Ba
tháng nghỉ hè trôi qua một cách bình yên đối với tình
yêu của đôi trẻ nhưng không bình yên chút nào đối với
cuộc sống trên mọi miền đất nước. Riêng với Sinh
thì cậu đã bớt quan tâm đến tính hình chiến sự đang
sôi động khắp nơi. Những chiến thắng giòn giã của
quân giải phóng không còn gây được nơi cậu sự hân
hoan của những ngày đầu mới nghe đài Giải phóng và
đài Hà nội. Hằng đêm, cậu thường quên nghe hai đài
nầy nên không theo dõi sức tiến quân của Mặt trận. Tờ
nhật báo Tin sáng vẫn được cậu mua đều đặn nhưng
không còn được đọc một cách chăm chỉ như trước. Có
tờ cậu đưa về, liếc sơ qua các chữ lớn ở trang nhất
rồi vứt vào xó nhà.
Các
buổi sinh hoạt chi đoàn cũng thưa dần vì thầy Văn
thường hoãn lại. Nếu có thì cũng không kéo dài. Trong
những buổi sinh hoạt đó, gần như chỉ có lời độc
thoại của thầy Văn. Giọng thầy vẫn còn đầy nhiệt
huyết nhưng không còn gây cho Sinh sự phấn khởi và sôi
nổi như lúc đầu. Cậu cũng bỏ luôn cái thói quen bịa
ra công tác theo sát người nầy người kia. Cậu thường
im lặng trong suốt buổi sinh hoạt. Trước đây, cậu
thường chê thầy Bá ít phát biểu. Bây giờ, cậu còn ít
phát biểu hơn thầy ấy nữa. Thầy Văn hình như không
quan tâm đến điều nầy. Có lẽ thầy quá bận rộn với
công việc trọng đại hơn trong cái thời gian mà thầy
gọi là giai đoạn cận kề sự kết thúc cuộc đấu
tranh vũ trang của cách mạng Việt Nam.
Vào
đầu năm học, Sinh ung dung dắt tay người yêu vào văn
phòng để cùng ghi danh. Sinh ghi tên vào chứng chỉ Phương
pháp toán học trong vật lý.
Trang Đài theo chứng chỉ
Động vật học.
Ghi danh xong, hai bạn bước ra sân trường. Không khí mát
mẻ thực dễ chịu. Mấy tháng mưa vừa qua làm cho những
cây điệp, cây còng trổ cành lá sum sê phủ bóng mát
khắp nơi. Nhiều học sinh vừa mới rời trường trung học
đến đây ghi danh vào chứng chỉ dự bị, phần đông lớ
ngớ như người nhà quê lên tỉnh lần đầu. Trang Đài
nhìn họ mỉm cười. Sinh quay sang nhìn người yêu, thấy
mặt nàng thực rạng rỡ. Cậu bảo:
-
Em cười gì vậy?
-
Em thấy các bạn nầy, nhớ lại năm ngoái lần đầu tiên
bước vào trường, em hồi hộp lẫn vui sướng một cách
kỳ lạ. Anh Sinh, anh có thấy ngôi trường nầy thực đáng
yêu không?
-
Có chứ, em yêu nó thì làm sao anh không yêu được.
Cậu
lơ đãng nhìn hai dãy lầu đã được sửa sang lại, nhưng
không xóa hết nét rêu phong cũ kỹ của tòa nhà xưa.
Giọng Sinh trầm xuống:
-
Ngôi trường nào cũng chỉ là quán trọ vài năm của tuổi
trẻ một đời người. Hai năm nữa, anh sẽ rời quán trọ
nầy, mang theo biết bao kỷ niệm êm đềm.
Trang
Đài nhìn người yêu, mắt sáng lên, giọng sôi nổi:
-
Anh Sinh, hay là anh cố gắng lấy hai chứng chỉ còn lại
với hạng cao. Em nghe nói đậu hạng cao thì có thể xin ở
lại trường làm phụ khảo rồi học thêm để trở thành
giáo sư đại học. Em thích anh sau nầy là một khoa học
gia.
-
Còn em sau nầy sẽ là người phụ tá hay người nâng khăn
sửa túi cho khoa học gia đó, có đúng không?
Sinh
nói xong quay lại và ngây ngất trước vẻ đẹp của
người con gái đang cúi đầu e thẹn. Cậu cảm thấy
trong lòng rộn lên một niềm phấn khởi và vui sướng vì
ước muốn của người yêu. Nhưng nó vụt tắt mất khi
Sinh nhớ lại ý định của thầy Văn muốn cậu sớm trở
thành giáo sư của trường trung học tư thục trước
kia, để cậu sẽ phụ trách cơ sở cách mạng nầy thay
cho thầy. Thầy cũng có cho biết đã một lần gợi ý với
hiệu trưởng và ông ta đã đồng ý thu nhận cậu vào
đội ngũ giảng dạy của trường. Thầy bảo cậu vào
trường nhận ngay giờ lớp nhỏ để giữ chân rồi tiếp
tục học đại học. Tuy nhiên, cậu đã khẩn khoản xin
thầy hoãn lại để cậu lấy xong bằng cử nhân. Thầy
gật đầu, bảo:
-
Thôi thế cũng được. Sự nghiệp cách mạng còn dài. Sau
khi thành công, đảng cũng cần người có học để tiếp
tục phục vụ.
