Đối
với địch, con đường nầy càng quan trọng hơn vì đó
là cửa ngõ đầu tiên của những toán quân vượt Trường
sơn của Bắc Việt đổ xuống miền duyên hải, cắt đứt
một phần vùng Một Chiến thuật khỏi phần còn lại của
Việt Nam Cộng hòa.
Nửa
đêm, tiểu đoàn được quân xa mở đèn mắt mèo chở đi
và đổ quân cách xa quả đồi hơn ba cây số rồi đi bộ
đến nơi. Trận đánh sẽ bắt đầu khi trời mờ sáng.
Đại
đội Một của tôi là đại đội chủ lực của tiểu
đoàn. Chúng tôi được lệnh, từ chân đồi phía bắc
tiến nhanh lên chiếm đỉnh đồi. Đại đội Hai phục ở
phía nam, làm nghi binh. Mười phút trước khi chúng tôi
xuất phát, đại đội nầy sẽ nổ súng, tiến lên một
đoạn rồi dừng lại để lôi cuốn sự chú ý của địch
quân về mặt nầy. Lực lượng còn lại của tiểu đoàn
mai phục quanh hai mặt khác và sẽ tiêu diệt tàn quân sẽ
bị chúng tôi đánh bật khỏi ngọn đồi.
Tôi
dẫn đại đội đến tuyến xuất phát. Nơi đây có những
bụi cây lúp xúp chen giữa vùng cỏ cao khỏi gối. Tôi
phân vị trí cho các trung đội ẩn núp kỹ và chờ lệnh
tấn công. Phía trên vài thước là sườn đồi trọc, mấp
mô đất đá. Tất cả đại đội chúng tôi đã sẵn
sàng.
Nơi
phương đông bên tay trái chúng tôi, mặt trời rọi những
tia sáng đầu tiên làm sáng rực dải mây trôi bồng bềnh.
Một loạt đạn đại bác và súng cối rót lên đỉnh đồi
nổ tung; đất đá, khói bụi văng lên mù mịt. Đại đội
Hai nổ súng, reo hò tở mở. Tôi nhìn đồng hồ tay. Đạn
pháo tiếp tục rót lên đồi nhưng trên đó, những tràng
đạn liên thanh bắt đầu bắn xuống về phía đại đội
Hai. Tôi hi vọng họ trúng kế, đã đưa súng máy sang qua
phía đó. Tôi lại nhìn đồng hồ, tới giờ rồi; trong
máy vô tuyến có lệnh xuất phát. Tôi ra ám hiệu, ba
trung đội chia làm ba mũi vọt lên. Được lưng chừng đồi
thì đạn bên trên bắn xuống như mưa, vài người lính
của tôi đã ngã gục. Những người khác chậm lại, bám
từng hốc đá, từng mô đất, vừa nhả đạn, vừa tiến
lên. Tôi ngồi núp sau một gò mối, người lính ôm máy
truyền tin ở sát bên cạnh. Trước mắt tôi, trung đội
Một mọp sát đất bò lên chậm chạp; thấp hơn một
chút về bên trái là trung đội Hai, bên phải là trung đội
Ba. Sau lưng tôi trung đội đại liên và súng cối sẵn
sàng chờ lệnh.
Tôi
cố nhìn lên đồi để tìm những ổ súng máy của địch.
Tôi liên tục cho tọa độ để súng cối nả vào. Đạn
nổ tung, từng cuộn khói và đất đá văng lên. Ổ liên
thanh trên đồi im tiếng. Lợi dụng thời gian họ chưa
kịp bố trí cây súng máy khác, tôi khoát tay ra lệnh cho
cả ba trung đội tiến nhanh hơn. Họ tuân lệnh bò lên,
súng trên tay, nòng súng liên tục toé lửa. Tôi rời chỗ
núp ra lệnh cho những người ở gần cùng nhả đạn về
phía trước. Tôi và anh lính truyền tin lom khom băng lên,
vào giữa vị trí trung đội Một. Thiếu úy Tánh, trung
đội trưởng quay lại nhìn tôi. Tôi ra hiệu cho cả trung
đội cắm lưỡi lê vào súng, chuẩn bị xáp lá cà. Tôi
quay lại chú lính truyền tin bảo xin súng cối của tiểu
đoàn rót liên tục lên đỉnh đồi, chính xác trong mười
phút kể từ phát đạn đầu tiên rồi ngưng ngay để đại
đội xung phong lên đánh cận chiến. Tôi nhìn đồng hồ.
Họ đã làm y như thế. Tiếng pháo vừa dứt, tôi bóp hết
một băng đạn M16 và hô xung phong. Tiếng hò hét vang rền,
cả đại đội lao lên. Bên trên, vẫn còn nhiều tay súng
bắn xối xả, một số lựu đạn tung xuống nổ ầm ầm,
nhiều chiến sĩ của tôi ngã gục lăn xuống chân đồi.
Tôi thấy rất rõ một quả lựu đạn rơi ngay chỗ trung
sĩ nhất Đát. Tôi dừng lại la thực to:
-
Đát, coi chừng!
Tôi
thấy anh đưa tay chụp quả tạc đạn có lẽ định quăng
đi nhưng không kịp, nó nổ trên tay, anh bật ngửa nằm
im bất động. Đát là tiểu đội trưởng giỏi nhất của
trung đội mà tôi chỉ huy trước đây. Tôi điên cuồng
thét to, cùng những anh em khác tiếp tục lao lên chiếm
được đỉnh đồi.
Ngọn
đồi tan hoang, đầy xác chết. Một số cộng quân còn
sống sót chạy xuống đồi về hướng Nam nhưng bị bắn
gục vì đại đội Hai đang phục ở đó. Một số khác
đầu hàng nhưng lính của tôi xả súng bắn chết hết.
Tôi nhắm mắt lại. Thực là quá tàn nhẫn cuộc chiến
tranh nầy!
Tôi
nhìn quanh, mặt bằng đỉnh đồi gần như trơ trụi. Dãy
nhà đồn trú ở trung tâm cháy rụi, vài sợi khói mỏng
bốc lên. Vài cây cột đen thui còn đứng thẳng hay ngã
nghiêng đầu bị xơ ra vì mảnh đạn, bờ tường bằng
bao đựng đất bên trong, đổ sập hoàn toàn. Giữa những
bao đất ngổn ngang, ló ra một cái đầu, nơi khác một
cặp chân và nửa thân mình cháy nám, tiệp với màu đen
của đống tro tàn.
Khắp
nơi, mặt đất bị xới tung vì đạn pháo. Tôi nhận ra
dấu vết của một sân bóng chuyền trên đó có mấy xác
chết, cái thì nằm sóng soài, cái thì co quắp bên vũng
máu đã ngã sang màu đen khô cứng. Tôi bước ra mé sườn
đồi nhìn xuống. Xác chết rải rác khắp nơi. Tôi phân
biệt được xác đồng đội qua màu quân phục rằn ri và
xác đối phương nhờ sắc áo màu xanh cây rừng. Một số
lính của tôi đã quay xuống, lom khom săn sóc cho những
người bị thương.
