Tôi
cố tìm một lý do để tự trấn an mình. Tôi nhớ lại
cánh tay khét nắng dịu dàng nâng đầu tôi dậy và ân
cần đưa bát cháo vào miệng tôi. Cử chỉ đó là bằng
chứng quá thuyết phục về lòng nhân hậu của người
dân tộc thiểu số chất phác nầy. Tôi tự trấn an mình
bằng cách nghĩ rằng, lòng nhân hậu bẩm sinh của người
Thượng, được nếp sống đơn sơ và chân thật làm
thành trì bảo vệ, chủ nghĩa cộng sản xây dựng trên
sự căm thù giai cấp không thể nào xuyên thủng được.
Chủ nghĩa nầy chỉ thành công đối với những người
có nhiều tham vọng, khôn lanh và biết tự hủy diệt bản
chất nhân từ và chân thật tự nhiên của con người.
Ý
nghĩ đó làm cho tôi an tâm. Tôi nhìn sang bên chỗ tiếng
ngáy khi nãy phát ra. Tiếng ồ ồ chấm dứt rồi, chỉ
còn tiếng thở đều đều trong đêm thực thanh vắng. Tôi
thầm nghĩ họ đang cứu sống tôi. Kể từ hôm nay, tôi
bước sang cuộc sống thứ hai, nhờ họ mà có. Họ thực
sự là ân nhân của tôi, lòng tôi tràn ngập một niềm
cảm khái mênh mang.
Tôi
sực nghĩ đến Thu Hồng. Nàng thường nhắc đi nhắc lại
tôi là ân nhân của nàng. Không, nếu số phận không dẫn
tôi đến thì hai chị em nàng cũng tiếp tục sống trên
đời nầy. Nơi đó, nàng đang ở giữa quần thể loài
người văn minh. Chiến tranh dù có tàn ác nhưng khi lửa
đạn đã đi qua thì cuộc sống vẫn còn nhiều đảm bảo.
Còn ở đây, người dân thiểu số nhân hậu nầy mới
thực sự là ân nhân của tôi. Trong chốn núi rừng thâm
u nầy, ông ta là người duy nhất cứu mạng tôi, không
còn ai khác nữa. Không có ông thì nhất định tôi phải
bỏ lại nắm xương tàn tại đây.
Thu
Hồng đã gọi tôi là “ân nhân” và nàng đã đền ơn
xứng đáng cho “ân nhân” của nàng. Nàng đã từ giã
nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ lại tất cả, nhà cửa của
ông cha, hài cốt của người thân, quảng đời thơ ấu,
chỉ mang theo một sở hữu cực kỳ quý giá, đó là tấm
thân trinh bạch của nàng. Sở hữu quý giá đó, nàng sẵn
sàng hiến tặng cho “ân nhân”. Lần đầu, tôi không
nhận, lần sau tôi đã nhận, nhận vào cái đêm tân hôn
tuyệt vời của chúng tôi. “Ân nhân” của nàng đã
được đền ơn thực xứng đáng.
Còn
ân nhân của tôi sẽ được đền ơn thế nào đây? Vâng,
tôi sẽ trở về đem cái sinh mạng mà họ tái sinh để
chiến đấu bảo vệ nền tự do dân chủ của nhân dân
miền Nam, trong đó có ân nhân tôi. Nhưng ông ta cần quái
gì cái tự do dân chủ đó. Những thứ đó chỉ có ý
nghĩa với đám người đang sống lúc nhúc và xô bồ bên
kia những rặng núi xanh lơ. Còn bên nầy, dân tộc ông ta
không màng những thứ màu mè đó; họ sống một cách
chơn chất, ung dung với núi đồi, với thung lũng, với
rừng cây bát ngát. Nhưng người ta có để yên cho họ
sống đâu. Một bên thì nhân danh cái giải phóng quái quỷ
để dụ dỗ con em họ đi; một bên thì nhân danh bảo vệ
giá trị con người để trao vật giết người vào tay con
em họ. Quả thực trên chiến trường miền Trung nầy, cả
hai bên thù địch đều có những chàng trai thiểu số
hiền lành chất phác, cặp mắt nai tơ thường ngơ ngác
ngước nhìn cấp chỉ huy của mình.
Tôi
cảm thấy buồn phiền và ngủ thiếp đi. Tôi thức giấc
một lần nữa thì trời đã rựng sáng. Nằm trong ổ rơm
ấm cúng, tôi cảm nhận được cái lạnh của núi rừng
bên ngoài. Ông chủ nhà có lẽ đã thức dậy từ lâu, ổ
rơm đối diện với tôi trống trơn. Nhìn qua ô tam giác
của căn chòi, tôi thấy một làn khói bay lên. Bây giờ
tôi mới để ý một cái chòi bé tí kế bên, có lẽ là
nơi làm bếp nấu ăn.
Tôi
nghe tiếng rù rì nói chuyện, thì ra ở đây không chỉ có
một người. Tôi muốn ngồi dậy nhưng không thể nào dậy
được. Đầu tôi nặng chình chịch còn cơ thể thì nhẹ
tênh. Tôi cố đưa bàn tay lên. Được rồi, nhưng bàn tay
ai đây? Nó có những ngón gầy guộc, dính bùn đất tèm
lem. Bàn tay nầy của tôi sao? Bàn tay nầy đã từng cầm
bút viết những lá thư diễm tình? Bàn tay nầy đã từng
vuốt tóc hai người con gái xinh đẹp hay sao?
Tôi
thấy mình bồng bềnh trong một cảm giác lạ kỳ. Đây
không phải là tôi nữa mà là cái gì đó khó nói, chẳng
hạn như linh hồn tôi đang nhìn suốt quá khứ một cách
bàng quan, không vui cũng chẳng buồn. Tôi đang thức đây,
đang nhìn thấy nơi nóc chòi một thân cây cong queo nằm
ngang, hai bên có những cọng lá tranh lòng thòng buông
xuống; nhưng hình như tôi vẫn đắm chìm trong mộng mị,
không rõ hiện tại mình đang ở đâu, không rõ cách nào
mình đã rời khỏi quá khứ của mình để đến nơi đây.
Tôi nhắm mắt lại, nhẹ nhàng lướt trên cơn mộng mị
êm đềm, cho đến lúc có cảm giác thực sự của một
bàn tay nắm lấy cánh tay tôi.
Tôi
mở mắt ra. Đúng, tôi thấy người nầy rồi. Ông ta là
ai? Thấy lúc nào? À phải rồi, ông ta ngồi bên tôi đêm
hôm qua, nâng đầu tôi dậy và cho tôi ăn cháo. Người
nầy đã cứu sống tôi. Tôi nhìn ông, mỉm cười, cố
đưa bàn tay lên nắm lấy tay ông, bóp nhẹ. Ông cười
lại với tôi, cuối nụ cười là giọng nói khó nghe, lặp
lại hai lần giống nhau. Với cố gắng, tôi hiểu lời
ông nói:
-
“Ôn” là ai?
Tôi
lại mỉm cười, cố biểu lộ thực nhiều thiện cảm
trong nụ cười rồi buông tay ông ra, chỉ vào bộ quân
phục của tôi. Ông gật đầu ra ý đã hiểu tôi là lính
quốc gia. Ông lại hỏi:
-
“Ôn” từ đâu đến?
Tôi
không biết ra dấu hay trả lời thế nào cho ông hiểu nên
vẫn giữ im lặng, quay nhìn ra khung trời nhỏ hẹp trên
đỉnh ô hình tam giác. Ông không hỏi nữa mà quay lui nói
một tràng líu lo. Lập tức một người đàn bà bước
vào. Tôi nhướng mắt cố nhìn cho kỹ nhưng, cũng như ở
người đàn ông, tôi không thể biết được bà ta bao
nhiêu tuổi. Tuy nhiên, liếc nhìn trên ngực trần của bà
đôi vú to và vẫn còn khá gọn gàng thì tôi đoán bà ta
vẫn còn trẻ. Chắc chắn hai người trước mặt tôi là
hai vợ chồng với nhau.
Ông
chồng đưa tay chỉ bộ quân phục của tôi và quay sang
nói líu lo với vợ. Bà vợ cũng tuôn ra một tràn nói líu
lo. Tôi nghĩ rằng họ đang bàn đến thân phận của tôi.
Tự nhiên, tôi thấy lòng mình thực thản nhiên. Mạng
sống của tôi vừa do họ cứu vớt và đang nằm trong tay
họ, bây giờ họ muốn làm gì thì tôi cũng đành lòng.
Ông
chồng quay lại nhìn tôi bằng cặp mắt hết sức hiền
lành. Tôi nghe ông nói một câu dài. Qua âm hưởng, tôi
biết ông đang nói tiếng Việt của người Kinh nhưng
không hiểu được, ngoại trừ hai tiếng nghe rõ và được
lặp lại đến hai lần: “Đừng sợ, đừng sợ”. Thế
là đủ, tôi yên tâm, đây đúng là ân nhân của tôi rồi.
Người
đàn bà trở ra rồi một phút ra quay lại với một cái
chén trên tay. Sau lưng bà, một đứa bé độ năm tuổi đi
theo hai tay níu chặt cái quần của bà. Bà dừng lại giữa
nhà. Ông nhận lấy cái chén, xích lại gần, nâng đầu
tôi dậy và đưa miệng chén vào môi tôi, y như lúc đầu
hôm vậy. Tôi hít mạnh, mùi cháo bốc lên thơm ngát. Lần
nầy tôi húp hết chén cháo và cố gắng giữ nó lại
trong bụng tôi. Tôi biết mình có níu lại được cái
sống hay không, chính là sự cố gắng trong lúc nầy.
Người đàn ông đặt tôi nằm xuống, nhìn tôi có vẻ
hài lòng.
Tôi
nhắm mắt lại. Cái mệt kéo về làm tôi hụt hơi. Có lẽ
chén cháo bắt cái dạ dày xẹp lép nhiều ngày của tôi
bắt đầu làm việc lại một cách quá hăng, trong khi các
cơ quan khác, hoặc suy yếu, hoặc còn ngủ say chưa thèm
thức dậy. Tôi nhớ có lần người ta kể với tôi rằng,
trong vụ đói năm Ất dậu 1945, có người nhịn lâu ngày,
bỗng được ăn no một bữa bèn ngã lăn ra tắt thở. Tôi
thì không đến nỗi tắt thở nhưng mệt quá chừng. Tôi
cố kềm chế cho hơi thở được điều hòa.
Một
lúc khá lâu, cơn mệt dịu dần. Tôi mở mắt ra, căn chòi
trống trơn, không gian vắng lặng, nghe rõ tiếng chim ríu
rít xa xa, mãi tận ở bìa rừng.
Hai
người lớn đã dẫn đứa bé ra nương rẫy. Có lẽ họ
đi khá xa nên trưa không về. Kế bên đầu tôi, trên nền
đất, một bát cháo và một vò nước đã được để
sẵn tự lúc nào. Tôi thầm cám ơn sự chu đáo của họ.
Nguyên
buổi sáng, tôi cảm thấy khá dễ chịu. Nhiều lần, tôi
toan đứng lên để ra đi, tìm về với đồng đội. Nhưng
vừa ngồi lên tôi lại thấy mọi vật quay cuồng nên nằm
vật xuống. Đến trưa, tôi cương quyết thu hết tàn lực
đứng lên. Đầu tôi đụng ngay vào mái nhà. Tôi bấu cả
hai tay vào những cọng tranh, chân run run. Tôi cố bước
đi một bước khỏi ổ rơm, chân càng run hơn. Tôi buông
tay khỏi mái nhà, lảo đảo, ngồi bẹp xuống ổ rơm.
Tôi chống hai tay về phía trước, cố thắng sự thèm
muốn nằm dài trên mặt đất. Tôi ngồi yên, buồn bã
nhìn ra ngoài.
Không,
tôi không thể ra đi lúc nầy được. Con đường lên núi
xuống ghềnh còn dài bao nhiêu nữa, làm sao biết được,
mà sức tôi cạn kiệt rồi không thể nào vượt qua được.
Tôi sẽ bỏ xác trên đường đi, vĩnh viễn xa đồng đội,
vĩnh viễn xa Thu Hồng và uổng công cứu mạng của hai
con người nhân hậu, chủ nhân của chiếc chòi khốn khổ
nầy.
Tôi
lẩm bẩm để tự an ủi: “Thôi hôm nay cứ ở lại đây,
sáng mai sẽ lên đường”. Tôi nằm vật xuống, mấy
tiếng sau cùng nầy ngân nga mãi trong tai tôi. “Sáng mai
sẽ lên đường”, âm thanh vang vọng như tiếng kêu trong
thung lũng, dội qua dội lại trên vách đá bao quanh.