Thầy
nói thế nhưng nét mặt không dấu được vẻ bất mãn
người đồng chí trẻ tuổi.
Sinh
cảm thấy buồn bực khi nhận ra rằng hình ảnh của cuộc
cách mạng vô sản, lý tưởng cao cả của cậu trước
đây, càng ngày càng mờ nhạt trước tình yêu mỗi lúc
một nồng thắm hơn. Cái lý tưởng đó đã từng đem đến
cho cậu niềm phấn khởi về một tương lai huy hoàng giờ
đây trở thành một sự vướng bận khó chịu. Nó xấu
xí và dai như đỉa, cứ nhùng nhằng nhủng nhẳng đeo
theo kẻ xấu số. Cậu lắc đầu, cố xua đuổi mọi thứ
ra khỏi trí óc. Sinh quay sang Trang Đài, cố lấy giọng
thực thản nhiên:
-
Mình trở lại cái quán giải khát của chúng mình đi.
-
Dạ, em cũng thích như vậy.
Hai
bạn sánh bước trên vệ đường quen thuộc. Họ lựa một
chiếc bàn nhỏ trong góc quán và kéo sát ghế ngồi bên
nhau. Sinh cầm bàn tay mềm mại và trắng muốt của người
yêu, bóp nhẹ trong cả hai tay mình. Cậu thấy lòng tràn
ngập yêu thương và hạnh phúc khi nhớ lại sự rung động
kỳ lạ lần đầu tiên chạm vào bàn tay Trang Đài ở tại
nơi chốn thân thương nầy. Ngày đó, cậu đã chạm được
vào cái báu vật quý nhất trên đời; ngày nay, cái báu
vật đó đã thuộc về cậu rồi. Cậu quay sang người
yêu khi có tiếng nàng thỏ thẻ:
-
Em muốn kể anh nghe chuyện nầy.
-
Chuyện gì vậy em?
-
Hôm qua mẹ gọi em vào phòng, bắt ngồi ngay ngắn rồi
hỏi em về chuyện lâu dài của chúng mình.
Sinh
hơi sửng sốt, hỏi lại:
-
Vậy sao?
Trang
Đài im lặng nhìn ly nước, nét mặt đăm chiêu.
Từ
trước đến nay, Sinh có một quan niệm rất giản dị là
tình yêu ắt phải dẫn đến hôn nhân, không còn gì cần
bàn cãi nữa. Đặc biệt là trong câu chuyện của mình
thì cậu thấy rõ mình không thể sống thiếu Trang Đài
được. Vô tình hay hữu ý, cậu không để tâm suy nghĩ
vấn đề nầy.
Vả
lại, tình yêu của cậu với Trang Đài mới bắt đầu
chưa được một năm. Thời gian đó quá ngắn, Sinh lại
phải bận rộn rất nhiều trong trí óc, nào là chuyện
học hành, nào là sự lo nghĩ chưa làm được gì cho cách
mạng, nào là nỗi ray rứt về tình yêu và giai cấp…. Tình
yêu đã thực sự đem hạnh phúc đến cho cậu, nhưng cũng
làm cho tâm tư cậu mệt mỏi vì sự mâu thuẩn giữa con
tim và khối óc. Bây giờ lại có vấn đề mới đầy gai
góc được đặt ra. Đó là vấn đề hôn nhân giữa cậu
và người yêu. Cậu là người của cách mạng, nàng là
con của kẻ thù cách mạng. Yêu nhau suông thì khả dĩ
chấp nhận được còn lấy nhau thì lại là chuyện khác.
Tổ
chức cách mạng sẽ có thái độ thế nào về việc nầy?
Chấp nhận cho một đoàn viên Thanh niên cộng sản lấy
con của kẻ thù? Không bao giờ!
Lấy
con của thiếu tá an ninh quân đội để làm nội gián cho
cách mạng? Khiếp! Không bao giờ Sinh làm chuyện đó!
Ra
khỏi đoàn và giã từ cách mạng ư? Sinh rùng mình. Cậu
đinh ninh rằng, một khi đã đặt tay vào tim mình để thề
hy sinh tính mạng mình cho tổ chức thì người ta chỉ có
thể rút lại lời thề đó bằng chính cái chết của
mình mà thôi!