Một
tay tôi đưa lên bóp mạnh vào cổ để chận cơn buồn
nôn từ bụng dồn lên, tay kia đưa lên dụi mắt nhưng
không chận được hai giọt nước có lẽ từ tim tôi trào
ra. Tôi gọi các trung đội trưởng đến bảo từng trung
đội báo cáo thiệt hại của mình và ước lượng xác
phe địch còn để lại trên chiến trường. Tôi lấy sổ
tay ra ghi con số, cộng lại và lần nầy nữa tôi đưa cả
hai tay lên đè mạnh vào hai mắt để ngăn dòng nước
mắt. Các sĩ quan trung đội trưởng mắt cũng đỏ hoe.
Chiếm được đỉnh đồi nầy rồi, một phần ba anh em
trong đại đội tôi không còn bao giờ thấy mặt trời
trên đầu mình nữa.
Tôi
cho lệnh thu dọn chiến trường, Người bị thương của
cả hai bên và xác chết của anh em thì mang lên đỉnh đồi
chờ trực thăng tải thương. Xác của đối phương thì
mang xuống chân đồi chôn chung vào một hố. Tôi dặn
chôn xa con suối vì dòng nước rất cần thiết cho sự
sống trong bao nhiêu ngày còn ở lại đây không thể nào
biết được. Các trung đội nhận lệnh đi ra. Tôi yên
tâm, họ đã quá quen với công việc rồi.
Tôi
ngoắt cậu binh sĩ truyền tin lại gần và đích thân báo
cáo với tiểu đoàn. Giọng tôi nghẹn ngào; tôi nghe trong
máy giọng thiếu tá tiểu đoàn trưởng cũng nghẹn ngào
như tôi. Thiếu tá bảo tôi dọn dẹp gấp để chuẩn bị
bãi đáp trên đỉnh đồi cho trực thăng. Không bao lâu,
trực thăng đến tiếp tế đạn dược, thực phẩm, lều
vải rồi mang người bị thương và xác chết đi.
Suốt
buổi chiều, từng chặp, từng chặp, tôi liên lạc với
tiểu đoàn. Đại đội tôi ở lại giữ ngọn đồi, các
đại đội khác được rút đi nơi khác. Tôi đoán họ
phải lao vào một trận chiến khác không kém phần ác
liệt.
Sau
chiến công nầy, tất cả chúng tôi, kể cả người chết
đều được thăng một cấp. Tôi lên đại úy kể từ
hôm đó.
Tờ
mờ sáng hôm sau, tiểu đoàn trưởng ra lệnh chúng tôi
củng cố tối đa tuyến phòng thủ, đào thêm hố cá
nhân, tận dụng các bao đựng đất để lập chiến lũy
và nếu có thể, đào cả giao thông hào nữa. Nghe giọng
nói và tiếng thở hổn hển của vị sĩ quan thượng cấp,
tôi đoán biết tình hình sẽ rất nghiêm trọng. Tôi ra
lệnh lại cho các trung đội và bảo họ cho lính mang tất
cả mìn claymore
ra gài ở lưng chừng đồi. Càng về chiều, không khí
càng nặng nề hơn. Tôi đoán đêm nay, trên ngọn đồi
nầy sẽ xảy ra một trận huyết chiến. Tôi nghĩ đến
Thu Hồng, hình dung vành khăn trắng trên đầu nàng. Ôi,
chiếc đầu bé nhỏ đã nhiều đêm kê trên cánh tay tôi!
Ôi, tình nghĩa vợ chồng chưa kịp nồng ấm thì tôi đã
vội ra đi!
Tôi
nằm xuống đất trên chiếc poncho,
cố ngủ một chút để quên nỗi bi thương và để đêm
nay phải thức suốt đêm. Tôi chưa kịp chìm vào giấc
ngủ thì trung đội trưởng trung đội Ba hộc tốc vào
lôi tôi dậy, bảo đã quan sát thấy “họ” di chuyển
xa xa. Tôi chụp vội ống nhòm, chạy ra ụ gác dã chiến
làm bằng những bao đất chồng chất lên nhau. Tôi đưa
ống nhòm lên về hướng chỉ của người lính gác. Tôi
đã nhìn thấy họ rồi, một người rồi hai người chạy
lúp xúp qua một khoảng trống, hai bên cây cối um tùm.
Chỗ họ di chuyển xa lắm, ước lượng đến hơn bảy
cây số. Nhìn thấy họ xa thế nầy thì hẳn quân số họ
đông lắm đang ẩn mình trong khu rừng rậm rạp kia.
Tôi
chạy trở vào, báo cáo ngay cho tiểu đoàn. Tôi nghe giọng
trả lời bên kia bảo rằng sự quan sát của tôi phù hợp
với tin tình báo của các trinh sát tiền phương, ước
lượng họ đang tập trung từ một đến hai trung đoàn.
Tôi chụp ngay bản đồ chấm tọa độ nơi tôi thấy họ
di chuyển và xin pháo nả đạn vào. Đầu dây bên kia bảo
rằng chỗ đó ngoài tầm pháo của lữ đoàn, nên sẽ
chuyển đề nghị lên quân đoàn. Tôi tiếp tục xin phi cơ
xạ kích. Bên kia hứa làm theo lời yêu cầu, nhưng tôi
đợi mãi chẳng thấy một phi cơ nào cả.
Tôi
cho lệnh cả đại đội chuẩn bị tác chiến, mọi người
đều túc trực ngoài tuyến phòng thủ. Đêm đó tôi thức
suốt đêm ngồi bên máy truyền tin, thỉnh thoảng đi một
vòng từ điểm gác nầy đến điểm gác nọ. Tôi dừng
lại nơi một vọng gác của trung đội hai, vịn vai người
lính, kê miệng vào tai hỏi nhỏ:
-
Sợ không?
Người
lính trả lời:
-
Không sợ đâu, thưa đại úy. Mong cho họ tới ngay để
choảng một trận. Chờ đợi thế nầy nản lắm.
Nghe
giọng nói, tôi biết đó là binh nhất Cung, vừa tròn hai
mươi tuổi, quê ở Bến tre, hiền lành, cây đánh bóng
chuyền số một của đại đội. Tôi vuốt má của cậu
ta, lật nón sắt về sau và hôn lên trán. Dưới ánh sao
lờ mờ, tôi xót xa nhận ra nụ cười rạng rỡ của nó.