Tôi
lết đến gần tô cháo, cố húp cho cạn để đủ sức
“sáng mai sẽ lên đường”. Tiếng kêu chết chóc của
đồng đội tôi bỗng văng vẳng bên tai "sáng mai lên
đường". Giờ đây, cái chết đã lùi lại phía sau,
trách nhiệm trở về thôi thúc. Tôi nằm xuống, cố thở
đều cho cái dạ dày làm việc. Có lẽ, nó đã bắt đầu
quen với chức năng của nó nên tôi không thấy mệt như
sáng nay. Tuy nhiên, chỉ độ một giờ đồng hồ sau, tôi
lại thấy ngầy ngật khó chịu. Mắt tôi nặng trĩu,
những chiếc bóng trắng vờn quanh rồi nắm tay tôi lôi
vào cơn mộng mị đầy lửa đỏ. "Đát, coi chừng".
"Cung ơi". Người tôi rét run. Tôi vội quơ rơm
trong ổ phủ lên mình, nằm co rút như con tôm. Trong lớp
rơm phủ đầy lên mặt, tôi nghe hơi thở mình nóng hừng
hực như trong một lò rèn. Tôi cố định thần và hiểu
rằng mình lại lên cơn sốt cao độ.
Những
con vi trùng sốt rét ác tính tràn ngập cơ thể tôi, cắn
xé dữ dội. Cơn sốt ác liệt kiểu nầy rất dễ dàng
mang đi mạng sống của con người. Tôi không sợ chết,
chỉ tội cho Thu Hồng. Tôi gọi tên nàng một cách tha
thiết và chìm đi trong những cơn ác mộng.
Cơn
sốt giảm xuống khi ngày sắp tắt. Các ân nhân của tôi
có lẽ đã về từ lâu. Có tiếng lửa cháy lép bép nghe
vui tai ở chòi nhỏ bên ngoài. Tôi xoay người nhìn ra;
khói bếp bốc lên, bị gió núi thổi bạt, chui vào tận
chỗ tôi nằm. Mùi khói làm tôi thấy ấm lòng. Tôi nhớ
đến gian bếp ở căn phố mà chị em Thu Hồng đang sống.
Tôi đã cùng nàng nhiều lần ngồi bên bếp lửa trong
những ngày tôi về phép. Trong lúc nấu ăn, thỉnh thoảng
nàng lại quay sang nhìn tôi một cách đắm đuối rồi tựa
đầu vào vai tôi; tôi ôm tấm thân mềm mại của nàng
cho đến khi thức ăn và cơm bắt đầu bốc mùi cháy. Ký
ức nầy lập tức tạo nên nguồn ham sống bừng bừng
trong lòng tôi cùng ước mong tha thiết trở về gặp lại
nàng.
Đầu
tôi nhức tăng tăng, nhưng tôi gượng ngồi dậy, chống
hai tay phía trước và nhìn ra ngoài. Hoàng hôn đang xuống
trên núi rừng. Tôi cố lết ra khoảng trống phía trước,
say sưa nhìn cảnh vật đang sửa soạn bước vào đêm.
Tôi lướt mắt trên đầu những ngọn lúa trong nương,
nhìn thấy bìa rừng tạo nên một hàng cây trông thẳng
tắp như một bức tường. Sâu phía trong bức tường,
bóng tối đã ngự trị tạo nên một nền đen thăm thẳm.
Xa hơn nữa, trên đầu bức tường cây, hai ngọn núi vọt
lên một cách ngạo nghễ, làn mây trắng đục vờn trên
đỉnh núi.
Tôi
bỗng có ý nghĩ, sau chiến tranh, tôi sẽ cùng Thu Hồng
lên đây, cất chòi canh rẫy, mỗi buổi chiều hai chúng
tôi sẽ ngồi tại đây, chờ đợi ánh nắng vàng tắt
lịm trên hai đỉnh núi kia. Đầu nàng sẽ tựa vào vai
tôi, mắt nàng mở to chăm chú nhìn khói sương lan dần từ
vách núi, đổ xuống thung lũng, bò lên nương rẫy, che
khuất bìa rừng và mon men đến trùm lên cả đôi vợ
chồng chúng tôi.
Tôi
bật cười về ý nghĩ kì quặc và ngộ nghĩnh đó, nhưng
lòng tôi cồn cào nỗi nhớ nhung. Ôi Thu Hồng! Nếu có
phép mầu đem nàng đến đây cho tôi cầm lấy tay trong
chốc lát thì tôi sẵn sàng đổi mười kiếp sống để
nhận lấy giây phút thần tiên đó.
Có
tiếng động sau lưng, tôi quay lại. Ân nhân của tôi bước
vào với tô cháo trên tay. Vẫn với nụ cười chất phác
và đôn hậu, ông đưa thức ăn cho tôi. Cháo hôm nay màu
nâu, có mùi thịt rừng. Tôi đưa lên miệng, hớp từng
hớp một, cảm thấy ngon miệng. Nỗi vui sướng dâng lên
trong tôi. Cảm giác ngon miệng nầy là dấu hiệu sự sống
chưa từ bỏ tôi. Tôi sẽ gặp lại đồng đội, tôi sẽ
gặp lại Thu Hồng.
Trời
đã tối hẳn, tôi chui vào ổ rơm, nằm suy nghĩ mông
lung. Tôi cảm thấy dễ chịu nhưng tay chân còn yếu ớt
lắm. Ngày mai tôi chưa lên đường được. Hai hôm rồi
sốt rét rừng đã lên cơn vào buổi xế trưa; ngày mai
cũng như thế và tôi sẽ gục trên đường đi, rồi có
thể không dậy được nữa.
Tôi
nhắm mắt lại, nằm im. Khi tiếng ngáy ở ổ rơm bên kia
bắt đầu vang lên thì tôi cũng chìm vào giấc ngủ.
Một
đêm bình yên đi qua. Sáng ra, các ân nhân của tôi vẫn
lặng lẽ cho tôi ăn cháo và dẫn đứa bé đi đến chiều.
Quả như tôi dự đoán, cơn sốt trở lại vào bữa trưa,
lôi tôi vào mộng mị và buông tha cho tôi khi hoàng hôn
đến.
Trong
ba ngày liền, cơn sốt đến và ra đi rất đúng giờ.
Ngày thứ ba, sau khi ăn trưa với thức ăn do ân nhân để
lại, tôi nằm im, bình thản chờ cơn sốt đến. Tôi và
“nó” đã quen nhau nên “nó” không còn lôi tôi vào
cơn mộng mị được nữa. “Nó” chỉ làm cho tôi rét
run cầm cập, nằm cuộn tròn trong rơm mà chịu đựng.
Rồi
đột nhiên “nó” biến mất. Suốt ngày thứ tư, từ
trưa đến chiều, tôi nằm chờ đợi nhưng “nó” không
đến. Ngày thứ năm, “nó” cũng không đến. Tôi vui
mừng khôn tả. “Nó” bỏ tôi mà đi rồi. “Nó” đã
phụ lòng Thần chết, vì tôi đã chiến thắng “nó”.
Tôi sẽ về, chắc chắn tôi sẽ về với đồng đội,
với người vợ trẻ của tôi.
Sáng
hôm sau, thức dậy, tôi thấy sảng khoái trong người. Thử
đứng lên, tôi thấy mình còn quá yếu chưa thể vượt
rừng băng suối được. Vợ chồng ân nhân vẫn cung cấp
thức ăn trong ngày cho tôi rồi dẫn con lên nương rẫy.
Suốt
ngày hôm đó, nhiều lần tôi bò ra ngoài, phía bên không
có nắng. Tôi ngồi đó nhìn trời, ngắm nương rẫy và
núi rừng. Hôm nay, tại sao bầu trời tươi sáng đến
thế, núi rừng xinh đẹp dường nầy? Tôi đang đứng
trên một triền đồi thoai thoải, phía trước là rẫy
lúa nhưng phía sau, mặt đất trơ nền sỏi đá, lớp mầu
mỡ bên trên đã bị nước mưa cuốn sạch từ lâu rồi.
Chất đất màu vàng nhạt lốm đốm nâu kéo dài mãi đến
tận chân đồi. Nơi đây màu xanh lại xuất hiện. Đó là
thung lũng hẹp, giao điểm của hai quả đồi. Một dòng
suối óng ánh bạc thấp thoáng sau những bụi cây.
Tôi
sực nhớ rất nhiều ngày rồi tôi không tắm. Lần tắm
cuối cùng là vào ngày thứ nhì sau khi rời bỏ ngọn đồi
đẫm máu đó. Bộ áo quần dơ dáy của tôi đè nặng
trên lớp da, làn da cũng đầy bụi đất đè nặng trên
các thớ thịt bên trong. Tôi nhìn dòng suối xa xa một
cách thèm thuồng, Tuy nhiên, tôi ước sức mình không
xuống được đến đó, chứ đừng nói từ dưới đó
trở lên. Tôi cảm thấy mệt nên trở vào chòi, buông
mình trên ổ rơm.
Đầu
óc tôi trở nên sáng suốt. Tôi nhẫm tính lại số ngày
từ cái đêm mở đường máu. Tôi nhớ lại những điều
đã trải qua trong ngày thứ nhất, ngày thứ nhì và những
ngày tiếp theo. Vậy là tôi đã thất lạc trong rừng năm
ngày, và ở lại chòi nầy được sáu ngày. Mười một
ngày đã trôi qua. Các anh em cùng mở đường máu với tôi
đã về đến được đơn vị chưa? Ai còn ai mất? Tôi
còn phải nằm lại đây bao lâu nữa?
Một
ngày lại trôi qua êm ả. Hôm sau, tôi thức dậy lúc trời
chưa sáng. Tôi thấy sức khoẻ mình phục hồi một cách
khả quan. Tôi lẩm bẩm: “Hôm nay là ngày thứ mười hai
rồi đây”. Tôi bước ra khỏi lều. Trên trời, sao lấp
lánh. Chân đồi còn tối đen nhưng trên đỉnh đồi bên
kia, bầu trời đà hửng sáng. Một dãi mây nằm vắt
ngang màu trắng nhờ nhờ in trên nền trời thăm thẳm.
Tôi cảm thấy mình còn yếu lắm nhưng chân đã hết run.
Ngày mai, tôi phải lên đường, nhất định ngày mai phải
trở về.
Vợ
chồng ân nhân tôi cũng vừa thức giấc, đứa bé còn ngủ
say. Không bao lâu sau, lửa reo vui tí tách trong lều nhỏ.
Tôi xuống bếp và xin người đàn ông cho tôi ăn cơm với
họ. Tôi phải ăn cơm cho mau mạnh để ngày mai lên đường.
Đây
là lầu đầu tiên tôi nói với ông ta. Tôi ngạc nhiên vì
ông hiểu ngay điều tôi muốn nói. Có lẽ ông thường
tiếp xúc với người miền xuôi nhưng ít khi phát biểu ý
kiến mình. Ý nghĩ nầy làm tôi phấn khởi, con đường
từ đây đến chỗ người Kinh ở chắc không còn xa lắm.
Quả
thực vậy, khi tôi hỏi từ đây ra con đường có xe chạy
còn xa hay gần, độ bao nhiêu cây số, ông ta hiểu lời
tôi nhưng cứ đứng ngẩn người ra không trả lời được.
Tôi lặp lại câu hỏi một cách khác, vừa nói, vừa ra
dấu bằng tay và chân:
-
Ngủ dậy đi, tối thì tới phải không?
Ông
lắc đầu, lắp bắp:
-
Không, ngủ dậy đi….tới….cái nắng….
Ông
dùng tay chỉ theo hướng thẳng đứng. Tôi hiểu rồi,
"cái nắng trên đầu", sáng đi trưa tới, chỉ
nửa ngày thôi. Nếu đúng như thế thì những ngày đầu
tôi đã không lạc đường quá xa, và nếu không bị cơn
sốt rét hành hạ thì tôi đã về đến đơn vị lâu rồi.
Sau
khi ba người ra rẫy, tôi đợi mặt trời lên cao rồi
xuống suối tắm giặt. Nước trong veo, mát rượi làm tôi
thực sảng khoái nhưng không dám tắm lâu vì chỉ mới
dứt cơn sốt được có ba ngày. Tôi ngồi trên một gộp
đá phẳng phiu sát mặt nước, vò áo quần rồi mặc lại
quần uớt đi lên.