Rồi
đối với nàng và gia đình nàng thì sao đây? Từ chối
hôn nhân đồng nghĩa với cắt đứt tình yêu để gây
đau khổ cho nàng và cho mẹ nàng? Chắc chắn tâm hồn
Sinh sẽ rơi vào chín tầng địa ngục!
Chấp
nhận hôn nhân rồi mọi việc sẽ tính sau? Không lẽ đã
thành vợ thành chồng rồi mà cậu vẫn giấu được công
việc của mình hay sao? Thú thực với nàng đồng nghĩa
với sự phản bội cách mạng. Tiếp tục giấu giếm là
phản bội sự thương yêu và tín nhiệm của nàng và gia
đình nàng!
Sinh
cảm thấy chóng mặt và hụt hơi. Cậu cố gắng giữ hơi
thở, nhìn người yêu và hỏi nhỏ:
-
Em trả lời với mẹ thế nào?
-
Em nói để hỏi anh trước đã.
Sinh
tìm được kế hoãn binh:
-
Em biết rõ là anh không thể sống thiếu em được. Nhưng
chúng mình còn nhiều năm học cho thành tài. Đặt vấn đề
hôn nhân bây giờ có sớm quá không?
-
Mẹ cũng thấy thế. Thì mới tháng trước đây, mẹ còn
khuyên em phải cố giữ gìn đừng để gián đoạn sự
học. Nhưng tuần rồi, ba về thăm nhà, nói với mẹ rằng
tình hình rất bi quan. Từ hôm đó trở đi, mẹ bứt rứt,
đứng ngồi không yên. Có hôm, mẹ lầm bầm tính chuyện
thu dọn thứ nầy, gói ghém thứ kia. Mẹ biểu em cởi cả
sợi dây chuyền đưa cho mẹ cất. Có lẽ mẹ hỏi chuyện
chúng mình là vì tâm trạng đó.
-
Còn ý em thì sao?
-
Nhìn mẹ, em thấy như giặc đã đến ngoài cổng rồi.
Theo em thì cũng không đến nỗi bi quan đến thế. Ba nói
là họ đã lấy Quảng trị, đang đe dọa Huế và cái
thành phố gì đó trên cao nguyên. Em thấy mấy chỗ đó
còn cách mình xa lắc. Vả lại, trước đây, hồi Tết
Mậu thân, họ chiếm lung tung, chỗ nầy, chỗ nọ, rồi
rốt cuộc cũng phải nhả ra hết. Theo anh thì mẹ đúng
hay em đúng?
-
Cả hai người đều đúng.
Trang
Đài cười khúc khích:
-
Anh sợ nói mẹ đúng thì mất lòng em. Còn nói em đúng
thì mất lòng mẹ. Có phải không?
Sinh
đáp một cách ởm ờ:
-
Không phải đâu. Sắp có biến chuyển quan trọng nhưng
không đến đổi bi quan lắm.
-
Thôi đừng nói chuyện chiến cuộc nữa. Em là đàn bà
con gái, không thích nghe chuyện chính trị hay thời sự
nhiều đâu. Thế bây giờ chuyện tương lai của chúng
mình, em phải trả lời mẹ như thế nào?
-
Em thưa với mẹ rằng tâm nguyện của anh là được sống
suốt đời với em. Còn cách thức cụ thể thế nào thì
do mẹ định liệu, anh làm theo ý mẹ. Anh là đứa trẻ
mồ côi, anh cầu mong mẹ của em chính là mẹ của anh; bà
sắp đặt chuyện tương lai cho anh, và anh chỉ có việc
tuân theo sự sắp đặt đó.
Trang
Đài rơm rớm nước mắt nhìn người yêu. Sinh buồn bã
nhận ra rằng, một lần nữa, cậu đa ngã hẳn sang tình
yêu. Tuy nhiên, cậu hiểu rằng cuộc chiến trong lòng cậu
vẫn chưa chấm dứt. Cậu cảm thấy mệt mỏi và thèm
muốn nói ra tất cả cho Trang Đài hiểu và an ủi mình.
Cậu nghe giọng nói nhỏ nhẹ của người yêu:
-
Thôi trưa rồi, mình về nghe anh.
Sinh
quay sang, cầm lấy cả hai tay nàng, nói trong hơi thở dồn
dập:
-
Trang Đài, em là tất cả cuộc đời của anh, em biết
không?
Trang
Đài thoáng ngạc nhiên. Nàng cảm động nói:
-
Em hiểu. Ba năm nữa em sẽ ra trường và sẽ là vợ suốt
đời của anh.
Sinh
biết Trang Đài hiểu lầm thái độ của mình, nhưng cậu
cảm thấy an ủi vô cùng vì câu nói đó của ngưới yêu.
*
*
*
Vào
năm học, Sinh thêm được một nguồn an ủi là sách vở.
