KỲ
trước tôi đã nói cho anh nghe tất cả bạn bè trong đại
đội đã vui lòng để cho tôi “trấn lột” tất cả
tiền bạc và mang đến tặng Thu Hồng. Ngay hôm sau, đơn
vị tôi di chuyển ra Quảng trị. Chúng tôi phối hợp với
sư đoàn Một Bộ binh cùng một số đơn vị của Mỹ phá
vỡ các đường tiếp tế của cộng quân ngang qua thượng
nguồn sông Bến hải.
Anh
cũng biết, qua cuộc “tổng tấn công và nổi dậy”,
phe cách mạng bị tiêu hao quá nhiều nhân lực và vũ khí.
Họ cần miền Bắc bổ sung gấp rút, nên miền Nam phải
chận yết hầu tiếp tế của họ. Họ chết quá nhiều
trong cuộc tổng tấn công điên rồ vừa qua nên chúng tôi
chiếm lấy trận địa không mấy khó khăn. Tuy nhiên,
chúng tôi phải ở lại khá lâu cho mấy ông địa phương
quân xây đồn đắp lũy để phòng thủ.
Một
hôm tôi nhận được thư Thu Hồng. Bức thư khá dài, lời
lẽ thực dễ thương, chữ viết đẹp và uyển chuyển,
nhìn vào là thích ngay. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần
đến thuộc lòng.
Kính
gửi anh Hưng,
Em
đắn đo mãi mới dám viết cho anh lá thư nầy. Vì em mới
gặp anh có hai lần ngắn ngủi mà em đã nhận tiền của
anh cho. Dạo đó, cuộc đời của em và bé Thanh kể như
tiêu tan rồi và anh đã đến, mầu nhiệm như một chiếc
đũa thần mà ông Bụt đưa ra để vớt hai chị em khỏi
bể trầm luân.
Hôm
nay, em gủi thư cho chiếc đũa thần đó, anh có vui lòng
đọc thư em không?
Từ
khi chia tay anh, em thường ray rứt với ý muốn trở về
Huế, nhìn lại cái nơi chốn mà em đã trải qua trọn
tuổi thơ của mình. Em muốn nhìn lại ngôi nhà mà em đã
hưởng hạnh phúc bên người cha đức độ y như một
bậc chân tu và bên hai người anh nhất mực yêu thương
em. Em cũng muốn tìm lại bà con và người quen biết, hi
vọng họ sẽ giúp em lập lại cuộc đời nơi chốn cũ
đầy đau thương đó.
Tuy
nhiên, em vẫn lo sợ cho sự yếu đuối của mình, nên lần
lữa mãi. Sau đó em không cưỡng nổi ý muốn nhìn lại
Huế. Lòng khao khát nầy càng ngày càng vò xé tâm cang em,
ngày cũng như đêm.
Rồi
buổi sáng cách đây năm ngày, em cùng Thanh lên xe trở về.
Em cảm thấy hồi hộp nhưng nhẹ nhàng khi xe vượt đèo
Hải vân. Tuy nhiên, mỗi phút trôi qua, xe càng tiến gần
đến Huế, em càng bồi hồi xúc động, nỗi đau trong
lòng mỗi lúc một dâng lên. Xe qua khỏi Truồi thì em gần
như ngạt thở. Bé Thanh nhỏ quá, cứ mê nhìn phong cảnh
nên không hay biết gì cả. Nhưng cái bà ngồi bên thì hốt
hoảng. Có lẽ mặt em lúc đó tái xanh trông khiếp lắm.
Bà ta vội vàng lấy dầu xoa rồi cho em nằm trên ghế. Bà
ra ngồi bệt xuống sàn xe nơi đường đi, giữa hai hàng
ghế để nhường chỗ cho em nằm.
Em
nhắm mắt lại, cố xua đuổi mọi ý nghĩ và thấy khoẻ
dần. Em tính ngồi dậy để trả chỗ cho người đàn bà
tốt bụng thì xe đã vào đến bến. Chú lơ xe la to: “Tới
Huế rồi”. Nghe ba tiếng nầy, em bỗng thấy tối sầm
rồi không biết gì nữa…
Khi
em tỉnh dậy thì thấy đang nằm trong căn nhà lạ, Thanh
đứng kế bên khóc thút thít. Em ngửi được mùi thơm
của “ether” và thấy một chị y tá đứng gần. Chị
cúi xuống sát mặt em, hỏi thực dịu dàng:
-
Cô thấy trong người thế nào?
-
Dạ đỡ rồi.
Em
cố lấy giọng hết sức tự nhiên để cho cô y tá yên
lòng, nhưng em lại nghe chính giọng mình thều thào như
một giọng xa lạ.
Chị
y tá chích cho em một mủi thuốc và em khỏe dần. Em hỏi
chị:
-
Đây là đâu? Em bất tỉnh lâu không?
-
Đây là nhà dân, ngay bến xe. Cô ngất đi độ một giờ
đồng hồ. Nhà cô ở đâu, tôi đưa cô về. Con bé theo
cô nói nhà ở đường Phan bội Châu, phải không?
Tim
em thắt lại khi nghe đến tên con đường nầy và lo sợ
mình lại ngất đi lần nữa. Em bảo với chị là nhà ở
Đà nẵng và nhờ chị đưa ra xe để trở vào trong đó
ngay. Thấy chị tỏ vẻ ái ngại cho sức khỏe, em trấn
an chị và tỏ ý cương quyết đi ngay. Em xin chị tính
tiền công săn sóc và tiền thuốc vừa rồi. Bà chủ nhà
nghe em nói vội vàng chạy lại xua tay:
-
Không, cô cất tiền đi, tôi lo hết.
Chị
y tá vội nói:
-
Không ai phải trả cả, tôi là công chức, thuốc nầy là
của chính phủ, không phải mất tiền.
Em
cảm động rơi nước mắt vì lòng tốt của đồng bào
mình sau cơn hoạn nạn.
Người
ta đưa em và Thanh lên xe. May quá, xe chạy ngay, không phải
chờ đợi. Ra khỏi thành phố một đoạn là em khỏe lại.
Em nhìn phong cảnh bên ngoài, gió của quê hương yêu dấu
phả vào mặt em. Em nhớ xưa kia mẹ cũng thường hôn tới
tấp vào mặt em như ngọn gió hôm nay vậy. Em cố gợi
lại hình ảnh của mẹ và những kỷ niệm thời thơ ấu
thực xa xưa để xua đuổi hình ảnh của cha và hai anh
khỏi trí óc em. Nhờ thế, em được thơ thới suốt quảng
đường còn lại.
Khi
về đến nhà, em nằm vật xuống giường mặc cho nước
mắt tuôn trào.
Em
mất Huế vĩnh viễn rồi, anh Hưng ơi!
Trước
đây em đã mất Huế một lần và các anh đã đổ xương
máu ra để lấy lại cho em. Bây giờ, chính lòng em, chính
quả tim yếu đuối của em đã xua đưổi em ra khỏi Huế
thì còn ai cứu giúp em được nữa.
Em
đã mất cha, mất hai anh, bây giờ thì mất luôn cả Huế,
mất tuổi thơ của mình, mất tất cả!
Thôi,
em mất cả rồi. Nhưng tại sao em lại kể cho anh nghe
những điều đó? Em cảm thấy mệt mỏi rã rời, quả
tim nhỏ bé của em không thể chứa mãi những điều bi
thương ấy. Em phải san sẻ cho ai đó để nếu phải chết
ngay bây giờ, em sẽ không phải là bóng ma lang thang tìm
nơi gởi nỗi niềm tâm sự của duơng thế để được
siêu thoát qua bên kia thế giới. Vì vậy, em chọn anh để
gởi nỗi niềm tâm sự qua những lời thư.
Một
người con gái mới gặp người con trai có hai lần đã
gởi gắm nỗi niềm tâm sự. Anh có khinh em không?
Em
hi vọng là không. Hôm ngồi nói chuyện với anh, bỗng
dưng em đọc được qua đôi mắt của anh một tâm hồn
trong đó không có chỗ chứa sự khinh khi kẻ khác. Chính
vì như thế em mới quyết định nhận số tiền mà anh
cho để cứu vớt cuộc đời của hai chị em. Em tin rằng
điều em nhận ra nơi anh là sự thực chứ không phải là
ảo giác của kẻ sắp chết đuối, nhìn chỗ nào cũng
thấy phao cứu sinh.
Sau
khi gửi thư nầy đi, chắc chắn em sẽ mong thư hồi âm
của anh. Em tính đi khỏi thành phố nầy. Ở đây có quá
nhiều người Huế. Nghe giọng nói của họ, vết thương
trong tim em cứ tiếp tục rỉ máu. Em là đứa con gái yếu
đuối, làm sao chịu nổi dòng máu trong tim chảy ra triền
miên như thế. Em sẽ đi về miền Nam. Em biết ở đó có
tỉnh Trà vinh, nơi chôn nhau cắt rốn của anh. Nếu số
phận dun rủi em đến đó thì âu cũng là sự tình cờ
đáng quý. Nhưng em chưa đi đâu. Em ở lại đây thêm một
thời gian nữa để chờ đợi thư hồi âm của anh. Trước
đây, anh đến với em như chiếc đũa thần của ông Bụt,
em không muốn nhờ cậy thêm chiếc đũa thần đó. Vai anh
đã nặng trĩu nhiệm vụ người con trai thời chiến. Em
nỡ nào chất thêm trên đôi vai tội nghiệp đó sự lo
lắng bảo bọc cho cuộc đời của một đứa con gái bất
hạnh.
Tuy
nhiên, em vẫn mong thư hồi âm của anh. Để làm gì?
Em
đã sống trong gian chái nghèo nàn nầy những ngày thê
lương và cay cực. Nhưng cũng chính nơi nầy, em có một
kỷ niệm khó quên. Đó là buổi sáng đẹp trời, chiếc
đũa thần đã đến với em. Em chờ những dòng chữ hồi
âm của anh để thấy lại hình ảnh nhiệm mầu đó rồi
em sẽ an lòng xuôi về Nam tìm đất sống.
Chúc
anh luôn may mắn.
Đứa em gái
bé nhỏ và bất hạnh của anh,
Thu
Hồng
Tôi
đọc đi đọc lại nhiều lần, không phải chỉ ngay lúc
đó mà còn về sau nầy nữa.