Tôi
cảm thấy khá mệt nhưng lòng tràn đầy hi vọng. Tôi còn
một ngày hôm nay nữa để dưỡng sức và sáng mai lên
đường. Chiều hôm đó, tôi nói cho ân nhân tôi biết ý
định trở về nhà. Lúc đầu, ông nhìn tôi rồi lắc
đầu, nói một cách khó khăn:
-
Không đi được, cái núi cao, cái con đường dài, ông
không đi được.
Tôi
trả lời:
-
Tôi đi được, tôi phải về, không ở đây nữa. Ông cho
tôi biết con đường.
Thấy
vẻ mặt cương quyết của tôi, ông đành gật đầu:
-
Không có cái con đường, đi cái nầy.
Ông
chỉ tay về hướng con suối. Đó là hướng chính đông.
Ông bỏ tôi đứng một mình, lẵng lặng đi ra bìa rừng
và khi về mang theo mấy cái lá to. Mãi sáng hôm sau tôi
mới biết những cái lá nầy dùng để gói cơm cho tôi
mang theo. Ôi, con người nhân hậu!
Đêm
đó, tôi ngủ ít vì nôn nóng đợi bình minh. Cuối cùng
ngày cũng đến. Tôi được ăn cơm với thịt rừng phơi
khô nướng thơm ngào ngạt. Cơm nước xong, người đàn
bà trao gói cơm cho tôi cùng với một ống nứa đựng
nước uống. Tôi cho vào túi đeo vai, hành lý duy nhất còn
lại của tôi.
Khi
mặt trời ló dạng trên ngọn đồi trước mặt, giờ
chia tay bắt đầu. Hai người lớn đứng thẳng trước
chòi, đứa bé bám vào quần của mẹ, cả ba quay mặt về
phía suối. Tôi đứng im trước mặt họ, nỗi bùi ngùi
trào dâng trong lòng. Tôi sắp từ biệt họ và không mong
gặp lại. Họ đã cứu mạng tôi và cưu mang tôi trong tám
ngày đêm. Tôi đã thoát chết nhờ cái ổ rơm của họ,
nhờ những bát cháo chén cơm do công lao và mồ hôi họ
đổ trên nương rẫy. Mọi lời cám ơn lúc nầy đều trở
thành vô nghĩa đối với tấm lòng của họ. Tôi đến
trước mặt người đàn ông, hai bàn tay tôi nắm chặt
lấy vai ông, mắt rưng rưng. Ông gật đầu liền mấy cái
tỏ ý hiểu lòng tôi.
Tôi
quay lui, đi vài bước, sực nhớ trong ba lô còn sợi dây
chuyền vàng mà Ngọc Thúy tặng lúc chia tay năm xưa. Tôi
quay lại, mở miệng túi, thò tay vào. Tôi đẩy gói cơm
sang một bên, thọc bàn tay sâu vào tận đáy và chạm vào
cái gói quấn nilon. Ở đó còn một số tiền nhỏ, nhưng
tôi cần nó cho cuộc hành trình trở về. Tôi lôi sợi
dây chuyền ra, dùng hai tay căng nhẹ, màu vàng lấp lánh
dưới ánh mặt trời ban mai. Tôi trao nó cho người
đàn ông và ra hiệu mang vào cổ người đàn bà. Ông ta
làm theo, xong hai vợ chồng nhìn nhau cười, cái cười
hiền hòa và rạng rỡ không bút nào tả xiết.
Tôi
quay lưng và đi xuống đồi. Trong nỗi cảm xúc to lớn,
lòng tôi chợt vui như mở hội, kỷ vật quý giá của
người yêu xưa kia đã được trao đúng nơi đúng lúc.
Tôi vui mừng nhưng cũng hơi ngậm ngùi vì sợi dây chuyền
vàng đã theo tôi suốt bao nhiêu năm tháng hành quân; đó
là mối dây liên lạc cuối cùng giữa tôi và mối tình
đầu của một thời hoa bướm.
Tôi
đã đến con suối. Trong dòng nước trong veo nầy tôi đã
tắm một lần, và chỉ một lần duy nhất trong đời.
Tảng đá phẳng phiu kia là nơi tôi ngồi giặt giũ bộ áo
quần mà tôi đang mặc, chắc chắn tôi sẽ không còn bao
giờ trông thấy nó nữa.
Tôi
đứng trên tảng đá đó và quay lui. Cả ba con người
phúc hậu vẫn đứng yên như những pho tượng, nhìn theo
tôi. Tôi vẫy tay từ biệt, hai người lớn vẫy tay đáp
lại. Tôi băng qua suối, cảm thấy lòng bịn rịn lạ
kỳ. Tôi đã leo lên đến lưng chừng đồi và sắp chui
vào đám cây rậm rạp. Tôi dừng lại và quay lui. Họ
không còn đứng ở chỗ cũ nhìn theo nữa. Bóng ba người
in rõ trên sườn đồi, lầm lũi đi. Họ ra nương rẫy và
chiều về chui vào cái chòi tồi tàn để sáng mai lại
lầm lũi ra đi. Nếp sống kéo dài theo một nhịp điệu,
ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm….
Tôi
rảo bước về phía trước, lên đồi rồi lại xuống
đồi, băng qua những khe suối đã khô nước. May quá,
trên đường đi không có những đỉnh núi cao, những vực
sâu ngăn cản bước tiến, tuy nhiên không bao lâu sau khi
khởi hành tôi cảm thấy kiệt lực; sức khoẻ tôi bây
giờ suy giảm quá nhiều so với những ngày hành quân
trước kia. Tôi bắt đầu lo sợ lại ngã gục trên đường
đi. Tôi gọi tên Thu Hồng nhiều lần rồi lẩm nhẩm gọi
tên những anh em trong đai đội, người còn sống lẫn
người đã chết. Kỳ lạ thay, những cái tên nầy như
tăng thêm sức chịu đựng của đôi chân tôi.
Giữa
trưa, tôi dừng lại dưới bóng mát của một cây to, lấy
cơm ra ăn, lấy nước ra uống. Tôi nghỉ ngơi chốc lát
rồi lại ra đi. Hơi thở tôi phì phò mệt nhọc nhưng
chân tôi vẫn rảo bước. Nỗi háo hức gặp lại đồng
đội nội trong ngày hôm nay đổ thêm sức mạnh vào đôi
chân.
Đến
chiều, khi mặt trời sắp chìm sau đỉnh đồi ở hướng
tây, đôi chân tôi trở nên cứng đờ, không thể nào
điều khiển được. Tôi ngồi xuống đất dựa vào một
thân cây, duỗi thẳng chân. Tôi có cảm tưởng đôi chân
đã bị một mụ phù thủy làm cho hóa đá. Không phải
thế, nó nặng nề, cứng ngắc, bất động, nhưng không
phải là hai khối đá vô tri. Từ đùi đến bắp chân thì
nhức dữ dội còn hai bàn chân thì đau đớn như đang bị
một đàn kiến bu vào cắn đốt.
Tôi
vụt hiểu quảng đường dài nửa ngày mà ân nhân tôi
nói hôm qua là với sức lực của người mạnh khỏe đã
quen di chuyển xuyên qua núi rừng. Còn với người vừa
khỏi bệnh như tôi, thời gian đó ắt phải nhân lên
nhiều lần. Tôi lấy ống nứa đựng nước ra. Nước vẫn
còn đầy. Cách đây hơn một giờ đồng hồ, tôi băng
qua một con suối và theo thói quen của những ngày hành
quân trước kia, tôi đã lấy nước thêm để dự trữ.
Tôi mở nắp ống, tu một hơi. Nước mát làm thần kinh
tôi dịu lại. Tôi đưa tay áo lau mồ hôi trên hai mắt và
nhìn về phía trước để ước đoán quãng đường còn
lại.
Tôi
bỗng giật mình, chăm chú nhìn. Thấp thoáng xa xa có một
mái nhà bé tí. Lại thêm một mái nhà nữa xa hơn, hình
như đó là một mái ngói. Đúng rồi, màu ngói nửa đỏ
nửa đen. Chắc chắn nơi đó là con đường lộ. Kể từ
khi Ông Ngô Đình Diệm thành lập các ấp chiến lược,
dân chúng đã dời nhà ra sống tập trung hai bên đường
lộ. Nay ấp chiến lược không còn nữa, họ vẫn sống
tại chỗ vì chiến tranh ngày càng ác liệt hơn.
Tôi
cố tìm bóng dáng con đường. Hình như nó kia kìa, một
vệt đen nhỏ dài, đứt khoảng giữa những lùm cây lúp
xúp. Đó thực sự là con đường hay chỉ là ảo giác?
Tôi không thể xác nhận được nhưng lòng tràn đầy hi
vọng. Tôi ước lượng khoảng cách từ đây đến đó,
khoảng từ năm đến mười cây số.
Tôi
khấp khởi mừng thầm. Đường về ở ngay trước mắt.
Nhưng đôi chân tôi vẫn cứng đờ như gỗ. Thôi, đêm
nay đành ngủ lại tại đây, sáng mai tiếp tục lên
đường. Tôi lấy phần cơm còn lại ra ăn nốt. Miếng lá
gói cơm được tôi cẩn thận xếp lại, nhét vào túi đeo
vai để làm kỷ niệm. Tôi nhớ lại những ân nhân của
tôi, nhớ bóng dáng họ đứng im trên sườn đồi, sau
lưng là cái chòi nhỏ bé, hai mái tranh đen sì kéo xuống
sát đất.
Trên
một chỗ cao bằng phẳng, tôi nằm ngửa ra nhìn lên bầu
trời cao, mỗi lúc một sẫm dần.
Suốt
đêm, nhiều lần, tôi cảm thấy sợ. Dưới nền đất có
chú rắn độc nào đang bò đến gần? Trong lớp lá cây
khô dưới lưng, có con bò cạp núi chứa đầy nọc độc
giết người hay không? Mấy bóng đen hiện lờ mờ dưới
ánh trăng non là những lùm cây hay dã thú đang rình rập
chờ tôi nằm yên là nhảy lại cắn nát cuống họng
và lôi tôi về hang ổ? Cảm giác sợ sệt nầy thực là
mới lạ, chưa bao giờ có trong những đêm hành quân, ngủ
rừng, ngủ bụi cùng đồng đội, cả trong những ngày cô
độc sau chuyến mở đường máu tháo chạy vừa qua.
Những
ngày qua, tôi ở nơi ranh giới của sự sống và sự chết.
Cho nên những nguy hiểm tưởng tượng trên đây chỉ là
chuyện vụn vặt không đáng nghĩ tới. Bây giờ sự sống
đang hiện ra rõ ràng trước mặt tôi, bên kia mấy ngọn
đồi thấp. Sự sợ hãi vu vơ nầy chính là lòng khát
khao được trở về với sự sống, với đồng đội, với
người vợ thân yêu. Sự sợ hãi không dừng tại đó.
Tôi liên tưởng đến những du kích ban đêm từ chiến
khu mượn đường qua đây về quấy phá xóm làng bên
dưới. Nếu tôi rơi vào tay họ thì mọi việc sẽ chấm
dứt; họ sẽ cho tôi nằm lại đây vĩnh viễn.
Sau
cùng, tôi cũng ngủ một giấc say sưa sau một ngày mệt
nhọc.
Tờ
mờ sáng hôm sau, tôi thức dậy, tinh thần rất phấn
chấn. Tôi khởi hành ngay. Hơn hai giờ sau, tôi băng qua
đường xe lửa. Hai thanh sắt đã rỉ sét, cỏ và những
bụi cây che khuất, đứng kế bên mới nhận ra được.
Rồi quốc lộ số Một hiện ra, với xe cộ lưu thông qua
lại; nỗi vui mừng của tôi không sao tả xiết.
Tôi
bước lên vệ đường, nhìn dọc theo hai chiều con lộ và
nhận ra nơi đây thuộc về Hương trà, cách Huế độ một
chục cây số về phía bắc.
Một
chiếc xe Lam
ba bánh xuất hiện sau một khúc quanh. Xe đỗ lại sau cái
vẫy tay của tôi. Mọi người nhìn tôi một cách lạ
lùng. Tôi cố leo lên một cách nặng nhọc. Người đàn
ông ngồi phía sau kéo tôi lên và dìu tôi vào tận trong
cùng, ngồi ngay sau lưng bác tài xế. Mọi hành khách tiếp
tục nhìn tôi. Tôi biết mười mấy ngày qua đã biến đổi
hình dạng tôi quá nhiều. Một người đàn bà không dằn
được tò mò, hỏi tôi từ đâu đến. Tôi kể cho họ
nghe sơ lược câu chuyện của tôi và bây giờ tôi trở
về trình diện tiểu khu Thừa thiên. Đáng lẽ tôi không
nên kể chuyện nầy với họ. Nhưng, đang trong cơn phấn
khởi tột độ, tôi cần nói cho mọi người nghe hạnh
phúc vô cùng to lớn của tôi lúc nầy.