Thời
gian chầm chậm đi qua. Tôi trở vào lều, nằm lắng nghe
tiếng gió rừng rít ào ào từng cơn; tôi tưởng tượng
đó là tiếng động do các oan hồn tử sĩ bay lượn gây
nên. Tôi ngủ thiếp đi được một chốc thì trời rựng
sáng. Một đêm yên tĩnh vừa đi qua, ánh bình minh đem sự
sống lại cho vạn vật trong đó có những người lính
chiến chúng tôi. Tôi ra lệnh cho mỗi trung đội phân công
một người canh gác luân phiên, những người khác phải
ngủ ban ngày thay cho ban đêm. Tôi ăn một hộp lương khô
rồi đánh một giấc đến gần đứng bóng. Vừa thức
dậy, tôi đi ngay ra ngoài. Trong các lều vải anh em người
thì ngủ, người ngồi ăn trưa. Tôi đến vọng gác của
trung đội một, hỏi người lính:
-
Từ sáng đến giờ mày có thấy chúng nó di chuyển không?
-
Không thấy, đại úy. Có lẽ cánh quân đó di chuyển suốt
một ngày và một đêm xong rồi. Những cánh quân khác
chắc cũng đã đến.
Cậu
ta lấy tay chỉ xuống khu rừng dày đặc bên dưới, nói
tiếp:
-
Em tưởng tượng dưới những tàn cây đó, họ đang đi
chầm chậm, lúc nhúc như một đàn kiến lửa. Đêm nay,
đàn kiến sẽ xông lên đốt cháy chúng ta.
Tôi
cười:
-
Phải hạ ngay dưới chân đồi, đừng để đàn kiến leo
lên đây.
Nói
xong, tôi vỗ vai anh ta và quay lui. Đúng lúc đó, cậu
truyền tin gọi tôi vào nghe máy. Tiếng tiểu đoàn trưởng
lại vang lên trong hơi thở hổn hển:
-
Hoa hồng, Hoa hồng, Mặt trời gọi, nghe rõ không, trả
lời.
Tôi
đáp:
-
Mặt trời, Mặt trời, Hoa hồng nghe rõ. Đợi lệnh, trả
lời.
-
Địch sắp tấn công. Lệnh cho đơn vị cố thủ, áo quần
chỉnh tề, mũ sắt hai lớp không có lưới. Tôi lặp lại
lần thứ hai: áo quần chỉnh tề, mũ sắt hai lớp không
có lưới. Nghe rõ và hiểu không, trả lời.
-
Rõ rồi, chấm dứt.
Thế
là tôi hiểu rồi. Địch đang tập kết đông đúc. Đại
đội tôi còn đúng năm mươi sáu người, chưa tới phân
nửa quân số chính thức. Chỉ cần họ mang đến một
tiểu đoàn đủ quân thì chúng tôi phải một chọi sáu
hay bảy. Nếu họ mang đến một trung đoàn thì sự chênh
lệch lực lượng còn ghê gớm hơn nữa. Tiểu đoàn
trưởng đã cho lệnh “áo
quần chỉnh tề”
có nghĩa là chuẩn bị rút lui khi có lệnh. “Mũ
sắt hai lớp không có lưới”
nghĩa là tự tìm hướng và mở đường máu rút lui, không
có sự yểm trợ hay cứu viện.
Đó
là mật khẩu nội bộ trong tiểu đoàn chúng tôi, chỉ
ban ra khi tình hình hết sức nguy ngập. Tôi triệu tập
các trung đội trưởng và trung đội phó lại để phổ
biến lệnh vừa nhận của tiểu đoàn. Chúng tôi đều
nhận định địch sẽ tấn công vào đêm nay. Thượng sĩ
Giáp trung đội trưởng trung đội ba nói:
-
Tiểu đoàn biết địch tập trung một lực lượng rất
đông và chúng ta không thể nào giữ được cứ điểm
nầy. Tại sao không cho chúng ta rút lui ngay bây giờ?
Tôi
giải thích:
-
Đây là một cứ điểm chiến lược quan trọng cần phải
giữ để bảo vệ con đường liên lạc về Huế. Chúng
ta đã mất mấy chục anh em để chiếm lại cứ điểm
nầy. Cần phải giữ cho đến cùng. Vả lại ý đồ của
địch chiếm lại đỉnh đồi nầy chỉ mới nằm trong sự
ước lượng của ta mà thôi. Không lẽ địch chưa đánh
mà ta bỏ chạy sao?
Thiếu
úy Tánh chen vào:
-
Tuy đại đội chúng ta thiếu hụt quân số nhưng trước
khi rút lui, ta cũng phải bắt họ phải trả giá chứ. Kể
cả khi họ đã tràn ngập đồi nầy, chưa kịp bố trí
thì sẽ bị các đơn vị khác của ta trực thăng vận đến
phản công và tiêu diệt.
Thượng
sĩ Giáp gật đầu:
-
Thiếu úy Tánh nói đúng. Nếu họ tấn công chúng ta thì
phải trả giá rất đắt. Vì vậy lữ đoàn muốn chúng
ta ở lại đây để nhử họ, có nghĩa là chúng ta đang
làm củ khoai để nhử con chuột đến, phải không?
Tôi
cười:
-
Có thể đúng thế.
-
Coi chừng, con chuột bị đập chết thì củ khoai cũng nát
nhừ.
Cả
đám cười hô hố, dù biết rằng có thể đêm nay Tử
thần sẽ đến đây thu nhặt linh hồn chúng tôi.
Theo
lời đề nghị của các trung đội trưởng, tôi đồng ý
cho mọi binh sĩ đều biết để họ chuẩn bị hành trang.
Chúng tôi hiểu rõ tinh thần của chiến sĩ trong đại
đội, chắc chắn họ sẽ không run sợ hay hoảng loạn
khi nhận được lệnh nầy. Quả thực vậy, suốt buổi
chiều, không khí trên đồi vẫn bình thản, đó đây vẫn
có tiếng cười đùa, ca hát vui vẻ. Bảo cố thủ thì họ
sẽ ở lại chờ cái chết; bảo trốn chạy thì họ cũng
sẵn sàng. Nơi chiến trường, khi địch quá đông, đánh
không lại thì ta bỏ chạy, chẳng có gì xấu hổ cả.
Các
cấp chỉ huy trong đại đội cùng đi một vòng, quan sát,
chọn con đường máu. Chúng tôi bàn bạc để quyết định
hướng xuống đồi. Hướng Nam và hướng Đông thuận lợi
nhất vì có thể nhanh chóng chạy ra đường lộ. Hướng
Bắc cũng khá thuận lợi vì có thể băng rừng chạy
quành ra quốc lộ số một về Huế. Chỉ có hướng Tây
bất lợi nhất vì hướng nầy chĩa thẳng lên đường
mòn Hồ chí Minh rồi sang Hạ Lào. Chúng tôi quyết định
mở đường máu để xuống đồi theo hướng bất lợi
nầy để gây yếu tố bất ngờ cho địch.
Chúng
tôi cho rằng các vị chỉ huy của Cộng quân ắt phải
hiểu rằng với quân số tuyệt đối áp đảo, họ sẽ
nhanh chóng tràn ngập ngọn đồi nầy, chúng tôi sẽ mở
đường máu rút lui và họ sẽ đánh chận để tiêu diệt
gọn. Do đó họ sẽ tập trung quân vào ba hướng thuận
lợi và bỏ lỏng hướng tây. Chúng tôi không chắc lắm
về sự suy đoán của mình, nhưng tạm thời chọn giải
pháp nầy vì không có giải pháp nào hữu lý hơn.