Cậu học thực chăm chỉ, giờ rảnh là chui vào thư viện.
Với đà học nầy, cậu nghĩ rằng cuối năm, trong lớp
chẳng bạn nào hơn mình được. Cậu hứa tặng cho Trang
Đài kết quả của kỳ thi cuối năm nay. Ngược lại,
nàng cũng hứa như thế với Sinh.
Tuy
nhiên, việc học nghiêm túc chỉ thực hiện được hơn
ba tháng. Buớc qua đầu năm 1975, dù có cố gắng đến
bao nhiêu đi nữa, hai bạn trẻ cũng không thể ngồi yên
để học được. Một không khí hoang mang bao trùm Sài
gòn. Rồi Phước long và cả một vùng rừng rậm bao la
của miền Đông đất đỏ rơi vào tay quân Giải phóng.
Trong sân trường, sinh viên tụ năm, tụ ba bàn nhau về
chiến cuộc hơn là về bài vở. Các giáo sư cũng mất
hết nhiệt tình khi lên bục giảng. Mọi nguời làm việc
cầm chừng để chờ đợi một điều gì đó hết sức
trọng đại đang đến gần.
Cái
điều trọng đại đó thì Sinh biết rất rõ nhờ buổi
sinh hoạt chi đoàn vừa qua. Thầy Văn đã phân tích một
cách sôi nổi tình hình chính trị quân sự để cho thấy
rằng cán cân đã nghiêng hẳn về phía cách mạng. Về
chính trị thì chính quyền Sài gòn đã mất hết sự hậu
thuẩn của dân chúng, một phần cũng nhờ những bài viết
và lời kêu gọi chống đối của chính các đại diện
Tòa Thánh La mã, những linh mục mà thầy gọi là những
tu sĩ tiến bộ, những người kính Chúa, yêu Tổ quốc!
Về
quân sự thì ta đánh cho địch tơi tả khắp mọi nơi,
đặc biệt ở bốn mặt trận chính, một là các tỉnh
cực Bắc, hai là Tây nguyên, ba là miền Đông Nam bộ và
bốn là đồng bằng sông Cửu long.
Thầy
bảo rằng quân Giải phóng đang thanh toán những ổ kháng
cự cuối cùng để đồng loạt tiến về giải phóng Sài
gòn. Thầy kết luận, khắp nơi người ta đang reo hò đón
tiếp đoàn quân chiến thắng. Không bao lâu nữa, tại
đây, chúng ta cũng là những người chiến thắng và quân
thù chiến bại phải quỳ xuống để xin tha mạng.
Nhờ
những năm dạy học, quen ăn nói trôi chảy nên thầy diễn
tả tình hình thực sống động. Hai người đoàn viên
ngồi nghe say sưa. Thanh niên nào mà không thích nghe chuyện
chiến trường. Trước đây Sinh cũng đã từng thích thú
ngồi nghe hai thằng bạn thân kể chuyện đánh nhau với
Việt cộng. Tuy nhiên đến khi thầy kết luận thì Sinh
mất cả hứng thú. Cậu thở dài áo não.
“Chúng
ta cũng là những người chiến thắng”.
Trong số những người chiến thắng đó, hẳn phải có
Sinh.
“Kẻ
thù chiến bại phải quỳ xuống xin tha mạng”.
Trong những kẻ thù chiến bại đó, hẳn phải có ba mẹ
Trang Đài và cả chính nàng nữa.
Những
người chiến bại thân yêu đáng thương đó phải quỳ
trước mặt cậu, kẻ chiến thắng đáng ghét, để xin
tha mạng ư? Sinh cảm thấy lợm giọng khi hình dung một
cảnh kinh tởm như thế. Cậu nao nao nhớ lại buổi chiều
trong quán kem, sau nụ hôn đầu đời của hai đứa, Trang
Đài đã lý giải một cách thực cảm động về tình cảm
đối với kẻ thắng, người bại. Lý luận nầy ám ảnh
Sinh một thời gian khá dài sau đó….
Trong
những ngày đen tối nầy của miền Nam, Sinh vẫn đến
trường đều đều, cốt để gặp Trang Đài hơn là để
học hành. Các lớp học bị tê liệt. Người ta không
tuyên bố đóng cửa trường, nhưng chẳng ai còn lòng dạ
đứng giảng và ngồi học nữa.
Rồi
mặt trận Tây nguyên vỡ, Ban mê thuột thất thủ, vài
ngày sau Pleiku
cũng rơi vào tay quân giải phóng. Quân đội Cộng hòa bỏ
cao nguyên rút về đồng bằng, theo sau là một đoàn dân
chúng tơi tả chạy theo xuống Tuy hòa rồi vào Sài gòn.