Xe
băng qua cầu Bạch hổ, tiếp tục chạy ngang qua vài con
đường và dừng lại trước cổng tiểu khu. Bác tài xế
mời tôi xuống để xe quay trở về bến. Tôi chợt hiểu.
Bác tài đã đi sai lộ trình để đưa tôi đến tận nơi.
Trong lúc lái xe, bác đã lắng nghe câu chuyện tôi kể với
mấy hành khách phía sau.
Tôi
bước xuống, đến trước đầu xe để trả tiền. Bác
tài xua tay:
-
Không, tôi không lấy tiền đâu, đại úy vào tiểu khu
đi.
Nói
xong, bác mỉm cười cho xe tiến tới. Tôi ngẩn ngơ nhìn
theo. Hành khách phía sau vẫy tay chào, tôi vẫy theo đáp
lễ. Tôi còn đứng nhìn theo cho đến khi xe khuất bóng.
Mắt tôi rưng rưng, lòng bồi hồi cảm xúc vì tình người
mà tôi nhận được sau cơn hoạn nạn.
Tôi
quay lui đến trạm gác của tiểu khu. Lập tức, người
binh sĩ trực cổng thông báo vào bên trong. Người ta đưa
tôi vào, mọi người xúm xít lại hỏi han. Tin tức về
trận đánh đẫm máu trên ngọn đồi vẫn đang còn nóng
hổi tại đây và sự tan rã của đại đội tôi vẫn còn
là đề tài bàn bạc của mọi người. Tôi trở về như
một nhân vật huyền thoại.
Tôi
được đưa ngay đến quân y viện để khám sức khoẻ.
Người ta lấy máu của tôi để xét nghiệm và kết luận
tôi bị sốt rét với cùng lúc nhiều loại huyết trùng
tập trung. Quân y viện đang đầy nhóc thương binh, trực
thăng tải thương gần như mỗi ngày đều đáp xuống
trong khuôn viên. Vì vậy tôi được đưa về phòng vãng
lai của tiểu khu để điều trị ngoại trú. Cơn sốt đã
qua, việc điều trị và phục hồi sức khoẻ không còn
gì khó khăn và khẩn cấp.
Tôi
yên tâm và nghĩ ngay đến việc liên lạc với đơn vị
của mình. Đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng
đến thăm tôi một lần. Ông siết tay tôi thực lâu và
thực ân cần. Đại úy Tuyến, trưởng phòng Năm thường
đến trò chuyện với tôi. Ông ta cho hay đã liên lạc với
tiểu đoàn thủy quân lục chiến của tôi. Ông cũng nói
rằng khi nghe tin tôi trở về, anh thiếu tá tiểu đoàn
trưởng nhảy cẫng lên, cả tiểu đoàn đều reo hò. Tôi
rất cảm động về tình cảm mà đồng đội dành cho
tôi.
Tôi
được biết trong số năm mươi sáu người mở đường
máu để trốn nhạy, ba muơi lăm người đã lần lượt
trở về trình diện. Họ tìm được đường về rất sớm
trong khoảng từ hai đến bốn ngày sau khi thoát khỏi ngọn
đồi. Người ta chờ đợi thêm vài ngày rồi kết luận
những người còn lại đã tử trận hoặc đã bị rơi
vào tay địch. Trong số các trung đội trưởng, chỉ có
một người trở về, đó là thiếu úy Tánh, được đặc
cách lên trung úy ngay. Tôi nghe và chết điếng trong lòng.
Trời hỡi, hai mươi mốt anh em tôi đã không trở về
nữa, họ đã bị bắt làm tù binh hay đã vĩnh viễn nằm
lại trong chốn rừng núi âm u. Tôi nhớ lúc băng xuống
sườn đồi trọc, nhiều người ngã gục trước lằn đạn
bên dưới bắn lên.
Người
ta cũng cho hay trong cái đêm kinh hoàng đó, ước lượng
có đến hai trung đoàn mới từ miền Bắc vào, có cả xe
tăng yểm trợ, nếu chúng tôi không mở đường máu ngay
giờ phút đó thì không còn một ai trong đại đội trở
về nữa. Họ đã chiếm được ngọn đồi, giữ được
một đêm và một ngày, sau đó cũng phải bỏ vì không
chịu nổi hỏa lực của pháo binh và phi cơ chúng ta. Than
ôi, chỉ vì một ngọn đồi mà bao nhiêu máu thắm đã đổ
ra, bao nhiêu con người khoẻ mạnh yêu đời phải nằm
xuống rồi cuối cùng chẳng ai muốn giữ nó nữa. Chiến
tranh là cái trò độc ác và quái đản như thế.
Tôi
sực nhớ tới Thu Hồng. Người ta đã kết luận tôi tử
trận cùng hai mươi anh em khác và người ta đã báo về
gia đình chưa? Thu Hồng đã nhận được hung tin nầy
chưa? Nếu nhận được rồi, tâm trạng nàng sẽ ra sao?
Có bị suy sụp vì đau đớn và tuyệt vọng hay không? Tôi
tìm đến vị sĩ quan chiến tranh chính trị của tiểu khu
và nói rõ sự lo lắng của mình. Ông ta ôn tồn trả lời:
-
Đối với tiểu khu, tiểu đoàn thủy quân lục chiến các
anh là lực lượng tăng phái. Chúng tôi chỉ phối hợp
với tiểu đoàn về hành quân mà thôi. Kết luận các anh
tử trận và thông báo về cho gia đình không phải là
phần việc của tiểu khu.
Ông
im lặng một chút rồi nói tiếp, giọng rầu rĩ:
-
Theo tôi, việc thông báo về gia đình có thể đã làm
xong rồi. Chiến trường đang sôi động, ngày nào cũng có
người chết, nhất là binh chủng thiện chiến của đại
úy, luôn luôn phải lao vào những nơi nguy hiểm nhất và
đứng mũi chịu sào trước hỏa lực của quân địch.
Các trung tâm hành quân, các phòng và ban Ba quay cuồng
trong công việc, các đơn vị hành chánh cũng quay cuồng
theo. Người ta phải giải quyết công việc thực nhanh
không thể để tồn đọng được.
Lời
giải thích hữu lý của ông đại úy nầy làm tăng nỗi
lo lắng của tôi. Tôi phải thông báo ngay về cho Thu Hồng
rõ là tôi còn sống và sẽ về gặp lại nàng. Hôm nay là
ngày thư tư sau khi tôi thoát nạn, tôi tự trách mình đã
không thông báo cho nàng ngay ngày đầu tiên.
Tôi
nhờ xe tiểu khu đưa ra phố đánh điện khẩn cấp về
địa chỉ của Thu Hồng tại nhà riêng của chúng tôi.
Tôi đánh thêm một điện tín về trường cho Thịnh, với
ý nghĩ nàng có thể nhận được ngay trong giờ dạy. Cả
hai bức điện, tôi đều cho địa chỉ của tiểu khu. Tôi
về phòng vãng lai và sốt ruột đợi chờ. Tôi chờ đợi
điện trả lời của Thu Hồng đồng thời chờ lệnh
triệu hồi về tiểu đoàn để gặp lại anh em.
Trong
các sĩ quan của đại đội tôi sẽ còn gặp lại trung úy
Tánh mà thôi, những người khác, vĩnh viễn tôi không còn
thấy mặt nữa. Nước mắt tôi trào ra. Tôi nhớ lại
những cuộc hành quân, chúng tôi cùng lao vào chỗ chết;
lúc dừng quân, anh em cùng xúm xít nhau quanh tấm bản đồ.
Rồi những lúc tạm đồn trú gần thành phố, anh em ngồi
đầy xe Jeep,
đi la cà từ quán nầy đến quán nọ. Than ôi, nay còn đâu
những đồng đội thân yêu như ruột thịt đó nữa.
Sau
ba ngày chờ đợi, tôi nhận được điện tín trả lời
của Thịnh từ Sài gòn đánh ra: “Chị
Hồng bệnh rất nặng, anh về gấp”.
Tôi choáng váng mặt mày vì bức điện. Tôi cầm nó trên
tay và chạy ngay lên phòng chiến tranh chính trị. May quá,
đại úy Tuyến, trưởng phòng có ở đó. Tôi trao ngay bức
điện cho ông ta. Đọc xong, ông nhìn tôi, giọng rầu rĩ:
-
Tôi xin chia buồn với đại úy.
Tôi
ngắt ngang câu nói:
-
Đại úy có thể giúp tôi một giấy phép về thăm vợ
tôi ngay không?
Ông
im lặng nhíu mày suy nghĩ. Một phút sau, ông ngẩng lên,
giọng trầm và trịnh trọng:
-
Đại úy có đủ bình tĩnh để giữ kín lời tôi sắp
nói hay không?
Tôi
sửng sốt nhưng vẫn trả lời một cách sốt sắng:
-
Đại úy hãy tin tôi.
Ông
ta bước ra khỏi bàn làm việc, đến ngồi bên tôi:
-
Tôi được biết lữ đoàn đang tái lập lại đại đội
của đại úy với tân binh và những sĩ quan, hạ sĩ quan
trích ra từ các đơn vị khác. Dĩ nhiên, đại úy sẽ trở
về chỉ huy đại đội, với điều kiện…
Tôi
sốt ruột ngắt lời:
-
Điều kiện gì?
-
Nhận được ý kiến thuận của an ninh quân đội.
-
Trời!
Tôi
cảm thấy choáng váng với bốn chữ an
ninh quân đội nầy.
Tôi đang bị điều tra như một tên tội phạm sao? Nỗi
gian truân, nỗi đau khổ trong những ngày thất lạc dẫn
đến hoàn cảnh ngày nay sao? Lòng nhớ nhung đơn vị, lòng
khát khao trở về chiến đấu cùng đồng đội trong lúc
nằm kề cái chết trong căn chòi tồi tàn được xem như
một điều phạm tội hay sao?
Có
lẽ hiểu lòng tôi nên vị sĩ quan chiến tranh chính trị
ôn tồn tiếp lời;
-
Tôi biết nỗi buồn phiền trong lòng đại úy. Đại úy
còn quá trẻ. Đó là điều thuận lợi cho con đường
tiến thân trong binh nghiệp của đại úy. Đại úy đã
được thăng cấp nhanh hơn tôi nhiều. Tôi nghĩ rằng
những lần lên lon của đại úy đều xảy ra ngoài mặt
trận, sau những chiến công liên tiếp, có phải không
nào?
Tôi
trả lời cộc lốc:
-
Phải.
Đại
úy Tuyến vẫn giữ nét mặt ôn hòa và kiên nhẫn:
-
Cấp bậc đại úy khi còn khá trẻ là thuận lợi cho binh
nghiệp, nhưng bất lợi trong kinh nghiệm sống. Mỗi người
trong chúng ta chỉ là một cái gì đó nhỏ xíu trong guồng
máy xã hội khổng lồ. Guồng máy đó vốn vô tình. Nó
không quan tâm đến hoàn cảnh, ý nghĩ và tâm tình của
mỗi người. Nó cứ quay với một nhịp cứng ngắc và
bắt mọi người phải quay theo. Đôi khi, ta thấy sự quay
cuồng đó thực là phi lý cho hoàn cảnh của riêng chúng
ta, nhưng không thể làm khác hơn được. Nếu chúng ta
không chịu quay theo, ắt sẽ bị nghiền nát hoặc văng ra
ngoài và lập tức bị guồng máy khác đến cuốn đi. Đại
úy có hiểu được ý tôi không?
Tôi
bực tức trả lời:
-
Ông muốn bảo rằng mỗi thân phận của người miền
Nam, kể cả dân lẫn quân, đều bị áp lực của hai
guồng máy, một của quốc gia, một của cộng sản và
chúng ta không thể đứng ở thế độc lập được, có
phải thế không? Nhưng thôi, đừng dài dòng nữa. Đây
không phải là một lớp triết học, tôi từ giã nó lâu
rồi. Ông hãy cho tôi biết ngay, có thể “đề
mẹt” cho tôi một
giấy phép đặc biệt hay không? Nếu tôi không về kịp,
vợ tôi có thể chết mất.