Ngay
hôm đó, tôi nhờ xe liên lạc với tiền cứ, về Quảng
trị đánh ngay cho nàng bức điện khẩn:
“Em
ở tại chỗ. Stop. Anh thu xếp hai em về Saigon. Stop. Thư
đến sau. Stop.”
Cũng
may, gặp lúc chiến trường không sôi động, tôi có thì
giờ suy nghĩ và viết ngay hai lá thư. Lá thứ nhất gởi
cho Thu Hồng, hết lời an ủi cô và dặn ở yên tại chỗ
chờ tôi thu xếp cho vào sinh sống tại Sài gòn. Lá thứ
hai gởi cho Thịnh, bạn thân của tôi hồi còn ở quê
nhà.
Thịnh
lớn tuổi và học sớm hơn tôi. Anh tốt nghiệp đại
học, đã có vợ và hiện làm hiệu trưởng một trường
trung tiểu học tư thục tại Sài gòn. Tôi khẩn thiết
xin vợ chồng Thịnh giúp đỡ cho chị em Thu Hồng. Tôi
nói rõ là nhờ Thịnh lo cho hai chị em một chỗ ở và
công việc sinh sống. Tôi rất hi vọng vì bạn tôi có thể
tìm một phòng trống trong trường hay ở đâu đó cho hai
chị em ở tạm. Tôi cũng hi vọng Thịnh sẽ sắp đặt,
dành cho Thu Hồng một lớp dạy hay một công việc văn
phòng, nhờ đó có thể tự sinh sống được.
Thu
Hồng đã tốt nghiệp trường Sư phạm và là giáo viên
chính thức của trường công lập. Nhưng khi trốn chạy
vào Đà nẵng thì không kịp đem theo bất cứ giấy tờ
nào. Cha và hai anh bị giết chết, ngôi nhà nhất định
tan hoang rồi, trở về ty giáo dục để xin lại giấy tờ
thì nàng không thể làm được. Thôi, cứ xin việc ở
trường tư rồi sẽ tính sau.
Rất
may, mọi việc xảy ra đều khớp với dự tính của tôi.
Tôi nhận được thư Thu Hồng với lời lẽ biết ơn thực
cảm động. Nàng đồng ý vào Sài gòn theo sự sắp đặt
của tôi.
Sau
đó ba ngày là thư của Thịnh. Bạn tôi bảo rằng đã
nhận được thư tôi. Hai vợ chồng rất xúc động vì
hoàn cảnh đáng thương của Thu Hồng và hứa sẵn sàng
giúp đỡ. Thịnh dặn tôi nhớ đánh điện trước để
hai vợ chồng đi đón Thu Hồng tại sân bay. Thực là cảm
động. Mình mang thân ra chiến trường, bè bạn ở hậu
phương vẫn còn nhớ và hết lòng với điều nhờ cậy
của mình. Tôi liên lạc với Hàng không Việt Nam, đặt
mua hai vé và xin phép đặc biệt về Đà nẵng đưa hai
chị em đi.
Tôi
được cấp phép ba ngày, trong đó hết hai ngày đi đường
rồi. Tôi đi nhờ xe quân đội, chiều hôm đó, tới Đà
nẵng, tôi đến nhà nàng ngay. Trông bộ điệu nàng mừng
rỡ khi tôi bước vào nhà, thực là cảm động. Tôi mới
gặp nàng lần nầy là lần thứ ba mà nàng đón tôi y như
người anh em ruột thịt mới từ mặt trận về. Nàng ríu
rít mời tôi ngồi và mang nước cho tôi uống. Tôi sung
sướng thấy nàng vui. Nàng rất phấn khởi về dự tính
của tôi cho sự sống mai sau của mình. Thực là hãnh diện
và hạnh phúc khi được một người con gái đẹp và có
học, hoàn toàn phó thác tương lai cho sự sắp đặt của
mình.
Lúc
đó trời đã về chiều, tôi mời hai chị em ra phố dùng
cơm. Nàng năn nỉ tôi cho phép nàng từ chối. Tôi bằng
lòng ngay. Dù là người miền Nam nhưng tôi biết tính tình
con gái Huế. Họ không dám ngồi ăn ngoài phố với một
người con trai, dù nơi đây không phải là thành phố Huế
cổ kính mà là một thành phố Đà nẵng xô bồ với đủ
sắc lính, ta có, Mỹ có. Tuy nhiên, nàng đồng ý để tôi
đi mua thức ăn về dùng chung với hai chị em nàng. Bữa
cơm thực vui vẻ. Đúng là bữa cơm gia đình mà từ lâu
lắm rồi tôi chưa được hưởng.
Sau
bữa cơm, tôi ngồi nói chuyện với nàng đến tối. Tôi
mô tả ngôi trường của Thịnh, vẽ ra một tương lai
tươi sáng cho hai chị em nàng. Thu Hồng lắng nghe tôi nói,
đôi mắt ánh lên nét vui tươi và dịu dàng thực đáng
yêu. Trước khi ra về, tôi kín đáo thò tay vào túi lấy
ra món tiền mà tôi đã mượn của ban tài ngân tiểu đoàn
khi nhận được giấy phép. Món tiền đã được gói
trong giấy cẩn thận, tôi trao cho nàng. Lần nầy, nàng
không nói lời từ chối như lần trước mà tươi cười
lấy tay đẩy bàn tay tôi trở lại. Tay nàng chạm vào tay
tôi, nét mặt nàng thoáng biến đổi. Rồi nàng nhanh chóng
lấy lại nụ cười, một nụ cuời nhí nhảnh dễ làm
mềm lòng người:
-
Anh giữ lấy đi. Tiền anh cho kỳ trước vẫn còn nhiều.
Em và bé Thanh sống tằn tiện lắm.
Tôi
biết nài nỉ nàng cũng vô ích nên cho tiền trở lại vào
túi. Đêm đó, tôi ngủ nhờ ở phòng vãng lai của tiểu
khu. Sáng ra tôi đến đón nàng để đưa ra phi trường.
Đến nhà, tôi sửng sốt vì ngạc nhiên. Trong ngôi nhà
tồi tàn, tôi thấy một cô gái xinh xắn trong chiếc áo
dài màu tím hoa cà tuyệt đẹp. Mặt nàng tươi như hoa,
đôi môi hồng như hai cánh hoa nở một nụ cười làm cho
người đối diện phải say đắm. Tôi nghe giọng nàng
trong như nước suối:
-
Sao anh nhìn sững em vậy? Áo em mới may với tiền anh cho
đó. Anh có thích màu nầy không?
Tôi
nhìn nàng, lòng bồi hồi xúc động. Có một sức mạnh
nào đó đẩy tôi tiến về phía nàng. Tôi cầm lấy tay
nàng, trả lời nho nhỏ:
-
Em đẹp lắm.
Nàng
thoáng rùng mình, khép mắt e lệ. Trước mắt tôi, đôi
môi chín mọng, phơn phớt hồng của người con gái, hiện
ra đầy cám dỗ. Tôi cảm thấy lòng mình ngây ngất, suýt
nữa thì tôi cúi xuống áp môi mình vào đó.
Nhưng
không, tôi sực nhớ mình đang là ân nhân của nàng. Tôi
không thể lợi dụng điều đó để xúc phạm đến nàng
dù chỉ là một nụ hôn. Nếu tôi không tự thắng được
mình thì thực là đáng khinh và những gì tôi làm cho chị
em nàng có thể được xem như nhằm một mưu đồ xấu
xa. Không, tôi đã đến với nàng, khởi đầu bằng sự
xót thương thuần túy đối với một đứa trẻ nhỏ đến
ngửa tay xin tiền tôi, tiếp theo là một hành vi có tính
đạo đức đối với một nạn nhân chiến cuộc ở bước
đường cùng. Điều nầy đang đem đến cho tôi một niềm
hạnh phúc thật thanh cao mà tôi không thể nào phản bội
được. Nếu tôi không biết tự kềm chế mình ngay bước
đầu thì nỗi đam mê trên đôi môi có thể dẫn đến
điều tệ hại nào khác làm sao biết trước được.
Thói
thường, đam mê thì không có lý trí và khi lý trí chen
vào thì đam mê biến mất. Tôi cúi nhìn gương mặt mỹ
miều của Thu Hồng với một niềm thanh thoát lạ thường
trong lòng, như khi ta chiêm ngưỡng bức tranh tuyệt tác
của một họa sĩ tài hoa. Tôi buông tay Thu Hồng và nói
bằng một giọng cố hết sức tự nhiên:
-
Em Thu Hồng, mình sửa soạn ra xe kẻo trễ.
Nàng giật mình, mở mắt,
thoáng ngơ ngác. Trong đôi mắt đẹp của nàng, tôi đọc
được một tập hợp nhiều tình cảm cùng lúc: sự thất
vọng, sự tôn kính, sự biết ơn…
Nàng
nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, nhìn tôi, giọng hơi nũng
nịu:
-
Anh Hưng, anh đưa em vào phi trường nhé.
-
Dĩ nhiên, anh có mượn xe của người quen trong tiểu khu
để đưa em và bé Thanh đi.
Nàng
cười, trông nhí nhảnh như một nữ sinh:
-
Anh Hưng, anh xin vào gần phi cơ được không?
Nàng
đưa ngón tay dài trắng muốt chỉ vào bông mai vàng tôi
đang mang trên cổ áo:
-
Anh có cái nầy thì có thể xin vào được phải không anh
Hưng? À mà anh lên lon bao giờ vậy? Bông mai vàng trông
đẹp hơn lon chuẩn úy mà anh mang kỳ trước đến đây.
Nhìn
đôi mắt ngưỡng mộ của nàng, tôi cảm thấy lòng vui
như mở hội. Tôi đáp:
-
Anh mới được gắn lon thiếu úy và một anh dũng bội
tinh ngoài mặt trận.
Nàng
đứng dang ra, hai tay chắp sau lưng, nghiêng đầu nhìn vào
cổ áo của tôi rồi vừa cười vừa bảo:
-
Hai bông mai vàng của anh bị lệch rồi. Để em sửa lại
cho.