Những thảm cảnh sợ hãi và trốn tránh cộng sản của
hàng trăm ngàn người dân vô tội được mô tả tỉ mỉ
trên báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, với những
hình ảnh thực sống động. Cái cảnh đau thương cùng
cực nầy đã làm cho Sinh không cầm được nước mắt.
Cậu thấy nó khác xa với lời thầy Văn mô tả:
“Khắp nơi người ta reo hò, đón tiếp đoàn quân chiến
thắng”!
Một
buổi sáng, Sinh thức dậy, làm xong công việc cần thiết
rồi ra quán điểm tâm. Trước mắt cậu có cả một ngày
dài rảnh rỗi và trống vắng. Cậu nhớ đến người yêu
nên chạy xe thẳng về nhà Trang Đài.
Cửa
cổng vừa mở ra, Sinh đẩy xe vào, ngạc nhiên thấy ở
hai băng đá mà cậu thường ngồi với Trang Đài có bốn
thiếu nữ mặc áo dài kiểu học trò. Thấy Sinh vào, cả
bốn người đứng dậy chào. Dì Tư bảo nhỏ với cậu:
-
Bạn cùng lớp với cô Đài đó. Họ đến rủ cô Đài đi
phát đồ cứu trợ.
Vừa
lúc đó, Trang Đài cũng từ phòng khách bước ra. Thấy
Sinh, nàng vui cười chạy vội lại. Nàng chỉ vào bốn
thiếu nữ:
-
Anh Sinh, đây là chị Như Mai, chị Hằng, chị Tuyết Mai
và chị Chánh, học cùng lớp với em. Mẹ chị Chánh làm
ở hội Hồng thập tự. Có một chuyến hàng khẩn cấp
từ ngoại quốc đưa đến để phân phát cho những người
chạy trốn cộng sản. Hàng nhiều lắm cần được phân
phát ngay ở khắp các địa điểm tiếp nhận nạn nhân
tại thành phố. Họ không đủ người nên nhờ đến tụi
em.
Trang
Đài dẫn Sinh đến giới thiệu với các bạn:
-
Đây là…
-
Đây là anh Sinh - Chị
Chánh vội cướp lời -
học chứng chỉ
Phương pháp toán học trong vật lý.
Trang
Đài trố mắt ngạc nhiên:
-
Chị có quen với anh Sinh hả?
Chánh
cười, giọng trêu ghẹo:
-
Trang Đài đừng vội lo, không ai cướp mất người yêu
dấu đâu. Hai anh chị cứ nắm tay nhau tung tăng trong sân
trường đại học, như đôi thiên nga trong hồ nước, thì
từ chị lao công đến ông khoa trưởng, ai cũng phải để
ý.
Chánh
nói xong, cả bốn cô đều cười vang làm cho Trang Đài
thẹn đỏ mặt. Chánh nói tiếp:
-
Bây giờ anh Sinh có rảnh không? Nếu rảnh thì mời theo
chúng tôi. Mẹ tôi bảo hàng cứu trợ nhiều và khá nặng.
Có anh là thanh niên đi theo khiêng thì tốt lắm. Anh có
nhận lời không?
-
Rất sẵn sàng đi theo làm cu li khuân vác cho các cô. Các
cô cứ sai bảo, tôi không nề hà việc gì cả.
Chánh
tiếp lời ngay:
-
Kể cả sau nầy giặt tã con nít giúp cho Trang Đài. Có
đúng không nào?
Trang
Đài lại đỏ mặt vì tiếng cười vui vẻ của các bạn.
-
Thôi, lên đường.
Theo
lệnh của Chánh, tất cả đều lên xe hai bánh của mình.
Sáu người đi ba xe, Trang Đài ngồi sau lưng người yêu.
Họ tiến về trụ sở Hồng thập tự cách đó không xa.
Chánh vào văn phòng một lát rồi bước ra với một mảnh
giấy cầm trong tay. Trong sân còn ba xe ô tô. Chánh chỉ
vào một xe vận tải nhỏ. Cô lên ngồi cạnh tài xế,
năm người còn lại leo lên ngồi chung với hàng hóa. Xe
bon bon ra xa lộ rồi đến một trường trung học ở Thủ
đức. Xe chạy vào cổng và đậu trong sân trường khá
rộng. Sinh nhảy xuống trước, đỡ Trang Đài xuống sau.
Các chị khác tự mình từ từ leo xuống. Họ thảng thốt
nhìn quanh.
Bao
bọc sân trường là bốn dãy phòng. Ngoại trừ dãy phía
trước, ba dãy kia đều là lớp học. Cảnh hỗn độn
diễn ra khắp nơi ở ba dãy nầy. Phòng nào cũng lố nhố
người và đủ thứ vật dụng. Ngoài hành lang đầy người
lui tới. Trong sân trường dọc theo bên trước các dãy
lớp có nhiều bếp nấu làm bằng ba viên gạch hay các
cục đá cùng cỡ. Một vài bếp khói lên nghi ngút. Các
bếp khác chỉ có tro và than.