Đại
úy Tuyến nắm lấy hai vai tôi, giọng vẫn ôn tồn, rất
đúng với tư thái của sĩ quan chiến tranh chính trị:
-
Đại úy hãy bình tĩnh, tôi không dài dòng đâu. Tôi biết
bức điện gây cho đại úy sự xúc động mãnh liệt. Tôi
biết mình không đủ khả năng an ủi đại úy như tôi
đã làm với bao nhiêu người khác. Do đó, tôi phải trình
bày từ nguồn gốc vì đối với người trí thức, chỉ
có lý trí mới làm được công việc an ủi mà thôi.
Chúng ta là những người trí thức, hoàn cảnh buộc chúng
ta khoác quân phục nhưng chiến tranh không thể làm mất
bản chất của chúng ta. Nhờ cái bản chất trí thức đó,
chúng ta mới tự nhắc nhở cho mình về thân phận con
người để có thể cắn răng chịu đựng và chấp nhận
những phi lý của cuộc đời như là điều hoàn toàn hữu
lý. Tôi phải nói trước như thế để mong đại úy sẵn
sàng nhận chịu những điều phi lý của cuộc đời nầy.
Bây giờ, tôi đi vào vấn đề đây. Sự trở về của
đại úy đã gây xúc động rộng khắp, ở tiểu đoàn
thủy quân lục chiến của đại úy, ở tiểu khu chúng
tôi và có lẽ ở nhiều nơi khác nữa, Việc đại úy mở
đường máu để cứu nhiều anh em trong đại đội là
hoàn toàn theo lệnh trên và rất hữu lý về chiến thuật.
Phúc trình của đại úy về những ngày thất lạc trong
rừng rất cảm động và không ai nghi ngờ sự chân thật
của đại úy. Nhưng cái điều trớ trêu là đại úy bị
kẹt trong rừng đến mười bốn ngày, nghĩa là mười
ngày sau khi người cuối cùng về trình diện đơn vị.
Đại úy lại về mình không, súng và bản đồ đều mất
cả. Điều đó, quân đội không thể bỏ qua dễ dàng,
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Viên
sĩ quan chiến tranh chính trị ngưng nói, nhìn tôi để dò
phản ứng. Ông ta nắm tay tôi bóp nhẹ một cách thân ái.
Bây giờ tôi mới để ý đến nét mặt hiền lành và nho
nhã của ông ta. Mấy hôm trước, trong một câu chuyện ở
bữa ăn, thiếu tá trưởng phòng hành quân bảo rằng ông
ta là một sĩ quan được mọi người trong tiểu khu kính
mến. Ông ta đã tốt nghiệp Đại học sư phạm, bị động
viên năm 1962, giải ngũ rồi lại tái ngũ vì lệnh tổng
động viên sau Tết Mậu thân. Vì vậy, mang lon đại úy
trên vai nhưng giọng nói vẫn giữ nét hấp dẫn của giáo
sư giảng bài trên lớp học:
-
Mười ngày, hay đúng hơn mười bốn ngày đó của đại
úy cần phải được xác minh một cách khách quan. Những
người duy nhất có thể làm nhân chứng, theo phúc trình
của đại úy, là hai vợ chồng người Thượng. Nhưng lẽ
nào phải mở một cuộc hành quân quy mô có cả pháo binh
và phi cơ yểm trợ, chỉ vì mục đích hỏi hai nhân chứng
đó một câu hay sao? Không thể có chuyện đó được.
Tôi
không thể kềm chế cơn giận, nên to tiếng:
-
Các ông không tin tôi à? Các ông nghi tôi điều gì? Trời
ơi, trong bao nhiêu ngày tôi nằm trong căn chòi khổ sở
đó, lòng lúc nào cũng cồn cào nỗi mong chờ được về
chiến đấu cùng anh em, thế mà bây giờ người ta lại
đối xử với tôi thế nầy sao?
Đại
úy Tuyến chồm tới trước nắm cả hai bàn tay tôi:
-
Đại úy hãy bình tĩnh nghe tôi nói tiếp đây. Không ai
nghi ngờ một điều gì xấu xa cho đại úy vì không có
một bằng chứng nào để có thể nghi ngờ. Rồi cuối
cùng, người ta sẽ phải kết luận phúc trình của đại
úy là xác thực. Nhưng không thể kết luận nhanh chóng
được vì sợ trái với thủ tục. Thủ tục thì lúc nào
cũng phiền phức và lê thê. Hơn nữa, người ta phải cố
ý kéo dài thời gian trong việc xác minh. Thời gian càng
dài thì càng đỡ trách nhiệm cho người sẽ ký tên cuối
cùng trong bản xác minh cho đại úy.
Tôi
chăm chú nghe và cảm thấy nỗi cay đắng cùng cực vẫn
tiếp tục tràn ngập trong lòng. Tôi hỏi với giọng đầy
chán nãn:
-
Thời gian đó là bao lâu?
-
Tùy thuộc bên an ninh quân đội.
Một
lần nữa, tôi không dằn được cơn bực tức:
-
Vậy thì người ta cứ điều tra đi. Tiểu khu hãy cấp
cho tôi một giấy phép về với vợ, điều tra xong, tôi
sẽ trở lại chiến đấu với anh em.
Đại
úy Tuyến nhìn tôi một cách thương hại:
-
Hiện nay, tiểu khu có bổn phận cung cấp cho đại úy tất
cả tiện nghi về ăn ở để đại úy phục hồi sức
khoẻ. Đại úy có toàn quyền tự do đi đây đi đó trong
thành phố nầy nhưng chiều phải về ngủ tại tiểu khu.
Ông
ta ngừng nói nhìn tôi mỉm cười, mặt hóm hỉnh như
người thầy nhìn đứa học trò tinh nghịch:
-
Đại úy muốn “vui vẻ” ở đâu đó một đêm như ngủ
đò trên sông Hương cũng được, nhưng xin lưu ý hai điều.
Một là tình hình an ninh về đêm không đảm bảo lắm;
hai là trước khi đi, đại úy cho chúng tôi biết để ghi
vào sổ trực.
Tôi
nghe nóng ran trên đầu:
-
Có nghĩa là tôi bị quản thúc phải không?
-
Không, hoàn toàn không phải thế. Đại úy vẫn là sĩ
quan Việt Nam Cộng hòa, một anh hùng sau trận đánh chiếm
lại đồi 247 vừa qua, không ai có quyền quản thúc đại
úy. Tuy nhiên, điều thực tế hiện nay là đại úy đang
tùy thuộc an ninh quân đội.
Tôi
nhắc lại đề nghị vừa nói khi nãy:
-
Nếu chưa hết nghi ngờ tôi và chưa cho tôi trở về chiến
đấu thì hãy cấp phép cho tôi về với gia đình.
Viên
sĩ quan lắc đầu:
-
Có lẽ đại úy đã hiểu những điều tôi vừa trình
bày. Đại úy không thể nào có tờ giấy phép đó. Chiến
sự đang ác liệt, tất cả giấy phép dài hạn ở vùng
Một Chiến thuật nầy đều bị bãi bỏ. Hơn nữa trong
tình trạng của đại úy hiện nay, không một ai dám đặt
bút ký giấy phép cho đại úy. Tôi nói với đại úy một
cách chân thật trong tình anh em, trong tình chiến hữu, đại
úy có giận tôi không?
Tôi
nhìn đôi mắt hấp háy hiền lành sau đôi kính trắng,
đáp lời một cách chán nản:
-
Cám ơn đại úy.
Tôi
đứng dậy, thẳng người, hai chân chụm lại tay đưa lên
ngang mày, tôi chào ông đại úy. Tôi chua chát nghĩ thầm
rằng đây là cái chào cuối cùng của đời tôi theo đúng
quân cách. Vị sĩ quan chiến tranh chính trị sửng sốt vì
ngạc nhiên. Do phản xạ, ông bật dậy đứng nghiêm để
chào trả. Sau một thoáng, ông đoán được tâm trạng của
tôi nên bắt tay tôi, giọng nhỏ nhẹ:
-
Tôi xin chia sẻ nỗi buồn phiền của đại úy. Với tư
cách người lớn tuổi hơn, tôi xin phép nói lời khuyên
cuối cùng: “phải hết sức thận trọng, phải suy nghĩ
thực kỹ trước khi hành động”.
Một
lần nữa, tôi nói lời cám ơn và quay về phòng. Tôi móc
tất cả tiền trong túi ra đếm. Món tiền khá khiêm tốn
nầy đã theo tôi trong suốt những ngày gian truân vừa
qua. Mấy hôm nay, tiểu khu lo mọi việc cho tôi một cách
chu đáo nên tôi chẳng phải đụng đến nó. Chừng này
chắc sẽ đủ cho những ngày đường sắp tới của tôi.
Dĩ
nhiên, tôi phải đi đường bộ, không thể đi máy bay
được vì tôi không có giấy nghỉ phép trong tay. Tôi phải
về với Thu Hồng, càng nhanh càng tốt. Nàng đang bệnh
rất nặng, tôi phải gặp nàng. Nếu không kịp gặp nàng
thì cuộc sống của tôi trên trần thế nầy từ đây sẽ
chỉ còn có bóng tối mà thôi. Lần trước, khi về phép,
tôi đã dẫn nàng đi khám, kết quả là nàng bị bệnh về
tim mạch. Có lẽ bệnh nầy gây đột quị khi được tin
tôi tử trận. Càng suy nghĩ, tôi càng bấn loạn. Tôi phải
về ngay, không thể chần chừ một giây phút nào nữa.
Tôi
đi bộ ra phố, mua một bộ áo quần dân sự và đến bến
xe đò hỏi thăm chuyến vào Nam. May quá, đường còn thông
suốt, máu của đồng đội tôi hẳn đã đổ rất nhiều
để giữ gìn con đường huyết mạch nầy. Tuy vậy, người
ta cho hay tình hình an ninh nhiều nơi khá bấp bênh nên xe
chỉ dám chạy ban ngày còn đêm phải dừng lại nghỉ ở
các thành phố. Do đó, từ Huế về đến Sài gòn phải
mất đến ba ngày. Hỏi xong tin tức, tôi mua vé xe và trở
về tiểu khu, nằm nghỉ để dành sức cho chuyến đi
đường dài vào ngày mai.
Suốt
buổi chiều, lòng tôi thực bồn chồn. Tôi nằm yên, nhắm
mắt, cố thư giãn, nhưng những ý nghĩ cứ tràn ngập
trong đầu. Lần đầu tiên, tôi đi đường bộ suốt bề
dài hơn một ngàn cây số trong tình hình an ninh không bảo
đảm. Tôi hi vọng cái căn cước dân sự mà tôi còn giữ
giúp tôi được an toàn.
Tôi
biết, lần nầy rời khỏi đây, hậu quả sẽ rất trầm
trọng. Mặc dù đại úy Tuyến đã cố tình làm nhẹ bớt
tình trạng đáng phiền của tôi nhưng tôi hiểu rằng
mình đang ở trong diện bị tình nghi theo địch và đang
bị an ninh quân đội theo dõi để điều tra. Trốn đi gần
như đồng nghĩa nhận tội phản quốc. Bức điện của
Thịnh không đủ biện minh cho hành động nầy. An ninh
quân đội là một cơ quan lạnh lùng, đến cấp tướng
đụng đến cũng ê mình. Chắc chắn, tiểu khu phải rất
kiêng nể họ nên sẽ báo cáo sau khi tôi vắng mặt một
đêm và an ninh quân đội ra ngay cáo thị tầm nã gởi đi
khắp nơi. Địa chỉ của Thu Hồng ở Sài gòn thì quân
cảnh đã biết quá rõ vì nó nằm ngay trong hồ sơ lý
lịch của tôi. Tôi phải nhanh chóng về Sài gòn trước
khi lệnh tầm nã gởi đến đây. Tôi phải gặp cho được
Thu Hồng trước khi rơi vào tay quân cảnh hoặc nhân viên
chìm của an ninh quân đội. Gặp được nàng để xem bệnh
tình nàng thế nào rồi sẽ tính tới việc tiếp theo.
Sáng
sớm hôm sau, tôi ra phố. Chuyện nầy cũng bình thường
vì mọi hôm, tôi vẫn đi ăn sáng đến trưa mới về dùng
cơm tại tiểu khu. Có điều khác mọi hôm là lần nầy
tôi mặc đồ dân sự. Nhưng điều đó chẳng gây sự chú
ý nào. Tôi không phải là sĩ quan ứng chiến của tiểu
khu mà là sĩ quan đang trong thời kỳ dưỡng bệnh, ăn
diện để ra phố giải trí là điều bình thường.