Tôi
cho tháo gỡ và gom tất cả mìn claymore,
gài trở lại dài trên con đường máu, từ lưng chừng
đến tận chân đồi và xa hơn nữa nếu còn đủ dây dẫn
điện. Trước khi lao xuống để trốn chạy, chúng tôi sẽ
châm ngòi một lượt để xua đuổi kẻ địch nào còn
lảng vảng ở đó. Chúng tôi sẽ xông xuống một lượt
khi có lệnh. Phải nhanh chóng vì pháo binh và cả phi cơ
nữa sẽ có thể san phẳng ngọn đồi nầy để tiêu diệt
các toán quân địch vừa mới tràn lên. Khi xuống đến
chân đồi, chúng tôi sẽ phân tán mỏng vì tập trung đông
dễ bị địch phát hiện. Mỗi người sẽ tự tìm đường
ra quốc lộ hoặc về Huế và trình diện với đơn vị
quân đội nào gặp đầu tiên.
Quả
nhiên, mọi việc diễn ra như chúng tôi dự đoán. Đúng
chín giờ tối, cộng quân bắt đầu tấn công bằng một
loạt pháo kinh thiên động địa. Tôi mọp trong hầm núp
và liên lạc với tiểu đoàn. Ngay sau những tiếng nổ
đầu tiên, tôi nhận ngay lệnh mở đường máu rút lui.
Tôi đoán lực lượng cộng quân rất lớn nên lệnh rút
lui mới ban ra sớm như vậy. Tôi áp mạnh ống nghe vào
tai để lắng nghe tiếp vì đạn pháo của Việt cộng vẫn
nổ vang rền. Tiểu đoàn trưởng cho chúng tôi năm mươi
phút đúng để rời khỏi ngọn đồi, nếu chậm trễ,
chúng tôi có thể bị banh thây vì đạn pháo của chính
phe mình. Tôi báo rằng địch đang pháo dữ dội, không
biết bao giờ mới chấm dứt nên xin thêm thời gian. Tiểu
đoàn không chấp nhận vì đó là quyết định của cấp
cao hơn nhiều. Nói xong thì cúp máy; từ đó tôi không còn
liên lạc với tiểu đoàn nữa.
Tất
cả chúng tôi đều sẵn sàng rút lui, sốt ruột chờ đợt
pháo của cộng quân ngưng nổ. Chúng tôi cúi sát đầu
trong hầm trú ẩn, chẳng buồn quan sát bên dưới chân
đồi nữa. Pháo đang nổ thì chắc chắn bộ binh của
địch cũng nằm yên; khi pháo ngưng nổ, họ sẽ xung
phong.
Tôi
để ý thấy chỉ một ít đạn rơi trên mặt đỉnh đồi,
nơi chúng tôi đang trú ẩn. Đa số rơi trên sườn và
chân đồi, vài trái nổ xa hơn. Có lẽ dàn pháo của họ
đặt hơi xa, thiếu chính xác. Tôi mừng thầm, điều nầy
có nghĩa là thiệt hại của chúng tôi trong loạt pháo nầy
sẽ rất nhẹ và vòng vây của cộng quân chưa siết chặt
lắm. Lao xuống đồi để chạy trốn, chúng tôi sẽ ít
gặp nguy hiểm hơn.
Tôi
liên tục nhìn đồng hồ, cây kim dạ quang vẫn chạy đều
đều, thời gian tiểu đoàn cho chúng tôi ngắn dần mà
những tiếng nổ cứ tiếp tục làm rung chuyển mặt đất.
Bỗng
pháo ngưng. Những tiếng nổ rền vọng xa xa rồi im bặt.
Núi rừng phút chốc rơi vào sự vắng lặng lạ lùng. Tôi
đoán trong đêm tối, mọi cặp mắt của anh em đang hướng
về hầm trú ẩn của tôi. Hai tay tôi đang cầm cái cần
quay của máy phát điện. Nếu tôi nhấn mạnh, những quả
mìn claymore
sẽ đồng loạt nổ và đó là hiệu lệnh chính thức để
mở đường máu. Tim tôi đập thình thịch. Pháo của địch
ngưng luôn, hay đó chỉ là loạt thứ nhất, tạm ngưng để
dụ chúng tôi ra khỏi hầm thì loạt thứ hai dập xuống?
Tim
tôi thót lên, từ chân đồi, tiếng xung phong đột nhiên
vang rền, cùng lúc với tiếng đạn xé không gian từ dưới
bắn lên, nhiều tiếng nổ của đạn súng cối rơi trúng
đỉnh đồi. Tôi vội nhấn mạnh cần máy phát điện,
một loạt tiếng nổ làm rung rinh mặt đất. Từ dưới
những hố cá nhân, nhiều bóng đen vọt lên, lao xuống
đồi trong mùi thuốc súng khét nghẹt. Trong đêm tối lờ
mờ, tôi thấy vài người trong chúng tôi ngã chúi xuống,
không biết vì trúng đạn hay vấp phải rễ cây. Mặc,
tôi cứ phóng chạy, không thể dừng lại được. Tôi cứ
nhắm hướng phía trước mà tiến tới. Tiếng súng lớn
súng nhỏ vẫn nổ vang rền xen lẫn với tiếng thét xung
phong, thúc tôi chạy nhanh về phía trước.
Quá
chân đồi hơn một trăm thước, bắt đầu rừng già. Tôi
không chạy được nữa vì sợ va vào gốc cây. Tôi vẫn
sải bước, căng mắt ra mà nhìn về phía trước. Bên
dưới những tán cây cao, đường đi không khó lắm; thỉnh
thoảng, tôi va vào một lùm cây nho nhỏ mà tôi có thể
vượt qua dễ dàng. Đôi khi dây leo quàng qua vổ tôi giật
lại, tôi dùng tay gỡ rồi mọp xuống đất để chui qua.
Được
thêm một đoạn nữa, tôi mệt gần đứt hơi. Tiếng súng
đã thưa và cách một khoảng khá xa sau lưng tôi. Tôi đi
chậm lại lê từng bước. Tôi cần phải đi khỏi chỗ
nầy, càng xa càng tốt để khỏi rơi vào các toán quân
địch có thể đang ở quanh đây để yểm trợ cho cánh
quân vừa xung phong lên đồi. Tôi lắng nghe tiếng phi cơ
lên oanh tạc nhưng không có gì cả. Tôi tự hỏi những
tiếng nổ to khi chúng tôi chạy xuống đồi có phải là
pháo bên mình bắn vào để tiêu diệt địch tràn ngập
đỉnh đồi hay không.
Ý
nghĩ nầy làm tôi dừng lại, quay nhìn ngọn đồi nhưng
không thấy gì cả vì tôi đang ở giữa rừng cây um tùm.