Người
tài xế đã hạ bửng xe. Sinh cùng vài giáo sư của trường
đưa hàng xuống và lần lượt mang đến các lớp học.
Hàng đưa đến đâu thì các nữ sinh viên theo đến đó
để phát cho người chạy loạn. Bây giờ Sinh mới để ý
nét mặt nạn nhân nào cũng hốc hác, nỗi kinh hoàng vẫn
còn đọng trên đôi mắt ngơ ngác của mỗi người.
Hàng
cứu trợ gồm nhiều thứ khác nhau: thực phẩm khô, sữa,
áo quần, chăn mền. Các cô đưa món nào thì họ thản
nhiên nhận món đó, không chọn lựa và chẳng có vẻ gì
là thèm muốn cả. Nhìn mặt họ, Sinh cảm được nét đau
khổ cùng cực khi phải ra đi mình không, bỏ lại sau lưng
tài sản của cả một đời người tằn tiện để đến
đây ngửa tay nhận một phần cứu trợ bé nhỏ nầy. Họ
là những người Việt Nam, những người có truyền thống
hãnh diện về khả năng tự lực cánh sinh của mình, hôm
nay phải nhận tặng phẩm từ thiện như những kẻ ăn
mày.
Sinh
tự hỏi, ai là thủ phạm gây ra cảnh nầy? Cậu không
dám tự trả lời vì chính cậu, trong bao nhiêu năm nay, đã
tự nguyện đứng trong hàng ngũ những thủ phạm đó. Cái
niềm vinh quang mà cậu từng mong ước đang đến gần và
biến những người dân vô tội thành đoàn người tơi tả
đến thế nầy sao?
Mọi
lứa tuổi đều có mặt ở đây. Những ông già bà lão
ngồi yên với cái nhìn lờ đờ mệt mỏi. Những thiếu
phụ mắt sưng đỏ nhưng ráo hoảnh vì đã đổ tất cả
nước mắt trên con đường lánh nạn. Những thiếu nữ
mặt hốc hác và sầu thảm vì vừa bị tướt mất màu
hồng của cuộc đời. Và những trẻ thơ quần áo tả
tơi, đôi mắt thơ ngây ngơ ngác nhìn quang cảnh và con
người xa lạ chung quanh, khác hẳn với nơi thân yêu đã
ấp ủ những năm tháng sống hồn nhiên.
Hỡi
Thượng Đế toàn năng và nhân từ, sao Ngài nỡ để cho
những con người khốn khổ nầy vuột ra khỏi vòng tay
cứu rỗi của Ngài?
Sinh
đau đớn nhận chân được ý nghĩa chiến thắng của
cuộc cách mạng vô sản mà cậu đã chọn lựa làm lý
tưởng cao cả của đời mình. Cậu cảm thấy không còn
đủ sức chịu đựng cái nhìn như trách móc của những
con người khốn khổ nầy nữa.
Khuân
hàng đến các điểm phân phối xong, cậu vào văn phòng
vặn nước rửa tay rồi ra ngồi ở bệ cột cờ để chờ
đợi. Cậu cảm thấy vô cùng đau đớn vì chính cái lý
tưởng cao cả mà mình đã đam mê trong những năm qua.
Các
cô đã làm xong bổn phận nhưng vẫn còn ngồi lại nói
chuyện với các nạn nhân. Sinh đưa mắt tìm kiếm Trang
Đài. Cậu thấy nàng đang ngồi dưới đất, trước vài
người ở cửa lớp, tuốt đằng xa. Nàng liên tục lấy
khăn chặm vào mắt.
Một
bàn tay chạm nhẹ vào vai Sinh. Cậu ngửng lên thấy nét
mặt buồn dàu dàu của bác tài xế. Bác nói:
-
Thôi, kêu mấy cô về đi cậu. Ở đây nhìn họ tôi chịu
không nổi nữa.
Sinh
thầm nghĩ:
-
Không ai chịu đựng nổi cái cảnh do những người nhân
danh giai cấp vô sản gây ra. Vâng, không ai chịu nổi, kể
cả người tài xế già thuộc giai cấp vô sản nầy.
Cậu
thở dài một cách áo não và đi mời các chị trở lại
xe.
Xe
về đến trụ sở Hồng thập tự thì các bạn trẻ chia
tay. Sinh nổ máy xe, Trang Đài lên ngồi ở yên sau. Khi xe
ra khỏi cổng, nàng âu yếm choàng tay qua bụng người
yêu. Sinh mong cho con đường dài ra nhưng không được, vài
phút sau, cậu đã về đến nhà. Trang Đài bước xuống
bảo nhỏ:
-
Anh vào với em một lát nhé. Em buồn quá, muốn anh ở
cạnh em.