Tôi
leo lên chiếc xe đò đã mua vé trước và mươi phút sau,
xe bon bon thẳng tiến về Nam. Tôi phải sang xe tại Đà
nẵng rồi từ đó đi thẳng về Sài gòn, sau hai đêm ngủ
lại tại Quy nhơn và Nha trang.
Xe
vào thành phố lúc thủ đô sắp lên đèn. Bước xuống
xe đò, tôi leo lên taxi
về đường Lê văn Duyệt. Xuống xe, tôi nhét tiền vào
tay bác tài, không kịp lấy lại tiền dư, vội phóng
ngay vào ngõ hẻm dẫn đến nhà chúng tôi. Cửa nhà đóng
kín, một ống khóa to tướng lủng lẳng bên ngoài. Hai
chị em không có ở nhà. Thế là sao? Chuyện gì đang xảy
ra? Lòng bấn loạn, tôi quay ra lộ. Giờ nầy chắc chắn
nhà trường đã đóng cửa nên tôi không ghé vào mà nhảy
lên xích lô, hối chạy về nhà Thịnh ở đường Nguyễn
Du.
Cửa
mở, tôi bước vào. Thịnh đang ngồi ghế xem truyền
hình. Thấy tôi, anh đứng bật dậy:
-
Ô kìa, anh Hưng.
Anh
lao đến, nắm chặt hai vai tôi. Lập tức, tôi hỏi, giọng
nghẹn ngào:
-
Anh Thịnh, Thu Hồng ở đâu?
-
Đang nằm trong nhà thương Chợ rẫy.
-
Tại sao? Tại sao? Tự bao giờ rồi?
Nghe
giọng tôi run run, Thịnh ấn tôi ngồi xuống ghế đối
diện với anh. Chị Thịnh nghe tiếng vội chạy lên đứng
cạnh chồng. Tôi đứng dậy chào chị rồi ngồi xuống
nhìn Thịnh chờ đợi. Thịnh nói nhanh:
-
Tai biến ở não. Mười ngày rồi.
Tôi
thở hổn hển:
-
Nặng lắm không, nguy hiểm lắm không?
Thịnh
nhìn tôi ái ngại:
-
Anh hãy bình tĩnh. Bệnh cô Hồng khá nặng, mê man suốt
hai ngày mới tỉnh dậy. Tỉnh nhưng tứ chi bất động,
mất luôn tiếng nói. Mấy ngày đầu phải truyền nước
biển, sau đó tập ăn cháo và sữa, bây giờ ăn được
cơm rồi. Các ngón tay, môi và mí mắt đầu bắt đầu cử
động được, các phần khác của cơ thể vẫn bất động.
Anh
ngưng nói, nhìn tôi một cách buồn bã. Chị Thịnh lấy
tay áo chặm vào mắt. Tôi ngồi yên, cảm thấy như bị
dìm vào một khối băng lạnh buốt, ánh đèn trước mắt
tôi bị nhòe đi. Tôi hỏi Thịnh:
-
Anh và Thu Hồng đã được tin tôi tử trận phải không?
Thịnh
gật đầu. Tôi hỏi tiếp:
-
Có phải vì thế mà Thu Hồng ngã bệnh không?
Thịnh
gật đầu:
-
Đọc xong bức điện, cô Hồng ngã xuống nền gạch trong
văn phòng của tôi. Tôi đưa ngay vào cấp cứu ở bệnh
viện Sài gòn. Người ta chuyển sang Chợ rẫy. Các bác sĩ
đã rất tận tình cứu chữa. Bác sĩ cho biết bây giờ
cô Hồng qua cơn nguy hiểm về tính mạng rồi nhưng sự
phục hồi các chức năng sẽ rất khó khăn. Cũng may, đem
đến bệnh viện kịp thời, để trễ thì nguy. Nếu cô
Hồng nhận được điện báo tin tại nhà một mình thì
không biết chuyện sẽ tệ hại đến thế nào.
-
Nhưng tại sao người ta lại báo tin về trường?
Thịnh
giải thích:
-
Bưu tá mang công điện đến nhà anh thì nhà đóng cửa vì
cả hai chị em đang ở tại trường. Hàng xóm đã chỉ
cho ông ta đến đây. Đó là một người có lương tâm
nghề nghiệp, nhìn bên ngoài bức điện là ông ta biết
chuyện quan trọng rồi nên không chậm trễ.
Thịnh
quay sang vợ:
-
Em đi mua thức ăn về cho anh Hưng đi.
Tôi
xua tay:
-
Không, cám ơn chị, tôi phải vào với Thu Hồng lập tức.
Anh Thịnh, anh cho tôi biết số phòng đi.
-
Được rồi, tôi đi với anh. Chúng ta còn nhiều việc
phải bàn ngay. Chúng tôi không biết làm gì để giúp đỡ
vợ anh nên ngày nào cũng ngóng đợi anh về.
Nói
xong, Thịnh vội vàng vào nhà thay áo quần rồi dẫn xe
gắn máy ra khỏi nhà. Tôi leo lên yên sau. Thịnh nổ máy
xe và phóng ra đường. Hơn một năm rồi mới trở về
chốn cũ nhưng tôi chẳng còn đầu óc đâu để ngắm
cảnh phố phường.
Đến
bệnh viện, hai chúng tôi chạy lên cầu thang, đi dọc
theo hành lang và dừng trước một phòng nhỏ đèn sáng
choang. Tôi định phóng vào thì Thịnh níu tay tôi lại,
nói nhỏ:
-
Khoan, anh vào đột ngột, có thể gây xúc động mạnh cho
cô Hồng. Anh đứng đây, chưa được vào, tôi tìm hỏi
bác sĩ trực trước đã.
Anh
bỏ đi, tôi đứng yên lòng nóng như lửa đốt, nhưng
cũng phải công nhận sự hiểu biết và cẩn thận rất
hữu lý của bạn mình. Tôi cố nhìn vào trong nhưng không
thấy được gì cả vì muốn vào đến giường bệnh còn
phải đi qua một hành lang hẹp trong phòng. Một phút sau,
Thịnh quay trở lại, bước đi thoăn thoắt. Anh kéo tay
tôi và nói vội rằng bác sĩ cho vào nhưng dặn tránh cử
chỉ nào có thể gây xúc động mạnh cho bệnh nhân. Anh
bảo tôi đi chậm lại để anh vào trước tìm cách báo
cho Thu Hồng rõ để tránh gây đột ngột cho nàng. Tôi
cảm động vì sự lo lắng của bạn mình.
Một
phút sau, tôi nhẹ nhàng bước vào khi thấy anh ra hiệu.
Qua
hành lang hẹp và ngắn, trước mặt tôi là bốn giường
bệnh trắng phau. Ở giường cuối cùng, tôi nhận ra ngay
Thu Hồng thân yêu của tôi. Nàng nằm đó, khăn trắng phủ
lên tận ngực, đầu nghiêng, mặt ngoảnh ra ngoài. Tôi
quên lời dặn của bạn, vội lao đến. Tôi quỳ xuống,
cầm lấy cánh tay bất động, cúi xuống mặt nàng. Đôi
mắt to của nàng nhìn sững tôi, môi mấp máy, Từ trong
đôi mắt, hai giọt nước chảy ra. Tôi gục đầu xuống
cánh tay nàng, cố gắng nhưng không ngăn được hai dòng
nước mắt.
Khi
tôi ngẩng lên thì thấy vị bác sĩ trực mặc áo trắng
đã đứng kề bên tự lúc nào. Tôi vội vàng đứng dậy,
thấy mặt nàng có vẻ sáng rỡ, mắt long lanh dù nước
mắt còn lưng tròng. Vị bác sĩ cúi xuống, khẽ kéo cánh
tay nàng ra đo huyết áp. Tôi hồi hộp theo dõi. Đo xong,
ông ngẩng lên nói với Thịnh:
-
Tốt, sự có mặt của ông chồng chẳng gây điều gì tệ
hại cả, trái lại còn có thể làm cho cho bệnh trạng
của bà đây tiến triển tốt hơn. Đáng mừng hơn đáng
lo. Thôi chào các ông, tôi trở về phòng trực. Bất cứ
lúc nào các ông cũng có thể gặp tôi tại đó.
Tôi
nói lời cám ơn và nghiêng mình thực sâu. Khi tôi quay
lại, Thanh đứng cuối giường nhìn tôi trân trối. Có lẽ
em đã đứng đó từ lâu nhưng tôi không để ý khi bước
vào. Năm nay Thanh đã lên mười lăm, không còn là bé bỏng
nữa nhưng nét mặt còn giữ vẻ thơ ngây của ngày trước.
Em bước đến gần tôi, nghẹn ngào:
-
Anh Hưng, em tưởng không còn bao giờ thấy anh nữa.
Nói
xong, em úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở.
Tôi
vỗ vào vai em, an ủi:
-
Anh về đây, anh vẫn còn trên đời nầy. Anh cám ơn em đã
săn sóc chị trong những ngày qua.
Nói
xong, tôi quay lại, cúi xuống sát mặt Thu Hồng, cố lấy
giọng rõ ràng và chậm rãi:
-
Thu Hồng, Thu Hồng, anh đã về đây, em có nhận ra anh
không?
Môi
nàng mấp máy như mỉm cười, đôi mắt nàng chớp chớp
như thay cho cái gật đầu. Hai tay tôi ôm lấy mặt nàng,
hôn nhẹ vào mắt nàng. Tôi ngẩng lên, ngạc nhiên thấy
khuôn mặt nàng có vẻ ửng hồng, xinh đẹp lạ thường.
Tôi
quỳ xuống bên giường định nói chuyện thêm với nàng
thì Thịnh bước đến bên giường, giọng dịu dàng:
-
Cô Hồng, cô có nhận ra tôi là ai không?
Thu
Hồng đưa mắt nhìn lên, khẽ nhíu mày, môi mấp máy.
Nàng lại như có vẻ gật đầu. Chân Thịnh đá nhẹ vào
chân tôi rồi đi ra. Hiểu ý, tôi đưa tay vuốt má Thu
Hồng, nói với nàng:
-
Thu Hồng, em nằm nghỉ. Đêm nay, anh sẽ ở lại với em.
Ngày mai, ngày mốt, mãi mãi anh ở lại bên em, em có vui
không?
Thu
Hồng nhìn tôi, môi mấp máy. Tôi thấy rõ ràng nàng đang
mỉm cười. Tôi đứng lên, đi ra ngoài. Thịnh đang đợi
tôi ở hành lang. Anh nói nhỏ:
-
Anh Hưng, thật là lạ, gần như nhiệm mầu. Mười ngày
rồi, cô Hồng thiêm thiếp, thức dậy thì mắt lờ đờ,
không nhận ra ai cả, kể cả em Thanh. Mới hôm qua, tôi và
vợ tôi vào thăm thì Hồng vẫn không nhận ra, Bây giờ,
anh về, bỗng dưng ký ức Hồng trở lại, cái nhìn trở
nên tinh anh một cách lạ lùng. Tôi hi vọng việc anh trở
về từ cõi chết sẽ làm chị Hồng mau bình phục.
Anh
nói tiếp, giọng ngập ngừng:
-
Nhưng anh về phép được bao lâu?
Tôi
cúi đầu, buồn bã trả lời:
-
Tôi trốn về, chẳng có phép tắc gì cả. Có lẽ nay mai,
người ta ký lệnh truy nã tôi. Mặc kệ, tôi bỏ hết,
tôi phải ở lại đây, tôi phải săn sóc Thu Hồng ngày
đêm, số phận ra sao, sau nầy tôi cam chịu.
Thịnh
sửng sốt nhìn, như không tin lời nói đó là của tôi:
-
Trời Đất. Anh nói thiệt không? Tại sao bức điện tôi
đánh rõ ràng như thế mà người ta không cấp giấy phép
cho anh?
-
Thôi, chuyện còn dài dòng lắm, tôi sẽ nói cho anh rõ
sau. Còn bây giờ, anh có thể hiểu một cách đại khái
là tôi đang trong tình trạng nguy hiểm vì có thể bị bắt
giam bất cứ lúc nào.
Thịnh
tỏ vẻ nghi ngờ:
-
Tại sao vậy? Anh có phạm sai lầm đối với quân đội
phải không?