Tôi lắng tai nghe. Súng đã ngưng nổ, đêm rừng rơi vào
sự tĩnh mịch mênh mông. Tôi kiểm soát lại hành trang
của mình. Còn được cây súng, cái túi đeo lưng đầy
những gói cơm khô, trong đó vẫn còn sợi dây chuyền
vàng mà Ngọc Thúy tặng tôi trước đây. Tôi muốn đi
tới nhưng không nhấc chân lên đuợc, nên đành ngồi
xuống tựa lưng vào một gốc cây, lắng nghe có kẻ thù
hay đồng đội quanh đây hay không. Hoàn toàn vắng lặng.
Tôi cảm thấy cô đơn giữa chốn núi rừng âm u nầy.
Tôi thở dài, cúi gập về trước dùng hai tay xoa bóp mạnh
hai chân cứng đờ.
Một
lát sau, tôi ngẩng lên cố định hướng nhưng không thể
nào định được. Tôi ngước nhìn lên, một vùng tối
đen không một ánh sao vì tất cả bị tàn lá cây rừng
che khuất. Mà dù có nhìn được ánh sao thì tôi cũng
không định hướng được. Tôi chỉ quen với chiếc la
bàn nhưng tôi đã để lại tiền cứ khi có lệnh xung
phong lên chiếm đồi. Tôi đâu có tiên đoán được cái
cảnh phải lạc lõng một mình giũa núi rừng như hôm
nay.
Tôi
đứng dậy lần mò bước tới trước, về phía mà tôi
định chừng là hướng tây. Tôi nghĩ rằng phải đi về
hướng nầy thêm một khoảng nữa mới yên tâm rời khỏi
vùng tập kết của quân thù. Sau đó tôi sẽ rẽ sang
hướng khác để tìm ra quốc lộ.
Trước
mặt tôi là quả đồi trọc hiện ra lờ mờ dưới ánh
sáng của những vì sao, tôi mừng rỡ leo lên. Dốc đồi
thoai thoải nhưng tôi phải cố gắng từng bước, một
lúc khá lâu mới lên đến đỉnh đồi. Tôi nhìn quanh cố
tìm quả đồi đẫm máu mà tôi vừa thoát ra. Ánh sáng
quá mờ nhạt, tôi chỉ thấy đồi núi chập chùng, rừng
cây bát ngát không phân biệt được gì cả. Tôi leo xuống
đồi theo hướng ngược với lúc đi lên. Đến chân đồi
thì trước mặt tôi là một vệt đen nơi bắt đầu một
khu rừng khác. Có tiếng gà rừng eo óc gáy từ trong đó
vọng ra. Tôi đã kiệt sức và thèm nằm xuống nơi nầy
để ngủ. Nhưng tôi biết rằng tôi đang đứng nơi trống
trải, biết đâu quanh đây kẻ thù đang dừng quân hay
đang di chuyển. Nếu tôi ngủ lại nơi đây, khi trời sáng
hẳn, họ sẽ nhận thấy tôi tức thì.
Tôi
đứng lên chui vào khu rừng trước mặt, đi sâu vào cho
đến đi không còn cất bước được nữa. Tôi nằm lăn
trên đám lá khô và ngủ thiếp đi.
Khi
tôi tỉnh dậy thì trời sáng hẳn. Tôi đứng lên nhìn
quanh, cố nhớ lại mình đã đến đây từ hướng nào.
Chịu thôi, không thể nào nhận ra được; chung quanh, chỗ
nào cũng là thân cây cao vút thẳng tắp, tàn lá mãi tận
trên cao nơi có rải rác những đốm sáng của bầu trời
bình minh.
Có
tiếng vượn hú xa xa nghe não ruột. Tiếng hú cao vút, lúc
đầu thong thả, càng lúc càng gấp rút sau cùng đổ hột
nhanh để kết thúc. Tôi đang đi trên đoạn đường đời
cay đắng, biết bao giờ mới kết thúc như tiếng vượn
hú kia?
Tôi
quay lưng lại và nhận ra một mảng trời sáng sủa sau
những thân cây. Tôi sực nhớ, lúc gà rừng eo óc gáy,
tôi vừa xuống một ngọn đồi và chui vào khu rừng nầy.
Mảng sáng kia có phải là nơi tôi đã đi qua không. Mặc
kệ, tôi vẫn mừng vì đó là nơi quang đãng, tôi sẽ
nhìn được bầu trời cao, nhìn ánh dương để nhắm
hướng trở về với đồng đội. Ý nghĩ nầy làm cho sức
sống cuồn cuộn dâng lên trong tôi. Tôi đứng dậy nhắm
thẳng vùng sáng đó rảo bước.
Những
thân cao vừa chấm dứt là tôi bị chận đứng lại ngay.
Trước mặt tôi, bên trên là bầu trời rực rỡ, bên
dưới là một khe rất sâu. Tôi đang đứng trên bờ vực.
Mép vực bị những lùm cây lúp xúp che khuất. Tôi rùng
mình. Nếu đêm hôm trước tôi không dừng chân mà cứ
thẳng bước tới trước thì tôi đã băng qua bụi cây và
rơi tòm xuống duới kia, thân xác bầm dập của tôi đã
nằm vắt vẻo trên những tảng đá chông chênh.
Tôi
nhìn xuống dưới. Một dòng nước nhỏ róc rách qua kẽ
đá. Đây có lẽ là một dòng suối lớn vào mùa mưa nên
vẫn còn một dòng nước nhỏ ở cuối mùa nắng hiện
nay. Tôi quay lưng lại. Trên ngọn cây cao, tôi nhìn thấy
mây hồng sáng rực ánh dương. Đó là hướng đông, hướng
có quả đồi kinh khiếp mà tôi vừa trốn khỏi. Thế là
tôi đã đi suốt đêm về hướng tây, tôi yên tâm vì có
thể đã xa vùng nguy hiểm. Bây giờ, không nên tiếp tục
về hướng tây nữa mà cần phải đổi hướng. Vả lại
khe suối trước mặt quá sâu, vượt qua được cũng là
điều vất vả. Dòng nước cắt ngang nầy có lẽ sinh ra
để nhắc cho tôi quyết định thay đổi hướng đi.
Đi
về hướng nào? Tôi có hai hướng để chọn lựa: hướng
Bắc và hướng Nam. Nhưng tại sao không xuôi theo dòng suối
trước mặt mà đi. Mọi dòng suối đều chảy ra sông,
mọi dòng sông đều chảy ra biển. Tôi sẽ theo dòng suối
nầy, nó sẽ dẫn tôi đến dòng sông Hương, từ đó tôi
sẽ giả dạng thường dân đi bộ men theo sông hoặc nhờ
ghe về Huế.