-
Em gọi cửa đi, anh vào với em.
Cả
hai bước qua cổng. Sinh ngồi trên băng đá đợi Trang
Đài. Vài phút sau, nàng đi ra, xinh xắn trong bộ quần áo
màu vàng nhạt. Nàng đến ngồi xuống ghế đối diện.
Sinh nhìn nàng say đắm. Giọng nàng nho nhỏ thực buồn:
-
Hôm nay là mười lăm tháng tư rồi. Lẽ ra, mình đã bắt
đầu học rút vì gần đến kỳ thi rồi, phải không anh?
Nàng
thở dài, nói tiếp:
-
Bây giờ thì hết rồi.
-
Em có tiếc không?
-
Có. Năm đầu học chứng chỉ chuyên khoa mà không đuợc
tới nơi tới chốn, làm sao em không tiếc được.
Nàng
lại thở dài, giọng trở nên não nùng:
-
Nhưng chứng kiến cảnh vừa rồi, em không tiếc nữa. Tại
sao con người lại bị đày đọa đến chỗ cùng cực đến
thế anh nhỉ?
Sinh
cúi đầu im lặng. Cậu đã hiểu nguyên nhân sâu xa của
nỗi thống khổ nầy. Nhưng bây giờ giải thích cho nàng
thì có ích lợi gì đâu. Cậu cảm thấy một nỗi đau
đớn cùng cực trong lòng mình, tuy nhiên cậu muốn giữ
riêng cho mình nỗi đau đó. Giọng nói đầy xúc động
của nàng cứ thấm từng lời vào lòng Sinh:
-
Khi nãy, em hỏi thăm một người trong nhóm chạy loạn.
Chị ấy dạy ở một trường tiểu học trên đó. Chồng
chị là trung sĩ của đại đội trấn giữ một tiền đồn
bảo vệ Pleiku. Khi tiền đồn bị tràn ngập, cả đại
đội đều hy sinh, chỉ còn sót một hạ sĩ, do một phép
mầu, trốn thoát được, ba ngày sau mới đến cho chị
hay tin. Lúc đó, thành phố đã trở nên hỗn loạn, súng
nổ khắp nơi. Chị ráng giữ bình tĩnh, nấu nồi cơm,
bày lên bàn thờ cúng cho chồng. Đồ cúng duy nhất chỉ
là nồi cơm với chén nước mắm. Chị có hai đứa con
trai, một đứa lên năm, một đứa lên ba. Chị vừa khóc
chồng vừa xì xụp lạy với hai đứa con. Bỗng bên ngoài
nổi lên tiếng la hét mỗi lúc một to. Bà hàng xóm bảo
chị di tản nhanh, Việt cộng đang tràn vào thành phố.
Chị vơ vội mấy món đồ cho vào túi, máng lên vai rồi
kéo hai con chạy theo đoàn người và xe cộ. Chị không
kịp mang giày cho con nên thằng bé đau chân đi chậm lại.
Chị thương con quá, bế nó lên tay rồi cõng nó lên lưng,
dần dần bị tụt lại phía sau. Bỗng có nhiều trái đạn
rơi xuống đoàn người, nổ ầm ầm. Chị ngã xuống đất,
buông đứa con ra. Chị bị ngất đi một lát. Khi tỉnh
lại thì chị thấy đứa con nhỏ bị trúng đạn vào đầu
đang nằm chết còn thằng lớn không thấy đâu nữa.
Người ta lôi chị dậy, dắt chị đi một đoạn rồi
quẳng lên xe. Chị nhớ mang máng có ngủ giữa rừng mấy
đêm, rồi một đêm ở chỗ mà người ta gọi là Cung
sơn, rồi lại hai đêm nữa ngủ rừng thì về đến Tuy
hòa. Người ta lôi chị lên tàu thủy và chở vào Nam. Chị
nói rằng chị không thiết gì trên đời nữa. Ai đưa
thức ăn đến miệng thì ăn, không thì thôi. Chị không
thiết sống nữa mà cũng không thiết chết nữa cho nên
không có ý định tự tử. Người ta chỉ tự tử khi còn
thấy cuộc đời còn có một ý nghĩa nào đó mà người
ta muốn xa lánh. Chị cũng không điên cuồng, có lẽ vì
chị cũng chẳng thiết đến điên cuồng nữa.