Nàng
nói xong, áp đến gần, hai tay kéo cổ áo tôi xuống. Tóc
nàng sát bên mũi tôi, tỏa mùi thơm mê muội. Một lần
nữa tôi lại bồi hồi, cố gắng thắng lòng ham muốn ôm
nàng vào lòng. Nàng gỡ một bông mai ra và gắn lại. Xong
nàng dang ra, đứng ngắm và cười:
-
Ngay ngắn rồi đó. Nhớ trả công em bằng cách xin vào
cho được gần máy bay. Em muốn đứng trên cửa máy bay
nhìn thấy anh và vẫy tay tạm biệt.
Tôi
nhìn nàng say đắm. Đúng là một nữ sinh Đồng Khánh mà
một đôi lần tôi chiêm ngưỡng trên chuyến đò ngang hay
trên cầu Trường tiền thơ mộng.
Tôi
lái xe, đưa hai chị em đến phi trường. Theo lời yêu cầu
của nàng, tôi cố nài nỉ xin người ta cho tôi tiễn nàng
tận nơi phi cơ đậu trước khi ra phi đạo. Nàng bước
lên đến đầu cầu thang thì dừng lại, quay lui. Nàng mỉm
cười nhưng rơm rớm nước mắt, một tay vịn vào thanh
sắt, một tay đưa lên vẫy chào, vạt áo dài phất phơ
trong gió nhẹ, màu tím hoa cà in rõ trên nền trắng bạc
của thân phi cơ. Nàng mong manh như một đóa hoa tím mà
tôi thường gặp trên sườn đồi Đà lạt.
Nàng
chui vào phi cơ, cánh cửa đóng lại, thang xe đẩy ra xa,
phi cơ bắt đầu rú máy và tiến ra phi đạo. Tôi ngẩn
ngơ nhìn theo khối sắt khổng lồ, cảm thấy bùi ngùi
khôn tả. Tôi buồn bã lấy xe ra khỏi phi trường. Tôi
chưa về thẳng tiểu khu mà lái đến nhà nàng đã trú
ngụ mấy tháng qua. Tôi ngồi trên xe, nhìn vào cái chái
nhà tồi tàn, cửa đã đóng kín. Khuôn mặt mỹ miều của
nàng xuất hiện trong tâm trí tôi, làm lòng tôi chùng
xuống vì nhớ nhung.
Tôi
lái xe về trả cho tiểu khu, rồi thả bộ ra phố. Suốt
buổi chiều và buổi tối, đầu óc tôi cứ vương vấn
mãi với màu tím hoa cà của tà áo dài mà nàng sắm, có
lẽ cốt để làm đẹp lòng tôi. Tại sao nàng làm như
thế? Nàng đã yêu tôi rồi chăng? Tôi nhớ lại khuôn mặt
yêu kiều của nàng trong căn nhà nhỏ, đôi môi hồng
quyến rũ như chờ đợi của nàng. Bỗng dưng tôi cảm
thấy tiếc vì đã không đặt môi mình lên đó. Ý nghĩ
nầy làm cho tôi hổ thẹn trong lòng. Từ lâu tôi có định
kiến rằng người con trai chỉ được hôn người con gái
khi thực sự yêu đương. Nụ hôn không chỉ là sự cọ
xác của làn da để tạo nên sự kích thích tầm thường.
Nụ hôn phải là sự rung động tuyệt vời của thể chất
lẫn tâm hồn. Tôi biết rõ điều đó vì tôi đã từng
hôn vì thực sự yêu đương. Đó là nụ hôn mà tôi và
Ngọc Thúy đã trao cho nhau. Chúng tôi đã quen nhau từ khi
mới buớc chân vào đại học và nhanh chóng trở thành
người yêu của nhau. Tôi đã chở nàng ra xa lộ và bên
một bụi cây cách xa vệ đường, chúng tôi đã hôn nhau
say đắm. Tôi đã yêu nàng với tất cả tâm hồn tôi.
Còn đối với Thu
Hồng thì tôi đã nghĩ đến chuyện yêu đương gì đâu,
mặc dầu tình cảm của tôi đối với nàng đã nảy nở
một cách nhanh chóng và trở nên sâu đậm lạ lùng, cho
đến nỗi tôi lo lắng cho cuộc đời nàng còn hơn sự
sống chết của tôi ngoài chiến tuyến nữa. Tuy nhiên
tình cảm sâu đậm đó chưa thuộc về lĩnh vực yêu
đương. Nó chỉ dừng lại trong sự xót thương người
hoạn nạn, một con người yếu đuối và xinh đẹp, đáng
thương hơn rất nhiều người khác cùng cảnh ngộ.
Nhưng kể từ hôm nay, tính
cảm đó không còn chịu ở yên trong lĩnh vực xót thương
nữa. Hình bóng Thu Hồng đeo theo tôi suốt trên quảng
đường trở về đơn vị, không rời tôi nửa bước
trong những ngày hành quân sau đó. Tôi mơ thấy nàng gần
như hàng đêm. Một buổi sáng, đang đi trên một dốc núi
cheo leo, tôi chợt thấy một cành hoa tím. Tôi ngắt cánh
hoa đưa lên môi và gọi tên nàng. Tôi đã yêu nàng mất
rồi. Hình bóng nàng đã đánh bạt hình bóng Ngọc Thúy
trong tim tôi làm tôi đau khổ, nhận thấy mình đang phản
bội tình yêu xưa cũ. Không, không thể như thế được.
Ngọc Thúy đã mở cửa cho con tim tôi đi vào tình yêu đầu
đời, và ở phương Nam xa xôi kia, nàng vẫn chờ đợi
tôi.
Ngọc
Thúy là người yêu của tôi từ hơn hai năm nay. Nàng thực
đẹp. Khi nàng đi trong sân trường Đại học Văn khoa, tà
áo dài trắng làm cho cả nam và nữ sinh viên để ý. Khi
nàng đi ngoài đường, chiếc váy đầm xinh xắn có thể
gây tai nạn giao thông vì lôi cuốn cái nhìn của nhiều
người lái xe trên phố. Nếu so sánh Ngọc Thúy với Thu
Hồng thì tôi không thể kết luận ai đẹp hơn ai. Mỗi
người một vẻ khác nhau. Ngọc Thuý đẹp rực rỡ với
đôi chút kiêu sa và quyến rũ của cô gái Sài gòn. Thu
Hồng có sắc đẹp thùy mị với dáng điệu e ấp của
người con gái sông Hương núi Ngự. Hai nét đẹp thực
khác xa nhau. Hoàn cảnh của hai người cũng hoàn toàn khác
biệt. Thu Hồng là người con gái đáng thương bị chiến
tranh đẩy đến chỗ cùng cực. Ngọc Thúy là con một
thương gia giàu có, sống trong nhung lụa trên mảnh đất
Sài gòn xa hoa, không bị chút ảnh hưởng nào của cuộc
chiến đang dày xéo quê hương. Hai cô gái xinh đẹp nầy,
mỗi người đang chiếm giữ một nửa tâm hồn tôi.
Nơi
tôi hiện rõ hai cuộc chiến. Cuộc chiến bằng súng đạn
thì ác liệt nhưng giản dị. Tiến lên, nhào vào kẻ thù,
bắn, đâm, chém; mình giết nó hay nó giết mình, không có
chọn lựa nào khác. Cuộc chiến thứ hai, cuộc chiến
tình cảm giữa hai người con gái thì gay go hơn nhiều.
Ngọc Thúy là tình yêu thơ mộng đầy tiếng cười khi
tôi còn ngồi ghế đại học; Thu Hồng là tình yêu xót
xa đầy nước mắt khi tôi đã trở thành một người
lính trên chiến trường. Hình bóng Thu Hồng đến với
tôi trong những đêm âm u nằm trên chiếc võng giữa rừng
già, nhưng hình bóng của Ngọc Thuý cũng quấn quít bên
tôi trong những ngày băng rừng vượt suối.
Tôi
đang là người chiến binh lăn lóc ngoài chiến địa. Tôi
đã chứng kiến những đồng đội ngã xuống, linh hồn
thoát ra khỏi thể xác đẫm máu nhưng không bay lên được
vì còn nuối tiếc cái thân xác của tuổi thanh xuân chưa
kịp hưởng lạc thú của cõi trần thế nầy. Tôi đã
từng chứng kiến những người dân vô tội hoảng hốt
chạy trốn chiến trường mà cứ mãi ngoái cổ nhìn lui
những người thân đã vĩnh viễn nằm xuống vì lằn đạn
của cả hai bên thù địch. Cuộc sống da ngựa bọc thây
làm cho tâm tình tôi xa dần cuộc sống xa hoa, tình yêu
đối với Thu Hồng như hạt giống tìm đúng mảnh đất
thích hợp, đã nẩy mầm và phát triển manh chóng trong
tim tôi. Còn đối với Ngọc Thúy, quãng thời gian dài
trong quá khứ đã làm cho tình yêu của tôi đối Ngọc
Thúy trở nên sâu đậm vô cùng.
Tôi
không thể nào xa Ngọc Thúy được. Những bụi cây ở
ven đường xa lộ, ngọn gió lồng lộng từ sông Sài gòn
thổi vào đã chứng kiến tình yêu đầu đời cực kỳ
say đắm của hai chúng tôi. Hàng trăm giờ trên ghế giảng
đường Đại học Văn khoa đã khắc sâu vào từng mạch
máu của quả tim tôi biết bao kỷ niệm êm đềm. Trong
hành trang nhẹ nhàng và ít ỏi mà tôi mang ra chiến trường
bao giờ cũng có quyển vở ghi chép bài học ở Văn khoa.
Trong quyển tập nầy, những giòng chữ của tôi và của
Thúy đan vào nhau. Các giờ học lúc đó, chúng tôi đều
ngồi bên nhau. Mỗi giờ, chúng tôi đổi tập cho nhau
nhiều lần. Thế cho nên, mỗi quyển đều có hai nét chữ,
nét rắn rỏi của tôi và nét mềm mại của nàng.