Sau
ý nghĩ nầy, tôi hăm hở đứng lên tiến bước. Được
vài trăm thước, tôi bỗng giật mình. Nơi đây đâu phải
lưu vực riêng của sông Hương, mà còn là lưu vực của
các nhánh sông Cửu long. Nếu theo con suối nầy thì có
thể phải vượt qua trên ba trăm cây số, ngang qua Hạ Lào
mới đến dòng Cửu long rồi vượt thêm hai ngàn cây số
nữa mới đến bờ biển! Tôi dừng lại, bật cười với
ý nghĩ nầy. Bỗng tôi run lên khi nhớ lại tấm bản đồ
quân sự. Tôi đã đánh mất nó ở đâu rồi. Đối với
một đại đội trưởng, cây súng và tấm bản đồ có
tầm quan trọng ngang nhau. Trong những ngày hành quân, khi
ngủ tôi lót dưới đầu, khi đi tôi cầm nó trên tay. Nay
không còn nữa. À, có lẽ tôi đã để quên khi cầm cái
cần máy phát điện quay để cho phát nổ những quả mìn.
Tôi
ngồi bệt xuống đất lấy cơm sấy khô ra ăn. Tôi nuốt
được nửa gói rồi cố leo xuống suối rửa mặt, uống
đầy một bụng nước và leo lên. Bây giờ, tôi phải
quyết định là đi theo hướng nam hay hướng bắc. Tôi
nghĩ thầm: “Đây có lẽ là lỗ thông của đường mòn
Hồ chí Minh để về duyên hải. Những binh đoàn của họ
một khi tập kết đến đây rồi, ắt sẽ tiến sâu vào
Nam chứ đâu có lộn ra phía Bắc vì phía đó đã có lỗ
thông là Hương hóa, băng qua Khe sanh, theo sông Thạch hản
để về Quảng trị. Vậy, tôi đi về phía bắc thì hi
vọng tránh được họ hơn là về phía nam”.
Tôi
đứng dậy quay trở lui. Tôi sẽ băng núi rừng độ mười
cây số rồi đổi hướng đông. Tôi hi vọng sẽ đến
Huế sau hai ngày đường. Tôi hăm hở tiến bước. Đường
đi càng lúc càng khó khăn. Tôi thường không giữ được
hướng đi vì phải tránh những đỉnh núi quá cao và
những vực quá sâu. Trong những khu rừng già, tương đối
dễ đi nhưng khó định hướng vì khuất ánh mặt trời.
Những khu rừng thưa hơn thì dễ nhắm hướng nhưng khó
đi vì cây cối chằng chịt. Qua nhiều địa thế khác
nhau, tôi vẫn giữ được lòng hăng hái tiến bước. Tôi
đi suốt buổi sáng, trưa dừng lại ăn lương khô, tìm
nước uống, nghỉ ngơi chốc lát rồi lại lên đường.
Tối, tôi nằm dài trên nền đất với giấc ngủ chấp
chờn. Qua ngày thứ hai, chân mỏi rừ nhưng tôi cũng không
dừng bước. Tôi hi vọng chiều hôm nay tôi thoát ra khu
rừng núi đáng nguyền rủa nầy.
Nhưng
than ôi, hai ngày đã qua, trước mặt tôi, cánh rừng già
vẫn dày đặc, núi đồi vẫn liên miên bất tận. Ngày
thứ ba trôi qua, lương khô đã cạn, tôi bị kiệt sức,
lê bước một cách mệt nhọc, lòng nặng trĩu nỗi cô
đơn và bi quan giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Trưa ngày
thứ tư, mắt tôi hoa lên, đầu nhức như búa bổ, không
thể nhấc chân lên được nữa. Tôi sụm xuống và nằm
dài trên mặt đất. Tôi đưa tay sờ trán, thấy nóng hâm
hấp. Hơi thở từ lồng ngực thoát ra cũng làm nóng cả
bàn tay. Tôi nhắm mắt lại và rơi vào trạng thái bi quan
cùng cực. Đây có phải là buổi chiều cuối cùng của
tôi trên dương thế? Đêm nay, một con dã thú sẽ kéo xác
tôi về hang ổ và vài hôm sau những chiếc xương trắng
hếu sẽ vương vãi chung quanh chỗ ở của nó.
Tôi
nghĩ đến Thu Hồng, nghĩ đến vành khăn tang trên đầu
nàng. Không, vành khăn tang đó chẳng có đâu vì tôi vĩnh
viễn nằm lại đây thì nàng đâu có hay biết. Rồi nàng
sẽ khắc khoải chờ đợi tôi, chờ đợi ngày nầy qua
ngày khác, tháng nầy qua tháng khác, năm nầy qua năm khác,
cho đến khi đầu tóc bạc phơ. Nghĩ đến đó, nước mắt
tôi chực trào ra. Tôi cố vùng dậy, lảo đảo bước
tới. Tôi cố kềm hai chân thực vững, nhắm thẳng về
hướng chính đông. Mặt trời xế chiều thấp thoáng qua
cành lá, tôi tìm được một dòng suối nhỏ, nhưng sức
lực tôi đã cạn kiệt. Trong ánh sáng buổi chiều yếu
ớt, tôi ngả ập đầu xuống dòng nước.
Tôi
nằm bất động, dòng nước âm hàn làm cơn sốt giảm
bớt nhưng nó hút đi chút dương khí còn lại của tôi.
Mấy thứ rau cỏ bên bờ suối làm bụng tôi cồn cào dữ
dội. Tôi bò khỏi dòng suối, ôm bụng ói mửa từng
chập, rồi lả đi. Giờ đây không còn hi vọng gặp lại
đồng đội, gặp lại Thu Hồng của tôi nữa. Màn đêm
trùm lên vạn vật, gió núi rít từng cơn, tàn cây nghiêng
ngã dưới ánh sáng mờ nhạt của mảnh trăng thượng
tuần lắc lẻo trên đầu đỉnh núi phía tây. Tôi run lên
bần bật trong khi cơn sốt lại lên cao dữ dội. Tôi nằm
co quắp trên mặt đất, cái lạnh từ mặt đất bên dưới
thấm lên, cái lạnh từ dòng suối bên cạnh tràn qua, cái
lạnh từ không khí bên trên ập xuống, cái lạnh từ
trong ngũ tạng phát ra làm cho tôi có cảm giác như sống
trong chín tầng địa ngục.
Tôi
bỗng thấy Thu Hồng cúi xuống đắp mền cho tôi. Không,
không phải cái mềm mà một tấm gồm nhiều lá khô kết
lại bằng mạng nhện. Tôi cố ngẩng lên nắm lấy tay
nàng nhưng nàng cứ chập choạng bay lên cao, mờ mờ ảo
ảo. Nàng biến đi rồi lại hiện ra liên tục, nét mặt
biến đổi, cơ thể lung linh như sương khói, màu sắc lộn
xộn chẳng ra hình thù rõ rệt nào nữa. Rồi một dòng
sông hiện ra, mặt nước nổi sóng lăn tăn trông thực
ngon lành. Tôi thèm gục mặt trong dòng sông. Tôi cố gắng
tiến tới, dòng sông xa dần rồi biến mất. Một cánh
đồng lúa xanh mát hiện ra, bỗng nhiên rồi biển lửa
nổi bùng lên.