-
Không, tất cả những gì tôi làm vừa qua không có gì
đáng hổ thẹn đối với một sĩ quan trong quân đội của
một quốc gia. Tôi được thăng cấp ngay trên chiến
trường chưa tan mùi thuốc súng, xác người còn ngổn
ngang trên chiến địa. Nhưng thôi, câu chuyện còn dài
dòng và rắc rối lắm. Anh là một nhà giáo hiền lành,
với cuộc sống đạo đức và chân thật, anh không hình
dung được những nỗi nhiêu khê trong cuộc chiến mà
người cộng sản gọi là cuộc chiến tranh giải phóng
nầy.
Thịnh
cầm tay tôi, cái nhìn đầy thương cảm:
-
Anh Hưng, tôi tin anh là người rất tốt, một sĩ quan xứng
đáng. Anh đang gặp hoàn cảnh bi đát lắm phải không?
Nghe âm hưởng giọng nói của anh, tôi biết anh rất đau
khổ. Tôi làm gì được cho anh?
Tôi
nhìn bạn, lòng bồi hồi:
-
Cám ơn anh. Anh đã giúp tôi quá nhiều. Có lẽ điều may
mắn lớn nhất của đời tôi là được làm bạn với
anh. Tôi sẽ kể hết cho anh nghe sau nầy. Còn bây giờ,
cái điều mà anh cần hiểu rõ trước hết là hiện tôi
đang bị quân đội truy nã. Tôi trốn đi sau khi thất lạc
trong rừng mười bốn ngày. Trên nguyên tắc, an ninh quân
đội phải nghi ngờ tôi bị địch bắt và tha về có
điều kiện. Họ nghi ngờ cũng phải vì vùng đó đang bị
quân Bắc Việt tràn vào. Tôi lại trốn đi trong khi an
ninh quân đội chưa điều tra xong. Vậy là không cần điều
tra nữa mà có thể kết tội luôn. Nếu bị bắt, tôi có
thể bị truy tố ra tòa án mặt trận, có thể bị tử
hình, nhẹ lắm cũng phải đi làm lao công đào binh trong
một thời gian dài
Thịnh
tỏ vẻ sợ hãi:
-
Tại sao chuyện đời lại éo le đến thế?
-
To chuyện lắm đó và anh không nên để mình liên can về
việc nầy. Còn tôi thì nhất thiết phải trốn cho được
sự truy nã. Anh biết rồi, không phải tôi sợ bị trừng
phạt mà cần thiết được tự do để ngày đêm gần gũi
săn sóc vợ tôi. Chắc chắn chúng tôi cần anh chị giúp
đỡ để thu xếp công việc. Tuy nhiên chúng ta hạn chế
việc gặp nhau và tôi cũng tránh đến nhà anh. Có lẽ anh
hiểu rõ tôi muốn nói gì.
-
Tôi hiểu. Tôi tin rằng mình đủ khôn ngoan trong hành
động.
Tôi
cảm động bắt tay bạn mình:
-
Thôi anh về với chị đi, tối lắm rồi. Đêm nay, tôi ở
lại đây. Tôi sẽ suy nghĩ giải pháp và nội ngày mai,
Thanh về thăm nhà và sẽ đến trường thưa chuyện cùng
anh.
-
Thế thì tôi về, anh ở lại với cô Hồng nhé.
Tôi
đưa bạn đến cầu thang và trở về phòng bệnh.
Thanh
đã tìm được một cái ghế dựa để sát giường nguời
bệnh. Em bảo tôi ngồi trên ghế. Bây giờ tôi mới để
ý vẻ hốc hác trên gương mặt cô bé đáng thương. Chắc
chắn là nó đã thức nhiều đêm với chị. Tôi nhìn em
và cảm thấy xót xa vô cùng. Tôi hỏi:
-
Em mệt lắm phải không? Em nên đi ra phố chơi một lúc
cho thong thả.
Tôi
móc túi lấy tờ bạc trao cho Thanh:
-
Em bỏ túi cái nầy để đi phố.
-
Không, em không đi chơi đâu. Thấy anh về, em hết mệt
rồi. À, mà em đi một chút, anh ngồi đây với chị Hồng.
Em đi mua đồ ăn cho anh. Em biết anh về đến Sài gòn là
chạy ngay vào đây với chị Hồng, không còn nhớ đến
chuyện ăn uống nữa, đúng không?
Tôi
gật đầu cười. Thanh dợm đi ra cửa, tôi gọi lại:
-
Thanh, anh hỏi tí nào. Năm nay em học lớp mấy rồi?
-
Dạ mới lên lớp chín, anh không nhớ à? Năm ngoái được
lên lớp tám, em có gởi thơ cho anh. Anh khen em và gởi
tiền cho chị Hồng mua thưởng em cái đồng hồ đeo tay,
đây nè.
Em
kéo ống tay áo, chìa cái đồng hồ xinh xắn về phía
tôi. Em cười, giọng trở nên nhí nhảnh:
-
Em biết, nghe tin chị Hồng bệnh là anh quên hết mọi
việc. Anh còn nhớ em tên Thanh là may lắm rồi.
Câu
nói đùa dễ thương của đứa bé làm cho không khí trong
phòng chợt vui lên. Tôi nhìn em, ái ngại:
-
Từ hôm chị bị bệnh, em nghỉ học mấy hôm rồi?
-
Dạ mười ngày. Anh Hưng, em không đi học nữa đâu. Em
nghỉ luôn, ở nhà với chị Hồng. Em biết anh về đây
mấy hôm lại bỏ đi.
Câu
nói đứt đoạn trong nghẹn ngào. Thanh đưa ống tay áo
lau mắt và bước nhanh ra ngoài. Tôi gọi giật lại:
-
Thanh.
Không
có tiếng trả lời, chỉ có tiếng dép khua nhanh trên hành
lang bệnh viện.
Tôi
quay lại, thấy đôi mắt Thu Hồng mở to nhìn tôi một
cách đằm thắm. Tôi cúi xuống hôn nhanh lên trán nàng.
Tôi cảm thấy sự có mặt của tôi đang đánh thức ký
ức nàng. Nó chỉ vừa mới thức dậy và nàng đang lật
lại từng trang, từng trang một. Tôi muốn nói thực nhiều
để nàng hiểu nỗi thương nhớ đã làm tâm hồn tôi
quằn quại bao ngày qua. Nhưng tôi e sợ làm nàng xúc động
và có thể gây nguy hại. Vì vậy tôi im lặng nhìn, thỉnh
thoảng đưa tay vuốt má nàng.
Tôi
ngồi suốt đêm bên nàng, thỉnh thoảng chập chờn trong
giấc ngủ ngắn. Thu Hồng ngủ ngon, nét mặt thực bình
yên. Thanh thì mang chiếu và mùng ra ngủ ngoài hành lang.
Có lẽ đêm đầu tiên từ mười ngày nay em mới được
một giấc ngon lành.
Một
lần, giữa khuya, tôi bước ra ngoài thấy em nằm co ro sát
bờ tường, lòng tôi quá xót xa. Mồ côi cha mẹ khi chưa
hiểu mọi việc quanh mình, em vẫn mang mãi số phận long
đong trên tấm thân gầy guộc của mình.
Sáng
hôm sau, khi bình minh chưa thay thế hết ánh sáng của
thành phố, tôi bước ra ngoài hít mạnh không khí ban mai.
Khi tôi bước vào, Thu Hồng vừa thức dậy. Tôi dừng ở
cửa nhìn vào. Nàng chưa thấy tôi, đôi mắt mở to tìm
kiếm. Tôi bước nhanh đến bên giường. Trông thấy tôi,
nàng nhích môi, tôi ngạc thấy nụ cười hiện ra trên
miệng nàng thực rõ rệt và sự vui sướng tràn ngập
trong đôi mắt mở to của nàng. Tôi quỳ xuống, mặt tôi
sát mặt nàng. Nàng nhắm mắt lại rồi mở ra nhìn tôi
với vẻ dịu dàng và thơ ngây của đứa trẻ lên ba.
Thanh
đứng kế bên, nói khẽ với tôi:
-
Mười ngày qua, chị Hồng lúc nào lờ đờ như ngủ. Thấy
anh, chị có vẻ đã thức dậy. Nếu có anh ở đây, chị
Hồng sẽ mau khỏi bệnh, anh Hưng ạ.
Đúng
là nhận xét của Thịnh đêm qua.
Lúc
bác sĩ điều trị vào phòng để khám buổi sáng, ông ta
cũng ngạc nhiên thấy Thu Hồng nhìn bác sĩ và vui vẻ mỉm
cười. Nàng rời mắt khỏi bác sĩ rồi nhìn xuống cuối
giường nơi tôi đang đứng im lặng. Bác sĩ theo tầm mắt
của nàng, ngẩng đầu lên và ông chợt hiểu. Bác sĩ vẫn
ngồi trên chiếc ghế cạnh giường, đưa tay cho tôi bắt:
-
Nếu tôi không lầm thì ông là trung úy Hưng?
-
Dạ phải.
Thấy
vẻ ngạc nhiên của tôi, bác sĩ giải thích:
-
Tôi theo dõi bệnh án của bà đây nên biết qua gia cảnh
của bà trong tờ khai. Tôi cũng có nói chuyện với ông
bạn giáo sư của bà nên biết chồng bà là trung úy thủy
quân lục chiến. Trung úy vừa mới ở mặt trận về phải
không? Trung úy về thực đúng lúc. Mới có một ngày mà
bệnh tiến triển thực tốt. Tôi đang nghiên cứu đề
tài kết hợp vật lý trị liệu với tâm lý trị liệu
cho người mất chức năng vận động và chức năng trí
tuệ nên đây là một dẫn chứng rất lý thú. Bác sĩ
quay lại cười thực vui vẻ với Thu Hồng.
-
Bà sẽ khoẻ mạnh lại. Chồng bà là liều thuốc tốt
nhất cho bà. Bà sẽ lành bệnh để đi dạo phố với ông
trung úy Hưng của riêng bà. Mọi người đều quý mến sĩ
quan quân đội. Bà là người có hạnh phúc, bà hiểu
không?
Tôi
đứng lặng người. Có lẽ, trong suốt cuộc đời, tôi
không bao giờ nghe được lời nói nào đẹp đẽ hơn lời
nói nầy của vị lương y, an ủi và khuyến khích bệnh
nhân của mình.
Giường
bệnh của Thu Hồng ở trong cùng và được khám sau chót
nên khi đứng dậy, bác sĩ ra hiệu cho tôi theo ra hành
lang. Sau khi giải thích bệnh trạng của Thu Hồng, bác sĩ
kết luận:
-
Bệnh nầy thường xảy ra ở người già. Người còn nhỏ
tuổi như bà thì hiếm hơn. Nhưng nhỏ tuổi thì khả năng
phục hồi cao hơn người lớn tuổi. Tuy vậy, bệnh của
bà cũng sẽ kéo dài khá lâu, các chức năng chỉ được
phục hồi lại một cách chậm chạp. Có thể trở lại
hoàn toàn bình thường hay không thì không thể nói trước
đuợc. Vì trung úy là một sĩ quan cho nên tôi dám nói tất
cả sự thực nầy. Tôi thấy cũng cần nói sớm để
trung úy thu xếp công việc vì trung úy còn nhiệm vụ nặng
nề ngoài chiến trường nữa.
Ông
dừng lại, vịn vào vai tôi một cách thân ái rồi nói
tiếp:
-
Tính mạng của bà qua cơn nguy hiểm rồi. Bà tiếp tục ở
lại đây ít lâu cho chúng tôi săn sóc tiếp cũng được.
Nhưng nếu đưa được bà về nơi nào yên tĩnh thì tốt
hơn, đỡ tốn kém và đỡ nhọc công nuôi bệnh. Dĩ nhiên
là bà vẫn phải dùng những liều thuốc dài hạn của
chúng tôi. Đó là lời khuyên thành thực của một y sĩ,
trung úy có hiểu lới tôi nói không?
Tôi
cảm động siết chặt tay ông:
-
Tôi không biết nói thế nào để tỏ sự biết ơn đối
với lòng tốt của bác sĩ. Tôi sẽ thu xếp; chừng nào
bác sĩ có thể cho vợ tôi xuất viện?
-
Nên để bà ở lại đây thêm ít nhất ba ngày nữa. Sau
đó, trung úy muốn đưa bà về ngày nào thì báo cho tôi
biết.