Ở
trung học thì ai cũng ghi chép như ai, gần đúng câu văn
mà thầy cô đọc. Ở đại học thì khác, chỉ cần ghi ý
thầy theo sự suy nghĩ và lời văn của mình. Vì vậy
trong hai quyển tập của chúng tôi có những câu đầu Ngô
mình Sở đọc nghe thực tức cười. Thông thường, chỗ
nào có nét chữ của tôi thì chỗ đó lời giảng của
thầy hiển hiện khá đầy đủ. Còn những giòng chữ của
nàng thì ôi thôi, dẫy đầy những câu thực dễ thương
nhưng chẳng ăn nhập vào đâu với bài học. Một hôm,
tôi đang chăm chỉ nghe giảng quan niệm về “hiện hữu
và chiếm hữu” của một triết gia hiện sinh, thì nàng
quay qua đổi vở cho tôi. Tôi đọc dòng chữ nàng vừa
viết xong:
“Em
hiện hữu trong quả tim anh, anh hiện hữu trong quả tim
em. Em muốn chiếm hữu luôn tâm hồn anh, em để anh chiếm
hữu tâm hồn em, điều đó đâu có gì đáng trách phải
không anh?”
Nếu
không tự kềm chế ngay được thì tôi đã cười to và
trở thành bất nhã đối với thầy và các bạn cùng lớp.
Những ngày đó, tôi rất hiểu tính nàng. Lúc nàng hí
hoáy viết mà quay sang nhìn tôi với vẻ tinh nghịch là
tôi biết ngay nàng đang viết bậy trong tập học rồi.
Cuối
năm, tôi dành học ôn với quyển vở có nhiều nét chữ
của nàng và nàng học quyển có nhiều nét chữ của tôi.
Kết quả thì ai cũng đoán trước được, nàng đậu ngay
khóa đầu và chuẩn bị ghi danh chứng chỉ chuyên khoa.
Tôi thi rớt và vào quân trường. Nàng khóc vì hối hận
và thương tôi. Nhưng tôi thì không buồn, có hơi tiếc
đời sinh viên, nhưng bằng lòng làm “trai thời ly loạn”
để nàng làm “em gái hậu phương”.
Trong
những tháng quân trường, cầm tờ giấy phép xuất trại
là tôi về ngay nhà nàng. Nàng để tôi hôn tại phòng
riêng, tay thường mân mê huy hiệu sinh viên sĩ quan “alpha
trơn” rồi “alpha một gạch” trên vai áo tôi.
Tôi
ra quân trường và chọn binh chủng thủy quân lục chiến.
Nàng đưa tiễn tôi, nước mắt như mưa. Tôi về đơn vị
và lang thang trên các chiến trường sôi động, cứ dừng
quân là đến hỏi thăm ông thượng sĩ quân bưu để nhận
thư nàng. Đó là những lá thư diễm lệ. Nàng đang là
sinh viên triết học nên những lá thư thực dễ thương
lại có thêm chút hương thơm của triết lý, đẹp làm
sao!
Trong
những ngày hành quân, tôi có ba “vật bất ly thân”. Đó
là cây súng, quyển tập ghi bài ở đại học và sợi dây
chuyền có mặt tượng Phật mà nàng cởi từ cổ rồi
trao cho tôi lúc chia tay. Chiến tranh là điều tồi tệ
nhất, nó giết chết con người cả về thể xác lẫn tâm
hồn. Nhưng tôi đã lao vào trung tâm điểm của điều tồi
tệ đó mà tâm hồn vẫn mát mẻ, nhờ mang theo mối tình
đẹp của nàng.
Bây
giờ, tình yêu đó có nguy cơ tan vỡ vì số phận đã đưa
tôi đến gặp Thu Hồng.
Thu
Hồng! Khi chưa xác định được tình yêu của tôi đối
với nàng thì tôi cũng không đoan chắc được nàng đã
yêu tôi. Người ta thường bảo tình yêu làm cho con người
trở nên mù quáng, nhìn sự vật sai lệch. Trong trường
hợp của tôi thì ngược lại. Khi chưa yêu tôi không nhận
ra tình cảm đích thực của Thu Hồng, nhưng một khi đã
chính thức nhìn nhận tình yêu thực sự trong tim mình thì
tôi cũng nhận ra Thu Hồng đã yêu tôi tha thiết. Cái
nhìn, câu nói, mái tóc kê sát mặt tôi khi nàng sửa lại
chiếc bông mai trên cổ áo, thân thể yêu kiều của nàng
đứng yên, trong tầm siết của vòng tay tôi….Bấy nhiêu
đó nơi người con gái đất cố đô cổ kính đã quá đủ
để chứng minh tình yêu mặn nồng trong lòng nàng.
Trước
đây tôi chỉ mong thư Ngọc Thúy; bây giờ tôi mong cả
thư Thu Hồng. Gần một tuần sau khi đưa chị em Thu Hồng
vào Nam, Tôi nhận được cùng lúc thư Thu Hồng và thư
Thịnh. Lời lẽ khác nhau nhưng nội dung hai lá thư từa
tựa như nhau.
Vợ
chồng Thịnh đi đón chị em Thu Hồng tận sân bay và đưa
thẳng về trường ở tạm trong một phòng nho nhỏ kế
bên nơi ở của gia đình ông tổng giám thị nhà trường.
Thịnh cũng xếp cho Thu Hồng dạy lớp Ba tại trường.
Tóm lại, đời sống hai chị em ổn định nhanh hơn sự
mong ước của tôi. Sau đó ba ngày tôi lại nhận được
thư Thu Hồng. Nàng kể cho tôi nghe ngày đầu tiên trở
lại đứng trên bục giảng, nàng cứ tưởng mình đang ở
trong giấc mơ. Nàng bảo rằng, chỉ trong buổi học đầu
tiên, những mái đầu xanh đã hoàn toàn chinh phục nàng;
những cặp mắt thơ ngây dường như đã đẩy lùi sự
đau khổ khá xa về quá khứ. Nàng lại nhắc đến chiếc
đũa thần và ước mong gặp được chiếc đũa thần ngay
trong sân trường nầy. Cứ vài ba ngày nàng lại viết
thư. Tôi tiếp tục đọc trên những trang giấy đầy nét
chữ mềm mại, một tâm hồn dịu dàng, trong sáng, đáng
yêu vô cùng.
Tôi
cũng viết thư cho nàng nhưng kém thường xuyên hơn. Đề
tài thì không thiếu, chỉ cần kể chuyện một ngày hành
quân qua núi cao vực thẳm, qua những bản làng xác xơ vì
chiến cuộc đủ lấp đầy vài trang giấy cho một lá
thư. Tuy nhiên, mỗi lần cầm viết lên, tôi lại bị cám
dỗ vì ý muốn tỏ thực tình yêu của tôi với nàng và
tôi ngần ngại vì mối tình của Ngọc Thúy vẫn hiện
hữu rõ rệt trong lòng tôi.
Sau
Tết Mậu thân, phe cách mạng gần như kiệt quệ nên
trong cả năm, đơn vị tôi không đụng trận lớn. Tuy
nhiên lệnh tổng động viên đã hạn chế những ngày
nghỉ phép của quân nhân. Mãi hơn một năm sau khi ra quân
trường tôi mới được cho nghỉ thường niên. Tôi sắp
được về Sài gòn, được nhìn lại những con đường,
những góc phố thân yêu vẫn còn ghi lại biết bao nhiêu
kỷ niệm của những ngày cắp sách đến trường. Và tôi
sẽ gặp lại người yêu.
Nhưng
người yêu nào? Hiện tại tôi có đến hai mối tình. Tôi
biết nhiều bạn bè tôi có cùng lúc đến ba, bốn chứ
không phải chỉ hai mối tình như tôi. Trông họ vẫn vui
tươi, kể chuyện yêu đương một cách thoải mái, chứng
tỏ chẳng có gì vướng bận trong nội tâm. Trời sinh ra
tôi không giống họ. Có lẽ, trong tình yêu, tôi quá khắc
khe với chính mình.
Khi
chưa có giấy phép, tôi háo hức được chóng về, nhưng
lúc tờ giấy phép nằm trong tay, tôi lại phân vân. Về
Sài gòn, tôi sẽ đến với ai? Thôi thì cứ đi, việc
chọn lựa hãy để cho con tim quyết định tại chỗ.
Tôi
đi nhờ xe về thành phố Quảng trị và ra phi trường.
Chiếc máy bay C123 nuốt tôi vào bụng và vụt lên bầu
trời cao. Vài giờ sau, tôi bước ra khỏi phi trường Tân
sơn nhất.
Sài
gòn chiều mùa Thu, trời rất đẹp. Ánh nắng từ hướng
Tây rọi chênh chếch xuống, thủ đô sáng rực, thân yêu
vô cùng. Nơi đây là cổng phi trường, không có phố xá
tấp nập nên xe cộ qua lại một cách thong thả, vài bộ
hành nhàn tản dọc theo các vệ đường. Tôi đang đứng
trên thành phố thân yêu sau hơn một năm trường xa cách.
Hơn một năm trường xả thân chiến đấu nơi thâm sơn
cùng cốc để giữ cho thủ đô được yên lành. Tôi cảm
thấy trong lòng dậy lên một niềm cảm khái lẫn hãnh
diện to lớn và êm đềm.
Một
chiếc taxi
trờ tới, tôi chui vào ngồi ở băng sau. Bác tài hỏi tôi
về đâu. Tôi im lặng. Máy xe đã khởi động, bác quay
đầu lui nhắc lại câu hỏi, mặt thoáng ngạc nhiên. Bác
đâu có hiểu lòng tôi đang bị giằn xé giữa hai địa
chỉ: đường Pasteur,
nơi có biệt thự lộng lẫy của Ngọc Thúy và đường
Lê văn Duyệt nơi chị em Thu Hồng đang trú ngụ trong
trường trung tiểu học tư thục của bạn tôi.
Bác
tài cho xe chầm chậm tiến tới trong trạng thái chờ đợi.
Tôi thở dài bảo bác:
-
Đường Lê văn Duyệt!
Đó
là tiếng nói của con tim, một quyết định đầy xót xa.
Xe đã vào sâu trong thành phố, ngang qua những con đường
quen thuộc, tôi thấy lòng nhẹ dần rồi nỗi háo hức
gặp lại Thu Hồng bừng bừng nổi dậy khi xe dừng trước
cổng trường.
Tôi
đến thẳng phòng Hiệu trưởng. Sau một giây sửng sốt,
Thịnh bước lại nắm tay tôi:
-
Anh về lúc nào? Sao không báo trước?