Tôi
giật mình tỉnh cơn mơ, thấy đầu mình vẫn còn gục
trong nước suối. Người tôi không còn lạnh run nữa
nhưng đầu nhức như có ai cầm búa nện vào. Cơn đau
nhức cứ giựt binh binh, các mạch máu hai bên thái dương
sắp vỡ ra. Tôi lại vục đầu xuống uống nước. Bụng
quặn thắt từng cơn, lại ói ra từng ngụm nước.
Tôi
ngồi dậy trong đêm tối, lồm cồm bò đi, nhưng đầu
quay như chong chóng, tôi lết đến ôm chặt một gốc cây,
áp mặt vào lớp vỏ xù xì. Giữ nguyên tư thế đó tôi
lại thiếp đi.
Tiếng
vượn hú rất gần làm tôi tỉnh giấc. Tôi đang nằm
sóng soài trên mặt đất, nhưng vẫn nhớ khi khuya mình
ngồi ôm gốc cây và thiếp đi. Tôi nhìn lên cao, bầu
trời bình minh tạo những đốm sáng quen thuộc trên vòm
lá. Đưa tay lên sờ trán, tôi thấy mình hết sốt và yên
chí còn sống thêm một ngày nữa trên trần gian. Tôi cố
ngồi dậy, cảm thấy cơ thể rã rời. Tuy vậy, ánh bình
minh cũng làm cho tinh thần tôi phấn chấn lên đôi chút.
Xa xa có một chỗ sáng xuyên qua các thân cây. Cũng như
ngày đầu tiên tôi biết đó là nơi chấm dứt của khu
rừng.
Nhìn
sang bên cạnh, tôi thấy có một cành khô. Tôi với lấy
dùng làm gậy và chống vào đó, cố đứng lên. Tôi nghe
đau thắt trong bụng. Đã hai ngày rồi tôi không có gì
vào bụng trừ mấy thứ rau dại, còn các ngày trước chỉ
có cơm khô. Tôi không thấy đói và bụng cứ đau thắt
từng cơn. Mồ hôi vã ra làm cho cái lạnh của khí núi
xâm nhập vào cơ thể. Dòng suối trong cơn mơ đã ở lại
nơi nào. Tôi giật mình sờ tay lên hông, cái bi đong lưng
lưng nước như có một phép màu nào đó.
Chống
vào gậy, tôi cố đi vài bước tới trước. Tôi dừng
lại vì cảm thấy thiếu một vật gì. À cây súng. Tôi
nhìn quanh, ráng nhớ lại. Tôi đã để quên nó ở đâu
đó từ gần trưa hôm qua. Có lẽ nó nằm gần đâu đây
thôi vì suốt buổi chiều tôi không đi được nhiều. Tuy
nhiên, tôi không thể quay lại được vì biết đường
nào mà trở lui. Vả lại, đối với tôi, cây súng không
cần thiết nữa. Còn bắn ai bây giờ, khi mà mạng sống
của tôi chỉ còn tính từng ngày, từng giờ. Tôi cởi
dây nịt cùng với mấy băng đạn quăng đi, cảm thấy
hơi dễ chịu. Trên mình tôi chỉ còn áo quần và chiếc
ba lô nhẹ tênh. Tôi định vứt bỏ luôn ba lô nhưng thôi
vì sực nhớ bên trong còn sợi dây chuyền vàng, kỷ vật
cuối cùng của mối tình đầu. Hình ảnh Ngọc Thúy từ
lâu không còn hiện diện trong tim tôi nữa nhưng kỷ vật
của nàng là vật duy nhất mà tôi còn mang theo đến những
ngày nầy, những ngày cuối cùng của cuộc đời tôi.
Tôi
chống gậy, lần từng bước một đến bìa rừng. Trên
khoảng cách non một cây số, tôi phải dừng lại nghỉ
đến mấy mươi lần, khi thì ngồi, khi thì nằm lăn quay
ra đất. Cuối cùng, tôi ra khỏi khu rừng lúc mặt trời
đang ở đỉnh đầu. Tôi phải nheo mắt lại vì ánh sáng
chói chang.
Ngay
trước mặt tôi, đám lúa rẫy xanh rờn uốn lượn theo
từng ngọn gió thổi qua. Rải rác trên màu xanh mơn mởn,
nhiều thân cây đen thui đứng thẳng, trông thực dị kỳ.
Tôi bỗng thấy choáng ngợp vì một nỗi vui mừng quá sức
to lớn. Sau nhiều ngày cô độc trong những cánh rừng âm
u, tôi đã tìm lại được dấu vết của đồng loại,
của con người đây rồi.
Đôi
mắt tôi rời đám lúa và hướng ra xa hơn. Một cái chòi
tranh thấp lè tè, hai mái chấm sát đất, vừa là mái
nhà, vừa là vách trước, vách sau. Hai bên hông nhà trống
hoác dùng làm cửa ra vào. Tôi biết ngay đó là nhà của
người Thượng thiểu số. Ở Huế, người ta gọi họ là
“mọi”, một từ hàm ý khinh khi. Tôi đã gặp họ nhiều
lần. Họ khù khờ, lạc hậu, chẳng có một chữ trong
đầu, nhưng rất hiền lành, chân thực, không hề biết
phân biệt quốc gia với cộng sản. Chính điều nầy làm
tôi an lòng.
Tôi
định tiến về cái chòi nhưng chân tôi bỗng run lên, tôi
sụm xuống nằm dài trên mặt đất. Tôi áp tay vào trán
và biết rằng cơn sốt lại kéo đến. Tôi thấy trong
người nôn nao khó chịu, mệt gần đứt hơi. Tôi nhắm
nghiền mắt; cứ mở ra là thấy tàn cây quay vòng mãi một
cách đáng sợ. Tôi lại nghĩ đến cái chết. Những người
Thượng trong căn nhà kia sẽ chôn cất tôi tử tế và dời
nhà đi nơi khác, phá rừng làm rẫy mới. Tôi sẽ vĩnh
viễn nằm lại nơi đây, Thu Hồng cứ mãi mòn mỏi chờ
đợi tôi về bên nàng.
Không
thể như thế được. Tôi phải về với nàng. Nàng đã
mất mẹ, mất cha, mất cả hai anh, nàng không thể mất
tôi nữa được. Ý nghĩ nầy tạo nên một sức mạnh lạ
kỳ trong tôi. Tôi đứng thẳng dậy, quả đất quay tròn
dữ dội. Tôi vội chụp lấy một gốc cây và bám chặt
vào đó, nhắm nghiền mắt lại. Nếu có ai đó trong nhà
đi ra, họ sẽ thấy tôi và sẽ đến khiêng tôi vào nhà
để cứu sống. Tôi sẽ được cứu sống và sẽ về gặp
lại Thu Hồng của tôi. Hằng ngày nàng vẫn theo dõi tin
chiến sự và hằng đêm cầu nguyện cho tôi. Trí óc tôi
bỗng trở nên minh mẫn một cách lạ lùng. Người ta gọi
đó là dấu hiệu của người sắp chết được sáng
suốt nhìn lại cuộc đời mình lần cuối.