Bác
sĩ chào tôi và bước đến phòng kế bên. Tôi đi vào
ngồi bên Thu Hồng. Lời khuyên của vị lương y văng vẳng
bên tai, thân ái và ngọt ngào. Lời khuyên nầy cũng phù
hợp với hoàn cảnh của tôi. Tôi phải ở bên Thu Hồng,
không thể xa nàng được. Cuộc sống trần thế nầy của
tôi chẳng còn gì đáng giá nữa ngoài Thu Hồng. Nàng là
báu vật duy nhất mà tôi phải dành tất cả thời gian để
gìn giữ, không thể hơ hỏng một giây phút nào. Tôi cần
sớm đưa nàng về một nơi vắng vẻ, không phải chỉ vì
sự yên tĩnh cho nàng mà còn vì sự trốn tránh của tôi
nữa. Tôi biết rằng khi cho lời khuyên đầy chân tình,
bác sĩ tưởng rằng tôi cần phải nhanh chóng thu xếp để
trở lại chiến trường. Ông đâu có ngờ….
Tôi
đau đớn nghĩ rằng, kể từ hôm nay, dứt khoát tôi không
còn bao giờ gặp lại đồng đội, những người đã cùng
tôi vào sinh ra tử trong nhiều năm qua. Tôi nhớ những
chiều hành quân, dừng chân bên suối, căng võng giữa hai
thân cây cao trong rừng già, mắt nhìn khói núi lan dần,
tai lắng nghe tiếng rên rỉ của thiên nhiên đang bị bóng
đêm trùm kín. Tôi nhớ những lần chuẩn bị xung phong
vào phòng tuyến của địch, cả đại đội chờ nghe
tiếng thét của tôi để xông vào nơi mà tử thần đang
lăm lăm lưỡi hái, đứng đợi một cách lạnh lùng. Hơn
phân nửa những đồng đội thân yêu đã nằm xuống hoặc
rơi vào tay quân địch. Trong ba người bạn thân thiết
nhất của tôi ngoài chiến trường, chỉ có trung úy Tánh
trở về và đang từng ngày chờ đợi gặp lại tôi để
cùng chiến đấu.
Thôi,
tôi đã từ biệt chiến trường, trốn về đây, áo quần
tươm tất, sống yên ổn giữa thành phố bình an nầy.
Tôi đã quay lưng lại với đồng đội, phong kín những
kỷ niệm oai hùng của một thời ngang dọc trên sa tràng,
cất dấu những hình ảnh đồng đội thân yêu vào tận
đáy quả tim!
Tôi
thẫn thờ quay lại và bắt gặp gương mặt mỹ miều và
thơ ngây của Thu Hồng. Tôi cúi xuống hôn vào tóc nàng
để xua đuổi nỗi bi thuơng trong lòng vì những hoài niệm
của thời chinh chiến đã qua.
Buổi
trưa, sau khi đút cơm cho Thu Hồng ăn xong, tôi ngồi vuốt
tóc dỗ nàng ngủ say rồi vội vàng ra gọi xe đến nhà
Thịnh.
Tôi
nhanh chóng kể cho Thịnh nghe những ngày thất lạc dẫn
đến quyết định đào ngũ của tôi. Tôi kể cho bạn
nghe lời khuyên của bác sĩ sáng nay. Tôi bảo:
-
Tôi muốm tìm một chỗ an toàn để tránh sự truy nã của
an ninh quân đội kết hợp với sự truy lùng của quân
cảnh và có thể cơ quan công an dân sự nữa. Căn phố
nhỏ nơi hai chị em sống mấy năm nay thì không thể trở
lại được. Chỗ đó ồn ào và là địa chỉ đang nằm
trong tay của chính quyền và quân đội. Tôi mong sống
cùng Thu Hồng trong một gian nhà nhỏ ở ngoại ô vắng
vẻ, nơi nhân viên chính quyền ít lui tới.
Thịnh
ngồi nhíu mày suy nghĩ. Tôi nói tiếp để bộc bạch tâm
sự của mình:
-
Tôi là kẻ hai lần trốn chạy. Cách nay hơn nửa tháng,
tôi trốn chạy kẻ thù bằng con đường máu, bây giờ
trốn chạy chính những người cùng chung chiến tuyến với
mình. Lần nầy con đường trốn chạy không ngập máu như
trước đây nhưng chắc hẳn sẽ lắm chông gai và dài lê
thê.
Thịnh
ái ngại nhìn tôi:
-
Tôi hiểu anh, hiểu nỗi đau đớn trong lòng một sĩ quan
quả cảm như anh. Quyết định từ giã đơn vị của anh
thực là khủng khiếp. Có biết bao nhiêu người đã từng
đào ngũ nhưng có lẽ không ai mang tâm trạng não nề như
anh. Tôi là bạn thân từ nhỏ của anh nên tôi thông hiểu
điều đó. Theo tôi, anh quyết định từ giã quân đội
lúc nầy là đúng. Không có anh nhất, định Thu Hồng
không sống được. Nếu vì anh vắng mặt mà sự rủi ro
nầy xảy ra thì chắc lương tâm anh khó có thể tha thứ
cho anh được. Quân đội thiếu anh thì người khác thay
thế còn Thu Hồng thiếu anh thì không ai có thể thay thế
được.
-
Cám ơn anh đã an ủi tôi thực đúng lúc.
Thịnh
lại nhíu mày suy nghĩ và nói tiếp:
-
Vợ chồng chúng tôi sẽ hết sức giúp anh. Có hai việc
cần giải quyết. Thứ nhất là chỗ ở thích hợp cho Thu
Hồng và cho anh. Thứ hai là cái sống của vợ chồng anh
và cô bé Thanh. Ngày hôm kia, trong buổi họp của ban quản
trị nhà trường, tôi đã thuyết phục các vị tiếp tục
phát lương cho Thu Hồng trong một thời gian nhưng cuối
cùng họ chỉ chấp nhận phân nửa lương và cứ ba tháng
xét lại một lần. Thôi đành vậy, được chút nào hay
chút đó, nhà trường cũng không có lời nhiều, anh thông
cảm.
Tôi
cảm động ngắt lời bạn:
-
Vợ chồng tôi mang ơn anh quá nhiều.
Thịnh
xua tay:
-
Anh không nên khách sáo như thế với bạn bè. Anh để yên
tôi nói tiếp. Về cái chỗ ở yên tĩnh mà anh muốn, tôi
có ý thế nầy, anh nghĩ xem có được không. Có một chỗ
yên tĩnh nhưng quá vắng vẻ và không bảo đảm an ninh.
Anh có biết Suối Tiên ở Thủ đức không?
-
Có, tôi biết Suối Tiên. Đó là một con suối nhỏ xíu
chảy giữa hai bờ đất khá cao trong một vùng vắng vẻ.
Lúc còn đi học thỉnh thoảng tôi cùng bạn bè có đến
đó chơi và tắm dưới suối. Lúc là sinh viên sĩ quan
trong quân trường, vài lần chúng tôi đến đó học chiến
thuật. Tại sao anh nói đến Suối Tiên?
-
Ba má tôi có mua một miếng đất trong vùng đó, gần hai
mươi năm rồi, từ lúc chưa có xa lộ Biên hòa. Lúc đầu,
ông bà tính lên cất nhà ở để hưởng nhàn trong tuổi
già nhưng vì tình hình an ninh càng lúc càng tồi tệ nên
ông bà bỏ ý định đó đi. Có nhiều năm, người ta đến
xin cày cấy trên đó rồi bỏ hoang vì đất kém màu mỡ.
Anh suy nghĩ xem, có thể ở đó được không?
Tôi
mừng rỡ:
-
Tôi sẽ cất một chòi lá nơi đó để sống chung cùng
Thu Hồng.
-
Anh nên suy nghĩ cho kỹ. Kể từ khi trường bộ binh Thủ
đức dời về Long thành, về đêm nơi đó không còn an
ninh nữa. Anh là sĩ quan….
Tôi
cười, ngắt lời:
-
Tôi chẳng còn là sĩ quan nữa. Tôi sẽ đích thân lập tổ
ấm cho tôi và Thu Hồng ở đó.
-
Thôi được rồi, tôi sẽ thuê người đến cất nhà cho
anh, còn anh thì phải lo săn sóc Thu Hồng. Một nhà lá đơn
sơ thì chẳng tốn kém bao nhiêu. Anh cứ ẩn thân nơi đó
một thời gian rồi sẽ tính sau. Anh cũng chẳng sợ ai làm
phiền vì đất đó chính là của tôi.
-
Bao giờ anh có thể xúc tiến công việc giúp tôi?
-
Ngay ngày mai, nếu anh cần gấp.
-
Dĩ nhiên là cần gấp, truớc khi an ninh quân đội mò đến
“hỏi thăm sức khỏe” của tôi. Nhà làm độ chừng
nào xong?
-
Nhà lá đơn sơ, có lẽ trong vòng một tuần lễ.
Tôi
đứng dậy bắt tay Thịnh rồi ra xe trở lại bệnh viện
với Thu Hồng.
Suốt
tuần lễ sau đó, tôi thường xuyên ở bên Thu Hồng, săn
sóc mọi việc cho nàng một cách chu đáo. Sáng nào bác sĩ
đến khám bệnh cũng tỏ ý hài lòng. Theo lời khuyên của
bác sĩ, tôi thường xuyên xoa bóp tay chân để giúp nàng
mau phục hồi cử động. Quả nhiên, qua ngày thứ ba, nàng
có thể co bóp các ngón tay theo đề nghị của tôi, miệng
há ra dễ dàng trong một nụ cười rạng rỡ, từ trong đó
phát ra một âm thanh nho nhỏ làm cho tôi sững người vì
sung sướng. Tôi thường nói với nàng những câu ngắn,
chậm rãi và dễ hiểu. Đến ngày thứ năm, tôi ra phố
mua về một cuốn truyện nhi đồng và đọc cho nàng nghe.
Nàng tỏ ý ưa thích, không biết vì hiểu được câu
chuyện hay vì thích nghe tiếng nói của tôi. Dù sao, nét
mặt vui sướng của nàng cũng làm cho tôi hạnh phúc.
Mỗi
ngày, tôi đều gọi điện thoại về cho Thịnh tại
trường. Bạn tôi bảo công việc tiến triển tốt, cái
nhà làm xong đúng thời hạn dự trù. Tôi báo cho bác sĩ
biết, ông chấp nhận ngay và bảo tôi lập thủ tục xuất
viện. Tôi không thể xin giấy tờ gì của đơn vị nên
Thu Hồng phải đóng một số tiền viện phí khá lớn.
Thịnh lại giúp tôi một phần số tiền nầy. Lúc này
tôi không thể trở về gặp chú thím nên mọi chuyện đều
chỉ trông cậy vào Thịnh.
Buổi sáng hôm đó, tôi bế
Thu Hồng trong tay đặt vào xe đẩy và đi xuống trong
thang máy. Xe đẩy đưa nàng ra đến tận lề đường rồi
tôi bế nàng đặt vào băng sau của một taxi.
Vợ chồng Thịnh theo chúng tôi từ phòng bệnh đến đây.
Tôi yêu cầu Thịnh đừng bao giờ đến nhà mới của
chúng tôi để tránh cho bạn rắc rối vì sự liên can đến
một kẻ đang bị truy nã. Thịnh bảo rằng đề phòng như
thế là quá đáng nhưng cũng chiều theo ý tôi.
Taxi
xuyên qua thành phố và tiến vào xa lộ. Thu Hồng ngồi
tựa vào băng sau, tôi giữ cho nàng khỏi ngã. Nàng nhìn
ra khung cửa, tỏ vẻ thích thú. Tôi không đọc được
tất cả ý nghĩ của nàng nhưng tôi đoán được nàng
đang vừa ngạc nhiên, vừa hạnh phúc. Những ngày cuối ở
nhà thương, tôi cố gắng giải thích chỗ ở mới của
chúng tôi nhưng nàng không hiểu nhiều lắm. Thanh thì vui
thích ra mặt. Em ngồi ghế phía trước với đồ đạc
lỉnh kỉnh. Ngày hôm trước em đã về nhà cũ, cùng chị
Thịnh thu dọn tất cả những món cần thiết, thuê xe chở
về nhà mới. Em háo hức ra khỏi bệnh viện, nơi em đã
phải chịu đựng suốt gần hai mươi ngày rồi. Thực là
đáng thương.
Xe
bon bon trên xa lộ, rồi chậm lại và rẽ vào một con
đường đất gồ ghề, dài độ bốn trăm mét. Trước
mắt tôi là một gian nhà lá nho nhỏ, mới toanh trên nền
đất nện. Chung quanh nhà mọc đầy cây hoang dại cùng
với những đám cỏ cao um tùm. Tôi nghĩ rằng mình sẽ
phải đổ nhiều mồ hôi trên mảnh đất nầy để có
được một chỗ ở khang trang cho Thu Hồng.