-
Tôi về phép thường niên. Trong bao nhiêu năm trời tôi đã
quen với lối sống không được người khác quan tâm nên
không có thói quen báo trước sự đi về.
Thịnh
cười:
-
Nhưng bây giờ khác rồi, có người quan tâm lắm rồi đó.
Tôi
hiểu Thịnh đang nói về Thu Hồng vì anh không quen biết
Ngọc Thúy. Thịnh nhìn vào mặt tôi:
-
Trông phong trần lắm, chẳng còn chút nào nét thư sinh
ngày xưa nữa. Thế nầy mới đúng mẫu mực trai thời
loạn.
Anh
nhìn xuống bộ quân phục, đôi mắt dừng lại trong phút
chốc trên hai cái huy chương anh dũng bội tinh trên ngực
tôi. Anh gật gù:
-
Đẹp trai lắm, đúng “gu” con gái thủ đô ngày nay.
Tôi
cảm thấy vui thích vì lời khen của bạn. Thịnh nói
tiếp:
-
Về phép sao vẫn mặc áo quần nhà binh như đi đánh trận
thế nầy?
-
Tôi đi nhờ máy bay quân sự. Không ăn mặc thế nầy thì
ai cho đi.
-
Thế từ phi trường, anh thẳng về đây à?
Tôi
mỉm cười gật đầu. Thịnh nhìn đồng hồ:
-
Anh ngồi chơi một tí, tôi gọi nuớc anh uống. Còn muời
phút nữa hết giờ học buổi chiều, tôi cho người đón
mời Thu Hồng đến đây gặp anh.
Thịnh
đi ra, tôi ngồi xuống ghế nhìn ra sân trường. Nơi dãy
lớp học đối diện, tôi thấy đầu học sinh lố nhố
qua khung cửa sổ, vài thầy cô ngồi hay đứng trước
lớp, nhưng không có nàng trong những lớp đó.
Một
hồi chuông hết giờ reo vang. Tiếng ồn ào bỗng nổi lên
như một đợt sóng thủy triều. Học sinh lao xao; phút
chốc, sân trường tràn ngập người từ các lớp đổ
vào.
Tim
tôi đập rộn rã trong lòng ngực; tôi vụt đứng lên khi
một tà áo dài trắng xuất hiện và đột nhiên dừng lại
ở cửa ra vào.
-
Thu Hồng!
-
Anh Hưng!
Mắt
nàng rưng rưng, môi nàng mím chặt cố ngăn nước mắt.
Tuy vậy, nét rạng rỡ vẫn ngời trên khuôn mặt đầy
đặn. Tôi hơi ngạc nhiên thấy nàng xinh đẹp hơn lần
cuối cùng từ giã nàng ở phi trường Đà nẵng.
Bé
Thanh chạy vụt đến. Nó đứng ngay trước mặt tôi,
giọng trẻ thơ nghẹn ngào:
-
Ông, con chào Ông.
Tôi
nhìn sững. Con bé xinh xắn trong bộ đồng phục của học
sinh, áo sơ mi trắng trẻo, bên dưới là chiếc váy xanh
có những nếp gấp thẳng thớm. Ở gương mặt sáng láng
và đôi mắt long lanh của bé, tôi không thể hình dung
được đó là đứa bé đã xin tiền tôi ở một quán
nước ven đường phố Đà nẵng. Cuộc “tấn công nổi
dậy” Mậu thân mà đài phát thanh Hà nội hết lời ca
tụng đã đẩy một đứa bé dễ thương thế nầy thành
một đứa ăn xin trên phố phường. Số phận đã dẫn bé
đến gặp tôi, cuộc đời hai chị em đã thoát khỏi
miệng hố đen ngòm trong đường tơ kẽ tóc. Trong đời
người, ít nhất có một lần ta hãnh diện và hạnh phúc
về một hành vi của mình cho kẻ khác. Hôm nay, tôi đã
được niềm hãnh diện và hạnh phúc đó, có lẽ to lớn
nhất trong cuộc đời tôi.
Tôi
đưa tay vuốt tóc cô bé. Nó chụp ngay bàn tay tôi úp vào
mặt, tôi cảm thấy nước mắt thấm qua kẽ những ngón
tay. Tôi đứng yên cho bé khóc trong bàn tay tôi. Tôi nghe
giọng nói đầy xúc động của Thu Hồng:
-
Nó nhắc anh mỗi ngày. Anh có nhớ chuyện chiếc đũa thần
của ông Bụt trong những lá thư của em không? Ý nghĩ của
nó đó. Chính trẻ thơ mới thấy được ý nghĩa thiêng
liêng của những sự việc vật chất trên thế gian nầy.
Nó mồ côi cả cha lẫn mẹ khi mới chào đời, nên chưa
biết chờ mong một người thân trở về. Anh là người
đầu tiên mà nó chờ mong gần một năm rồi.
Nhiều
học sinh đã bu quanh, tò mò nhìn bạn chúng ôm tay một
ông sĩ quan thủy quân lục chiến mà khóc. Tôi biết không
thể nói chuyện tại nơi nầy nên bảo Thu Hồng:
-
Mình đi nơi khác nói chuyện nghe em. Đây là Sài gòn, mình
có thể ra quán nước được.
Nàng
đáp nho nhỏ:
-
Không, anh về phòng em đi.
Bé
Thanh thôi khóc, buông tay tôi ra, ngẩng lên, mặt đầy
nước mắt. Tôi rút khăn tay trao cho em. Thu Hồng mở ví
lấy tiền nhét vào tay bé và bảo:
-
Thanh, em đi ngay ra chợ mua thêm thức ăn, đưa cặp học
cho chị mang về.
Tôi
nói theo, cố làm giọng thực vui:
-
Em nhớ mua thứ gì ngon nhất tối nay đãi anh nhé.
Một
niềm vui kỳ lạ bừng lên trong đôi mắt thơ ngây của
bé. Em nhìn tôi mỉm cười và vụt chạy ra cổng. Tôi
nhìn theo, không biết mình đang vui hay khóc thầm cho thân
phận những trẻ thơ trên khắp quê hương trong cuộc
chiến tranh mà Hà nội gọi là chiến tranh nhân dân, chiến
tranh thần thánh.
-
Về phòng em đi.
Thu
Hồng nhắc lại câu nói rồi quay lui, tôi mang bọc hành
trang bước theo sau nàng. Nàng đi vòng qua bên hông dãy lầu
dùng làm lớp học và đến phía sau. Ở đó, còn một ít
đất và người ta đã cất một nếp nhà nho nhỏ, ngoảnh
mặt ra bức tường cao nghều nghệu. Phần lớn nếp nhà
dành cho gia đình ông tổng giám thị, một phòng bé cho
chị em Thu Hồng.
Nàng
moi ví lấy ra chiếc chìa khóa và tra vào ổ. Cánh cửa
bật mở vào trong. Nàng quay lui mỉm cười rồi bước
vào, tôi theo sau.
Căn
phòng bé nhỏ, mỗi bề độ ba thước. Một chiếc giường
gỗ tạp, một chiếc bàn cũ kỹ, bên trên ngổn ngang sách
vở, một chiếc ghế đẩu đặt trước bàn. Tôi cảm
động nhìn đồ đạc chứng minh nếp sống đơn sơ. Tôi
nghĩ đến ngôi nhà ở Huế mà nàng đã từ bỏ sau Tết
mậu thân. Nàng chưa hề mô tả ngôi nhà đó cho tôi nhưng
tôi đoán đó là một chỗ ở sang trọng xứng với chức
vụ công chức cao cấp của cha nàng. Nàng kéo ghế mời
tôi ngồi, còn nàng vẫn đứng tựa vào cạnh bàn, dáng
khép nép như một người con gái ở quê mới lên tỉnh.
Nàng hỏi tôi:
-
Anh về phép được bao lâu?
-
Mười ngày kể cả hai ngày đi đường.
-
Còn lại tám ngày. Tám ngày đó, anh có đến thăm em
không?
-
Anh sẽ đến đây mỗi ngày
Nét
mừng rỡ hiện rõ trên mặt, nàng hỏi tiếp:
-
Về đây anh ở tại nhà nào?
-
Đêm thì anh ngủ tại nhà chú thím hay tại nhà mấy đứa
bạn thân như anh chị Thịnh chẳng hạn. Ngày thì anh đến
đây nói chuyện với em. Buổi chiều, em dạy học, anh sẽ
lang thang ngoài phố để tìm lại kỷ niệm thơ ngây của
mình ở xứ sở thân yêu nầy.
Nàng
cười rất xinh:
-
Anh nói nghe hay như văn sĩ vậy.
Nàng
nhìn bộ quân phục của tôi và dừng lại ở bông mai
vàng ở hai bên cổ áo. Tôi cười, giọng trêu chọc:
-
Em lại thấy bông mai của anh nằm lệch phải không? Em có
tính sửa lại không?
Nàng
cúi xuống cười e thẹn:
-
Anh Hưng, suốt đời em không quên giây phút đó. Có khi em
vui sướng buông mình vào một thế giới thần tiên. Có
khi em đau khổ vì nghĩ rằng thế giới thần tiên đó chỉ
là ảo ảnh mà thôi. Anh Hưng, khi một người con gái nói
thực lòng mình thì anh có khinh khi không?
Tôi
nghẹn ngào:
-
Thu Hồng em.
Tôi
vụt đứng dậy, bước đến gần, định đưa tay vuốt
tóc nàng, nhưng không kịp nữa, nàng đã gục đầu trên
vai tôi. Tôi ôm lấy tấm thân mềm mại, tấm thân nhỏ
bé mà tôi đã mơ thấy nhiều lần trong những đêm dài
ngoài chiến địa. Tôi nghe tiếng thổn thức của nàng,
tôi cảm thấy hai dòng nước mắt thấm ướt vai áo bạc
màu vì sương gió của tôi. Tiếng thổn thức kéo dài
không bao lâu, nàng ngẩng mặt lên, đôi môi mọng đỏ
của nàng ngay dưới tầm mắt tôi. Nàng khẽ gọi:
-
Anh Hưng của em!