Trong
lá thư cuối cùng, nàng có viết cho tôi: “….Em
cầu mong Đức Phật chứng giám lòng thành của em mà che
chở cho anh ngoài mặt trận.”
Đức
Phật sẽ phù hộ cho tôi sống để về với nàng. Tôi đã
vượt qua năm ngày gian lao trong rừng núi hoang vu, nay tôi
đã đến được với con người. Họ sẽ giúp tôi mạnh
khỏe lại để tiếp tục con đường về.
Một
sức sống còn sót lại trong cơ thể đẩy tôi về phía
trước. Mắt tôi vẫn nhắm nghiền chỉ thỉnh thoảng mở
ra một chút để nhìn hướng căn chòi. Tôi té ngã mấy
lần rồi gượng dậy đi bằng hai chân, có khi bò bằng
tứ chi và lết dài trên mặt đất, cuối cùng cũng đến
được cái chòi. Tôi ngã vật xuống, nửa bên ngoài, nửa
bên trong nhà.
Tôi
không còn biết gì nữa cho đến khi có bàn tay nắm vai
tôi lay dậy.
Tôi
mở mắt ra thấy mình đã nằm gọn trong chòi. Tôi khẽ
nhúc nhích, nghe tiếng lạo xạo dưới lưng, biết mình
đang nằm trên lớp rơm hoặc cỏ khô. Người tôi ngầy
ngật khó chịu, tim phổi ruột gan như bị dần nát, đầu
nặng chình chịch, toàn thân đau nhức rã rời. Trong cơn
sốt cao độ, tôi chập chờn thiếp đi. Lờ mờ bên ngoài
có tiếng chim hót và gà mái gọi con rồi tiếng người
nói gì đó nhưng tôi không hiểu được.
Có
một cánh tay luồng xuống cổ và nâng đầu tôi dậy, một
vật cứng chạm vào môi tôi. Tôi hé mắt thấy một người
ngồi sát bên tôi. Tôi không nhận ra đó là đàn ông hay
đàn bà, già hay trẻ. Người đó cầm chén cháo kê vào
miệng tôi. Tôi húp mạnh thấy ngon, tôi đã nhịn suốt
hai ngày rồi. Nhưng mới được ba hớp, bụng tôi cồn
cào dữ dội. Tôi gạt nhẹ chén cháo ra, vùng khỏi cánh
tay người lạ, co quắp lại, hai cùi tay áp mạnh vào
bụng. Một bàn tay bụm miệng, bàn tay kia chận nơi cuống
họng, tôi cố điều hoà hơi thở để ngăn không cho mấy
miếng cháo vừa nuốt xong bị ói ra ngoài. Trong trạng
thái dở sống dở chết, tôi vẫn ý thức được rằng
chút thức ăn đơn sơ nầy sẽ cứu mạng tôi. Dần dần,
tôi thấy khá dễ chịu trong bụng. Tôi giữ nguyên thế
nằm co quắp, thiếp đi trong mơ màng, tôi lướt đi qua
những khung cảnh khác nhau với những hình ảnh xa lạ và
quen thuộc, bóng dáng Thu Hồng xuất hiện nhiều lần, mờ
mờ ảo ảo.
Tôi
trải qua trạng thái nửa sống nửa chết không biết
trong bao lâu thì giật mình tỉnh giấc. Tôi mở mắt ra,
chung quanh tối đen; có tiếng ồ ồ nghe là lạ sau lưng
tôi. Tôi xoay người lại. Nhìn thấy hai ô sáng lờ mờ
hình tam giác, đáy sát đất, đỉnh cao hơn một mét, đối
diện nhau, về phía đầu và phía chân tôi. Tôi cố nhớ
lại hai ô sáng đó là cái gì và mình đang ở đâu. Tôi
lắng nghe tiếng ồ ồ tiếp tục đều đều.
Trí
óc dần dần trở lại. Tôi biết rồi, tôi đang nằm trên
ổ rơm trong chòi của người Thượng thiểu số. Tôi đã
đến được đây trong cơn sốt cao độ. Tôi đưa tay sờ
trán, hết sốt rồi nhưng đầu còn nhức, miệng khô
đắng. Tuy nhiên, tôi cảm thấy hơi sảng khoái, nghe hơi
ấm dễ chịu bên dưới lưng; nhiều ngày nay tôi không
được cảm giác nầy vì đêm nào cũng nằm trên mặt đất
ẩm ướt trong rừng.
Cơ
thể tôi nhẹ tênh và yếu lắm nhưng trí óc có vẻ minh
mẫn trở lại. Tôi nhận ra hai ô sáng là hai mặt hông
của căn chòi khổ sở. Tôi đã được một người nâng
đầu dậy và cho tôi ăn cháo. Đó là một người đàn
ông có mùi da khét nắng. Chắc chắn, đó là người chủ
của cái chòi nầy, tiếng ồ ồ không dứt chắc là tiếng
ngáy của ông ta.
Tôi
cố nhớ lại khung cảnh ban chiều. Tôi đã lết đến bên
chòi thì bất tỉnh. Có lẽ, đi làm rẫy về, ông ta thấy
xác tôi nằm đó. Ông ta đã sờ vào mũi tôi thấy còn
hơi thở nên lôi xác tôi vào chòi cho nằm trên ổ rơm.
Ông ta trẻ hay già. Tôi thoáng nhớ nét mặt nhăn nheo sạm
nắng của ông. Không thể nào biết được là trẻ hay
già; trong khoảng ba mươi đến năm mươi tuổi, khó đoán
được chính xác.
Tôi
bỗng giật thót người khi nhớ ra rằng mình đang mặc bộ
áo quần thủy quân lục chiến. Ngày hôm qua, khi cận kề
cái chết, tôi không kịp nghĩ đến điều nầy. Bây giờ,
với cảm giác đang bước hẳn qua lằn ranh của sự sống,
tôi bỗng thấy sợ hãi. Từ lâu, quốc gia không còn kiểm
soát được vùng rừng núi nữa. Chắc chắn cộng sản đã
về đây nhiều lần. Liệu người đàn ông người Thượng
nầy đã bị đầu độc bởi sự tuyên truyền, bởi ý
thức căm thù độc hại của họ chưa? Tại sao tôi không
vứt bỏ bộ áo quần nầy trước khi đến chòi? Không,
lúc đó tôi không còn nghĩ đến điều gì được nữa,
phần lớn trí tuệ đã thoát khỏi đầu tôi mà bay lên
tận mây xanh rồi. Bây giờ phải làm sao đây? Nên trốn
đi khi họ còn ngủ say? Không, tôi không thể đi đâu được
trong tình trạng nầy. Chỉ cần nghĩ đến việc phải
đứng lên tôi đã thấy khổ cực, thà nằm đây mà chết
còn hơn.