Tôi
cảm thấy cả vũ trụ bỗng nhẹ tênh, tôi không ý thức
được cử động của mình khi môi tôi chạm vào môi
nàng. Tôi hít mạnh hơi thở thơm tho của nàng và siết
mạnh tấm thân nhỏ bé đang mềm nhũn trong hai cánh tay
tôi. Nỗi đam mê kéo dài nhiều phút, tôi rời đôi môi
nàng ra, ngẩng đầu lên nhìn vào mặt nàng. Mắt nàng vẫn
nhắm nghiền, đầu tựa hẳn vào cánh tay tôi. Tôi lại
cúi xuống hôn như điên cuồng khắp nơi trên mặt nàng.
Tôi nghe hơi thở gấp gáp của nàng cùng giọng nói thì
thào:
-
Anh Hưng, em chết mất.
Tôi
buông nàng ra và đặt ngồi xuống ghế. Lưng tựa vào
cạnh bàn, nàng nhìn tôi bằng đôi mắt như ngây như dại.
Tôi đứng kế bên vuốt tóc, vuốt má nàng. Tôi không hôn
nàng nữa. Tôi phải để nàng từ từ ra khỏi cơn đam mê
cho kịp lúc bé Thanh đi chợ về.
Có
tiếng người bên ngoài, tôi rời nàng và ngồi xuống mép
giường. Nàng cũng ngồi thẳng dậy đưa hai tay vuốt tóc.
Nàng nhìn tôi, nét đam mê cuối cùng biến mất, mặt nàng
hồng lên vì e thẹn. Tôi nhìn nàng say đắm và cố kềm
chế để khỏi lao đến hôn nàng một lần nữa. Chúng
tôi lắng nghe, tiếng ai đó chứ bé Thanh vẫn chưa về.
Có lẽ bé mãi mê đi tìm món ngon nhất mà tôi bảo đùa
khi nãy.
Có
tiếng Thu Hồng thỏ thẻ:
-
Anh Hưng, em thực sự bước vào thế giới thần tiên chứ
không phải là ảo ảnh nữa phải không anh?
Nàng
ngừng một chút rồi giọng nàng trở nên buồn thảm một
cách lạ lùng:
-
Anh vừa hôn em. Đó là nụ hôn đầu tiên trong đời em.
Em chưa hề biết quá khứ và hiện tại của anh nên em
không biết cái thế giới thần tiên mà em đang sống kéo
dài được bao lâu. Em….
Nàng
ngừng lại. Tôi biết nàng còn muốn nói điều gì nữa
nhưng ngưng lại vì xúc động hay vì chưa tìm được lời.
Tôi im lặng nhìn nàng chờ đợi. Một phút sau, nàng ngập
ngừng:
-
Anh Hưng, trên đời nầy, em chỉ còn có anh để mà mong
đợi. Em không dám ước mong xa vời hơn, nhưng em hiểu
lòng em. Nếu anh vĩnh viễn xa rời em thì em không còn gì
nữa để vui sống. Hôm nay, anh đã đến với em. Bộ quân
phục đầy bụi nầy, cái túi hành trang kia chứng tỏ anh
vừa vượt qua hàng ngàn cây số, trở về thành phố quen
thuộc nầy và đến với em ngay. Em đã ở trong vòng tay
yêu thương của anh, em đã nhận được nụ hôn đầu
tiên từ môi anh, và em đã nói được nỗi lòng của em
cho anh. Đó không phải là hạnh phúc lớn lao của đứa
con gái bất hạnh nầy hay sao?
Tôi
sững sờ nhìn Thu Hồng. Tôi biết nàng là cô giáo nên có
nhiều khả năng diễn tả ý nghĩ của mình hơn người
khác. Nhưng nói ra liên tục những lời thắm thiết trên
đây, hẳn những điều nầy đã lặp đi lặp lại biết
bao lần trong tâm trí nàng.
Tôi
thèm muốn hứa yêu nàng suốt đời, tôi thèm muốn quỳ
xuống dưới chân nàng để thề nguyền trọn đời sống
bên nàng.
Nhưng,
hỡi ơi, tôi vẫn ngồi yên. Hình bóng Ngọc Thúy, mối
tình thơ mộng của tôi, cứ mãi lởn vởn, đè nặng tâm
hồn tôi.
Thu
Hồng kéo ghế đến cạnh tôi. Nàng cầm tay tôi, giọng
thực dịu dàng:
-
Em đã làm anh buồn phải không? Từ hôm ở phi trường Đà
nẵng, nhìn đôi mắt thẫn thờ của anh khi em bước lên
phi cơ, em nghĩ anh đã yêu em rồi. Em nghĩ không sai phải
không anh?
Giọng
nàng trở nên mượt mà như nhung:
-
Anh đừng buồn, tình yêu của anh cho em đến đây là đủ
rồi, em không đòi hỏi hay toan tính gì thêm nữa. Cuộc
đời của em đã được anh cứu vớt. Cuộc sống của em
hôm nay được mọi người kính trọng, hoàn toàn do anh mà
có. Cả đời em không trả nổi công ơn đó thì còn dám
đòi hỏi gì hơn nơi anh. Em là đứa con gái tầm thường
với tất cả những ước mơ tầm thường của nhân thế
nhưng em biết suy nghĩ và biết giới hạn ước mơ của
mình.
Tôi
nhìn nàng. Gương mặt xinh đẹp của nàng như ngời sáng
lên, đưa đến gần tôi. Tôi áp hai bàn tay lên đôi má
mịn màng và hôn nhẹ lên đôi môi hồng.
Bé
Thanh cũng vừa về tới. Bé tíu ta tíu tít như con chim sơn
ca. Thu Hồng kéo tấm màn che chiếc giường ngủ và vào
thay y phục. Nàng bước ra với bộ áo quần màu hồng.
Tôi nhìn sững nàng. Mặt nàng hồng lên như màu áo. Nàng
cười với nét bẽn lẽn đáng yêu. Nàng đến thực gần
tôi, giọng nũng nịu:
-
Anh có thích màu nầy không? Lần trước, ở Đà nẵng, em
mặc áo dài màu hoa cà, anh cũng nhìn em y như thế nầy.
Tôi
nói thực nhỏ, vừa đủ cho nàng nghe:
-
Chỉ khác là lần đó anh chưa dám hôn em.
Mắt
nàng bỗng ngây dại đi, nhưng chỉ thoáng qua, nàng cười
tươi, quay nhìn bé Thanh vén màn vào thay quần áo. Tôi
tiếp tục nói thực nhỏ:
-
Nhìn em trong bộ quần áo nầy đứng bên anh, anh có cảm
tưởng em là người vợ mới cưới của anh.
Nàng
ngước lên nhìn tôi, mắt say đắm, môi mấy máy như muốn
nói điều gì. Nhưng không, nàng bước đến góc phòng. Ở
đó có một lò dầu, một tấm ván kê trên những viên
gạch dùng làm chạn thức ăn và chén bát. Nhìn hai chị
em lui cui trong cái bếp thô sơ và tồi tàn đó, tôi thấy
xót thương vô hạn.
Thức
ăn bày ra trên chiếc bàn duy nhất được kéo ra giữa
phòng. Sách vở đã được Thu Hồng đưa cả sang giường.
Hai chị em ngồi ở mép giường, tôi ngồi đối diện
trên chiếc ghế duy nhất của phòng.
Bữa
ăn thực vui và ấm cúng. Thu Hồng và bé Thanh luôn tay gắp
thức ăn cho tôi. Đây là lần thứ hai, tôi dùng bữa với
hai chị em. Lần nầy vui vẻ và ấm cúng hơn cả lần
trước. Thu Hồng vừa ăn vừa kể cho tôi nghe việc dạy
của nàng và việc học của Thanh. Nàng luôn miệng ca tụng
lòng tốt của vợ chồng Thịnh. Nàng kể rằng ba ngày
sau khi đến đây, nàng chưa quen với cảnh mới thì Thịnh
đã đốc thúc nàng đến nhận lớp vì có một chị xin
nghỉ ngay để về quê phụng dưỡng mẹ già sau khi cha
đột ngột qua đời. Việc rủi của người khác thành
dịp may của nàng. Nàng được ứng trước ngay một tháng
lương để chị em mua sắm. Lương hàng tháng ở trường
tư nầy cũng ngang với lương ở trường công lập. Bé
Thanh được nhận vào học lớp Bốn tại trường. Em được
miễn học phí nên đời sống của hai chị em cũng thong
thả. Ngay từ đầu, mọi người đều tỏ cảm tình với
nàng khi biết hai chị em là nạn nhân của chiến cuộc
Mậu thân thảm khốc và phải bỏ quê hương vào đây
sinh sống. Nàng nhìn quanh nhà và nói tiếp:
-
Tất cả mọi thứ nầy là của đồng nghiệp đem đến
cho. Họ đều nghèo nên những vật nầy đều rẻ tiền
và xấu xí nhưng bên trong chứa đầy tình cảm vô cùng
đẹp đẽ của người dân miền Nam.
Sau
bữa cơm, Thanh thu dọn chén bát đưa ra bên ngoài để
rửa. Tôi nói với nàng:
-
Anh muốn ngồi mãi bên em nhưng hôm nay anh phải tạm biệt
em sớm để đi tìm chỗ ngủ.
Nàng
đến gần tôi, giọng như lạc đi:
-
Anh!
Tôi
ôm lấy khuôn mặt mỹ miều và hôn say đắm. Đó là nụ
hôn tạm biệt trong đêm nay.
Tôi
xách bao hành trang cùng Thu Hồng ra cổng. Chúng tôi đi
song song thêm một đoạn đường. Thu Hồng vịn vào cánh
tay tôi, thỉnh thoảng ngẩng lên nhìn âu yếm. Một chiếc
xích lô trờ tới đỗ bên vệ đường. Tôi bóp nhẹ bàn
tay mềm mại của người yêu. Giọng nàng nhỏ nhẹ:
-
Ngày mai, anh đến với em sớm nhé.
Tôi
gật đầu, bước lên xe và bảo bác tài đạp về nhà
chú thím tôi ở khu Bàn cờ. Đó là một căn phố hẹp,
ồn ào và dơ dáy, nơi tôi đã trải qua tuổi học trò
không đến nỗi cơ cực nhưng không hạnh phúc. Dù sao tôi
cũng mang ơn chú thím đã cưu mang tôi nhiều năm trường.
Chú
thím và các em đều có mặt. Mọi người mừng rỡ khi
thấy tôi bước vào. Tôi vội đi tắm rửa, thay áo quần
rồi ngồi vào ghế kể chuyện chiến trường cho mọi
người nghe đến nửa đêm. Sau đó, tôi bước lên chiếc
cầu thang bằng gỗ và đứng trên gác xép quen thuộc. Mọi
vật vẫn còn y như trước. Tôi bồi hồi nhớ lại những
năm tháng ấu thơ trong cái gác nhỏ, thấp và nóng nực
nầy. Một lần, lúc tôi nhận được lệnh nhập ngũ để
vĩnh viễn chấm dứt đời sống bình yên, tôi đã đưa
Ngọc Thúy về đây. Chính trên căn gác gỗ nầy, chúng
tôi đã hôn nhau. Đó là nụ hôn cuối cùng trước khi tôi
khoác chiến y. Nhìn lại cảnh cũ, tôi thấy lòng chùng
xuống trong một nỗi xót xa, lớn dần, lan dần đến ranh
giới của sự khổ đau. Tôi đã yêu Thu Hồng. Tình yêu
giữa tôi và nàng đã đi quá xa không thể trở lui được
nữa. Nhưng tình yêu giữa tôi và Ngọc
Thúy đã tàn lụi đâu. Trước mặt Thu Hồng, tình yêu đó
tạm ẩn mình. Bây giờ, đứng đây một mình trong căn
gác đầy ắp kỷ niệm của những ngày đã qua, tình yêu
đầu đời với Ngọc Thúy trổi dậy đốt cháy tâm can
tôi.
Đêm
đó, tôi ngủ một giấc rất say sau một ngày dài
mệt nhọc, bỗng giật mình thức dậy vì những tiếng
động chung quanh. Ánh sáng đèn đường từ khung cửa sổ
chiếu vào làm tôi ngỡ trời đã sáng. Đồng hồ dạ
quang chỉ năm giờ kém mười lăm. Tôi biết mình đã
nhầm. Từ hơn một năm nay, ngoài chiến trường, tôi đã
quen phân biệt ngày và đêm do ánh sáng tự nhiên. Còn ở
đây không có bóng đêm; khi mặt trời chưa tắt hẳn thì
ánh sáng đèn đường đã tràn ngập phố phường. Tự
nhiên, tôi có tâm trạng rối rắm về quá khứ và hiện
tại. Hiện tại của tôi là cuộc sống của người chiến
binh thủy quân lục chiến, suốt ngày chui rúc trong chốn
thâm sơn cùng cốc, cái sống, cái chết cận kề bên
nhau. Còn phố phường ngày đêm ngập tràn ánh sáng là
quá khứ của tôi. Tôi chỉ được trở về quá khứ vài
hôm rồi phải trở lại sống với hiện tại đầy gian
nguy của mình. Quá khứ không còn thuộc về tôi nữa.
Còn
hai mối tình của tôi, có phải một là của hiện tại
và một là của quá khứ xa xăm? Có thể nào như thế?
Không,
Ngọc Thúy vẫn còn đây, chắc chắn, nàng vẫn còn yêu
tôi và ngày đêm vẫn chờ đợi những ngày về phép ngắn
ngủi của tôi. Lát nữa đây, khi tôi bước vào nhà, đôi
mắt đẹp của nàng sẽ mở to, gương mặt mỹ miều của
nàng sẽ vẫn rạng rỡ, đôi môi hồng của nàng vẫn sẵn
sàng cho tôi chiếm hữu. Tôi nhắm mắt lại cố dỗ giấc
ngủ nhưng không được. Tôi mở mắt ra. Lần nầy thì
bình minh đã thực sự xuất hiện qua khung cửa sổ.
Chú
thím và hai em tôi cũng vừa thức dậy. Mọi người đang
tất bật với công việc buổi sáng để chuẩn bị cho
một ngày bận rộn. Tôi cũng vội vàng sửa soạn cho kịp
bữa ăn sáng của gia đình. Bộ đồ dân sự trước kia
còn khá mới vừa được tôi lấy ra và ủi lại cẩn
thận. Tôi nhìn mình trong tấm gương to ở cửa tủ, hi
vọng thấy lại cậu sinh viên văn khoa đẹp trai của ngày
nào. Nhưng tôi phì cười khi thấy trong gương một khuôn
mặt sạm đen vì nắng chiến trường, mái tóc nhà binh
húi ngắn, lởm chởm như lông một con nhím xù.
Con
đường Phan thanh Giản buổi sáng tấp nập trong ánh nắng
hòa bình yên ả. Một chiếc xích lô rồi một chiếc taxi
trờ tới, nhưng tôi lắc đầu từ chối. Tản bộ trên
vệ đường, nhìn cảnh vật xưa, lòng tôi bùi ngùi với
bao kỷ niệm của một thời đã qua.
Băng
qua con đường sắt dài hun hút rồi đến ngã tư Lê văn
Duyệt, tôi dừng lại, cảm thấy bàng hoàng.
Nếu
tôi rẽ qua trái thì ắt Thu Hồng lại rơi vào vòng tay
tôi và tôi sẽ lại hít hơi thở của nàng qua làn môi
say đắm. Nếu tôi đi thẳng là sẽ đến đường Pasteur
và Ngọc Thúy sẽ thổn thức trên vai tôi cho bõ những
ngày xa cách. Rồi nàng sẽ thế nào khi tôi nói thực tình
yêu mới mẻ của tôi đối với cô gái Huế đáng thương?
Từ trước tới nay tôi không quen nói dối trong bất cứ
hoàn cảnh nào. Huống chi, đây là mối tình đầu của
tôi mà trong quá khứ, trong hiện tại và mãi mãi là điều
đẹp đẽ vô ngần trong cả quả tim lẫn khối óc.
Tôi
dừng lại ở ngã tư đuờng, cảm thấy rất mệt dù lúc
đó đang là buổi sáng trong lành và đêm qua tôi đã được
một giấc khá ngon. Một chiếc xe to chạy ngang qua, tiếng
còi như xé rách màng nhĩ làm tôi giật mình. Tôi thở dài
hướng về phía đường Pasteur
cắm cúi đi. Xa xa ngôi biệt thự sang trọng màu xanh nhạt
hiện rõ sau bức tường cao và hai cổng kín mít. Trên đầu
trụ cổng là nút bấm chuông. Biết bao lần, tôi hân hoan
nhấn vào nút chuông, cánh cổng nặng nề hé mở, khuôn
mặt mỹ miều của nàng hiện ra, miệng cười tươi, đôi
mắt mở to để tôi nhìn qua đó cả một trời hạnh phúc
và yêu đương. Bây giờ tôi lại đứng yên, nhìn cái nút
chuông trên trụ cổng. Có nên đến và đặt ngón tay vào
nút đó không? Một lần nữa, sức lực trong người tôi
lại thoát đi. Tôi thấy mệt, muốn quay đầu chạy trốn,
xa hẳn cái chốn có quá nhiều yêu thương và phiền não
nầy.
Tôi
bỏ chạy. Ngôi nhà thân yêu đầy ắp kỷ niệm lùi lại
phía sau. Tôi chạy như một kẻ gian bị người ngay truy
đuổi. Người đi đường ngơ ngác nhìn theo nhưng không
ai chận bắt tôi lại. Ở giao lộ đường Hiền Vương,
tôi đứng sững lại khi đèn đỏ bật lên. Một chiếc
taxi
ngừng lại, tôi nhìn vào bên trong thấy xe chưa có khách.
Tôi phóng tới, cầm tay nắm cửa sau kéo mạnh. Cánh cửa
bật ra, tôi gần như nhào lên ghế nệm. Bác tài hoảng
hốt nhìn lui nhưng vẫn giữ giọng lễ phép:
-
Ông về đâu?
-
Cho tôi đến ga xe lửa. Nhanh lên kẽo trễ.
Đèn
xanh bật lên, bác tài vội nhấn ga. Xe lăn bánh, quẹo bên
trái. Qua khỏi ngã tư đường, bác đạp thắng quay lại
nhìn tôi như nhìn một vật kỳ dị. Giọng bác vẫn lễ
phép:
-
Thưa ông xe lửa đã ngưng chạy từ lâu lắm rồi.
-
Cho tôi đến bến xe đò.
-
Thưa ông, bến xe đò nào?
-
Bến xe Miền Tây.
Bác
tài nhấn ga. Tôi nghe tiếng lầm bầm của bác:
-
Về Miền Tây sao lại tính đi xe lửa?
Rồi
bác im lặng, chăm chỉ nhìn về phía trước. Xe nhanh chóng
đến giao lộ Lê văn Duyệt. Tôi nghe nhói trong tim. Giờ
nầy Thu Hồng đang đợi tôi. Tôi bảo bác tài chạy nhanh
hơn. Tôi nhắm mắt lại, bảo bác chạy nhanh hơn nữa,
bên tai tôi, tiếng gió vù vù lẫn với tiếng ồn ào của
đường phố.
Tôi
khám phá ra mình thực yếu đuối. Ngoài chiến trường,
tôi chưa bao giờ trốn chạy như thế nầy. Nhiều lần
tôi đã dẫn đầu trung đội lao thẳng vào quân thù sau
tiếng thét xung phong, mặc cho tiếng nổ đùng đùng điếc
óc, mặc cho tiếng đạn véo véo bên tai, tôi không hề
run sợ. Nhưng bây giờ, tôi chạy trốn như một kẻ hèn
nhát. Mà tôi chạy trốn cái gì? Trốn chạy một tình
yêu nồng thắm đang mỏi mòn chờ đợi tôi suốt hơn một
năm dài?
Tôi
nhớ có lần thầy tôi ở Đại học Văn khoa bảo rằng
tình yêu là tặng phẩm quý giá nhất mà Thượng Đế
nhân từ ban thưởng cho những đứa con của Ngài. Đối
với tôi, Thượng đế chẳng nhân từ chút nào cả, khi
Ngài ban cho tôi một lúc hai tặng phẩm quý giá của Ngài.
Xe
dừng lại, tôi mở mắt ra, đã đến bến Miền Tây. Tôi
trả tiền, xuống xe, thả bộ dọc theo con lộ đến tận
ngã ba An lạc. Ruộng lúa trải dài, xanh mơn mởn; xa xa,
những mái tranh im lìm bên hàng cây hiền hòa. Tôi ngồi
xuống bãi cỏ, gió đồng nội mơn man làm cho lòng tôi
dịu lại. Kế bên chỗ tôi ngồi là đám ruộng đang cấy.
Những người đàn bà dàn hàng ngang lom khom cắm những
thân lúa mảnh mai xuống bùn. Thỉnh thoảng, họ ngẩng
lên cười đùa vui vẻ. Nét thanh thản nơi họ truyền vào
lòng tôi. Tôi mỉm cười với họ; họ mỉm cười đáp
lễ, những nụ cười thân ái tuyệt vời.
Nắng
đã lên cao. Mặt trời vừa ra khỏi đám mây to, ánh sáng
từ đó tỏa ra làm không gian rực rỡ, bừng bừng sức
sống. Cảnh đồng quê hiền hòa, những con người cần
cù lao động mang đến cho lòng tôi một nguồn vui mới
mẻ.
Tôi
đứng lên vươn vai, cảm thấy trong người thực khỏe
khoắn. Tôi không muốn suy nghĩ gì nữa cả, không muốn
tự dày vò mình lâu hơn nữa. Tôi nhớ, ngày hôm qua, ở
cổng phi trường Tân sơn nhất, quả tim đã cho lệnh tôi
đến với Thu Hồng. Vậy thì tôi quyết định dành tất
cả những ngày phép cho Thu Hồng. Còn mối tình của Ngọc
Thúy, để đó, sẽ giải quyết khi về đơn vị. Tôi cảm
thấy nhẹ nhàng, Thượng Đế trở lại nhân từ đối
với tôi.
Tôi
lên xe trở về Sài gòn, ghé một quán cơm bình dân ăn
trưa, đến thăm vài người bạn cũ, rồi trở lại đường
Lê văn Duyệt khi trời đã về chiều. Cổng chính của
trường đóng kín chỉ còn cánh cửa nhỏ hé mở. Đã tan
học từ lâu, sân trường vắng lặng. Tôi đi thẳng đến
phòng Thu Hồng. Nàng ở nhà một mình. Thấy tôi, nàng
cười rạng rỡ:
-
Em chờ anh suốt buổi sáng.
-
Anh thất hẹn không đến sáng nay, em có giận anh không?
Nàng
nũng nịu:
-
Giận. Anh đền em đi.
Hai
chúng tôi lại rơi vào vòng tay nhau và chìm đắm trong nụ
hôn dài say đắm. Cũng như ngày hôm trước, tôi ở lại
dùng cơm với chị em nàng và trở về ngủ tại nhà chú
thím tôi.
Mấy
ngày phép vùn vụt trôi qua, tình yêu đã cột chặt hai
tâm tình chúng tôi làm một. Ngoại trừ buổi chiều nàng
phải lên lớp, tất cả các buổi sáng tôi đều có mặt
bên nàng. Trong tuần, có hai buổi sáng bé Thanh theo học
lớp hội họa do trường tổ chức, hai chúng tôi tha hồ
má tựa vai kề.
Ngày
phép cuối cùng, tôi đã xin một chỗ trên máy bay quân sự
để trở về đơn vị. Mười giờ sáng, phi cơ sẽ cất
cánh. Từ bảy giờ tôi đã có mặt tại phòng nàng. Nàng
ở đó một mình. Tôi bước vào, nàng khép cửa, quay lại
và rơi vào vòng tay tôi. Chúng tôi quấn quít bên nhau. Có
lúc, nàng nhìn tôi như ngây như dại khi tay tôi phiêu lưu
trên cơ thể nàng. Lúc đó, tôi biết nàng sẵn sàng dâng
hiến trọn vẹn cho tôi nhưng tôi không thể tiến xa hơn.
Với nàng, tôi vẫn có mặc cảm là kẻ ban ơn, tôi muốn
giữ gìn sự tôn trọng, để tránh cho nàng sự tủi thân
vì bị tôi tước đoạt đời con gái.
Vả
lại, tôi làm thân kẻ chinh phu, sự sống được đo bằng
những đoạn đường hành quân mà mình tham dự. Một mai,
rủi tôi sa chân trên chiến địa, nỗi đau của nàng sẽ
tăng lên gấp bội, nếu trong những kỷ niệm tôi để
lại cho nàng có cả kỷ niệm ái ân. Tôi đã gặp nàng
trong hoàn cảnh cực kỳ bi thảm. Tâm hồn người con gái
đáng thương đó như một chiếc ly pha lê bị rạn nứt,
tôi muốn giữ gìn sự trong suốt của chiếc ly pha lê
mỏng manh đó.
Tôi
bỗng nghe tiếng nàng run rẩy:
-
Anh Hưng, sắp đến giờ em xa anh rồi.
Tôi
đưa tay lên nhìn đồng hồ. Quả đúng như vậy. Chúng
tôi rời nhau ra. Nàng ngồi xuống mép giường, tôi ngồi
trên ghế đặt sát bên. Bàn tay mềm mại với những ngón
tay thon dài, ngoan ngoãn nằm trong tay tôi. Nàng ngước mắt
lên đắm đuối nhìn, hai giọt nước mắt từ từ rơi
trên má. Tiếng nàng thổn thức:
-
Kể từ chiều nay, em về phòng nầy và không được thấy
anh nữa.
Nàng
quay nhìn trên vách, tôi nhìn theo. Ở đó, có một bàn thờ
be bé, trên chỉ có một tượng Phật Quan âm đặt sau một
lư nhang. Nàng nói trong nước mắt:
-
Anh Hưng, từ nhiều tháng nay, đêm nào trước khi đi ngủ
em cũng khấn nguyện, cầu xin Phật Bà, cầu xin linh hồn
ba mạ và hai anh Trí Tuệ phù hộ cho anh. Nếu anh gặp rủi
ro, nhất định em cũng sẽ chết theo anh.
Nàng
bưng mặt khóc òa. Tôi ôm lấy hai vai rung rung của nàng,
lặng người đi vì cảm xúc. Tôi nâng mặt nàng lên, rút
khăn lau nước mắt cho nàng. Tôi an ủi nàng:
-
Nhờ sự cầu nguyện của em, mạng anh vững như bàn
thạch. Anh về đơn vị và sẽ lo thủ tục để tổ chức
lễ cưới. Em có bằng lòng vậy không?
Nàng
đặt tay trên bàn tay sạm nắng của tôi:
-
Em ước mong thư thế. Cuộc đời của em là do cha mẹ ban
cho, nhờ anh cứu vớt mới còn tồn tại đến ngày hôm
nay. Sau biến cố Mậu thân, gia đình em tan nát quá đột
ngột làm cho em luôn lo sợ cuộc đời em quá mong manh.
Nàng
ngẩng lên nhìn tôi như ngây như dại:
-
Anh Hưng, em mong có ngày được sống thực gần gũi bên
anh và trao tấm thân con gái cho anh.
Nàng cúi gầm mặt xuống
đất. Nàng đã thu hết can đảm để nói hết câu nầy
với tôi. Tình yêu của nàng đối với tôi, lấy thước
nào mà đo cho tới!
Bỗng
dưng, nàng ngẩng lên và nhìn vào mắt tôi:
-
Anh Hưng, em đã nói với anh, em cố gắng giới hạn sự
ước mơ của em đối với anh. Điều đó vẫn thường
xuyên làm em đau khổ. Anh có hiểu em không?
Tôi
hiểu lòng nàng. Kể từ khi bắt đầu yêu tôi, nàng lo sợ
đang là kẻ đến sau. Người con gái đáng thương nầy,
tâm tính quá hiền lành để có thể toan tính dành giật
cái mình muốn trên tay kẻ khác. Nàng cũng không nghĩ đến
việc tìm hiểu quá khứ của tôi vì bản chất kín đáo
cộng thêm với lòng tự trọng của người có học.
Tôi
nghĩ đến Ngọc Thúy. Mặc cảm phản bội làm cho tôi xốn
xang. Kể từ hôm ngồi trên bờ cỏ ở ngã ba An lạc, tôi
đã cố gắng đặt hình bóng người yêu cũ càng lúc càng
xa. Tôi đã thành công phần nào, hình bóng diễm kiều kia
mờ mờ ảo ảo trong những ngày nồng thắm vừa qua của
tôi với Thu Hồng. Bỗng dưng tôi cảm thấy đau đớn khi
nghĩ rằng Ngọc Thúy đang quanh quẩn đâu đây, đang chờ
đợi tôi, nhưng tôi đã cố tình xa lánh mà nàng không
hay biết. Tôi đã xa nàng rồi, mãi mãi xa nàng rồi. Vĩnh
biệt Ngọc Thúy, vĩnh biệt quá khứ!
Bé
Thanh cũng vừa đi chợ về, một tay xách giỏ, một tay
xách túi nhựa. Thấy tôi đang ngồi, bé trịnh trọng đặt
túi nhựa lên đùi tôi rồi đứng nhìn tôi cười. Tôi
nhìn sang Thu Hồng. Hiểu ý, nàng giải thích:
-
Sáng nay, nó nhất định xin tiền để mua quà tặng anh đi
đường.
Tôi
cảm động và hơi thấy xấu hổ trong lòng; chuyến đi
phép nầy, tôi chẳng hề có món quà mọn nào tặng bé.
Tôi
đứng dậy nói với Thu Hồng:
-
Tới giờ rồi, anh phải chia tay hai chị em.
Thu
Hồng đứng dậy theo, nhìn tôi nước mắt lưng tròng. Tôi
quay sang bé Thanh:
-
Anh chúc em ở lại mạnh khỏe, học giỏi. Kỳ nầy, anh
không có quà gì cho em cả. Kỳ sau về nhất định phải
có. Em thích quà gì, nói trước cho anh nghe đi.
Bé
lắc đầu:
-
Em chỉ thích anh về ăn cơm với chị Hồng và em thôi.
Hôm
nay, em không gọi tôi là ông nữa, có lẽ Thu Hồng đã
dạy em như thế.
Tôi
chia tay hai chị em và rảo bước ra đường.