Trang
Đài ngừng nói, úp cả hai tay vào mặt. Khi nàng mở tay
ra thì mặt đã nhòe nhoẹt nước mắt. Sinh rút khăn tay
trao cho người yêu. Nàng cầm lấy, lau khô mặt. Giọng
nàng buồn rười rượi:
-
Em nghĩ rằng, khi những kẻ chiến thắng tràn vào thành
phố, họ sẽ gom những người dân còn ở lại. Kẻ chiến
thắng sẽ phát cho mỗi người dân một lá cờ Mặt trận,
tập cho họ la to “hoan hô, đả đảo” để ngày hôm
sau họ dự mít tinh chào mừng ngày giải phóng. Rồi chụp
hình quay phim, chiếu trên đài Hà nội và gởi đi khắp
nơi, châu Âu, châu Mỹ, châu Úc. Sự chào mừng giải
phóng đó sẽ được cả thế giới hân hoan, ngoại trừ
nhân dân miền Nam Việt Nam. Không, trong khối nhân dân
miền Nam sẽ có một số cũng hân hoan vì họ đã hùa
theo với cộng sản và tự cho mình là kẻ chiến thắng.
Anh Sinh, em sẵn tính không ưa kẻ chiến thắng, riêng kẻ
chiến thắng ngày hôm nay thì càng đáng ghét hơn nữa. Họ
là những người vô nhân đạo.
Sinh
nghe những gân máu trên đầu mình giựt bưng bưng. Cậu
quay mặt chỗ khác không dám nhìn người yêu. Trang Đài
khóc rấm rứt:
-
Anh Sinh, em lo sợ họ sắp đến đây rồi. Những ngày êm
đềm trong sân trường đại học của anh và của em vĩnh
viễn từ bỏ chúng ta rồi. Cả cái chốn thân yêu nầy
nữa. Họ vào đây giải phóng thì ba em phải chết, rồi
chính mẹ và em cũng sẽ trở thành những con người khốn
khổ vừa rồi đã ngửa tay nhận của bố thí của thiên
hạ.
Sinh
vẫn cúi gầm mặt với mặc cảm mỗi lời nói, mỗi
tiếng khóc của người yêu đều nhắm thẳng vào mình.
Cậu im lặng như một tội nhân trước vành móng ngựa,
cúi đầu nghe những lời buộc tội của lương tâm nhân
loại. Mặt cậu nóng bừng bừng, toàn thân như bị ngọn
lửa hỏa ngục đang từ từ đến bao phủ. Một hồi lâu,
cậu ngẩng lên và nói lời tạm biệt với người yêu.
Trang
Đài tiễn Sinh ra cổng. Nàng dừng lại, chờ người yêu
hôn tay tạm biệt. Nhưng Sinh vẫn đứng yên. Nàng mở
cổng, đợi Sinh đi khuất mới đóng lại và vào nhà.
Sinh
cho xe vọt tới. Cậu rú ga, phóng như điên cuồng. Cậu
lách qua, lách lại giữa dòng người và xe cộ trên đường,
nghe có nhiều tiếng chửi thề rớt lại phía sau. Phía
trước mặt là một ngã tư, đèn vàng rồi đèn đỏ bật
lên. Mặc kệ, Sinh bóp kèn inh ỏi, vọt qua đường. Có
tiếng bánh xe thắng két trên mặt nhựa, có tiếng la ơi
ới, có tiếng chửi thề tục tĩu, Sinh nhấn thêm ga,
thẳng về nhà.
Cậu
vội vàng mở cổng rồi mở cửa, dắt xe vào và để
nguyên áo quần nằm vật ra giường. Căn phòng quen thuộc
sao trở nên trống trải, mọi thứ đều hóa mông lung xa
xăm. Mắt Sinh nhìn trân trối lên trần nhà, tưởng như
có một khoảng không gian vô định đang tách xa cậu với
mọi thứ. Cậu cố gắng tập trung vào một cái gì đó
để giữ mình lại, nhưng khoảng không gian xám xịt cứ
hiện ra chập chờn bao phủ mọi vật.
Văng
vẳng bên tai Sinh lời nói của nàng: trong
khối nhân dân miền Nam sẽ có một số cũng hân hoan vì
họ đã hùa theo với cộng sản và tự cho mình là kẻ
chiến thắng. Anh Sinh, em sẵn tính không ưa kẻ chiến
thắng, riêng kẻ chiến thắng ngày hôm nay thì càng đáng
ghét hơn nữa. Họ là những người vô nhân đạo.
Vô
nhân đạo. Vô nhân đạo...
Nỗi
đau đớn lại nổi lên cấu xé tấm lòng đang tả tơi
của cậu. Sinh nhắm mắt bịt tai lại, cố gắng xua đuổi
hình bóng thân yêu của Trang Đài. Nhưng những hình ảnh
khác lại tràn vào căn phòng như những bóng ma. Người mẹ
ôm xác con khóc thảm bên đường. Những đứa trẻ côi
cút ngồi co ro trong góc phòng... Vô nhân đạo. Vô nhân
đạo...
Đến
hai giờ trưa, cậu mới lảo đảo bò dậy ra cổng lấy
xách cơm vào. Thức ăn đã nguội lạnh, Sinh không thấy
ngon miệng nhưng cố nuốt hết ba chén cơm như thường
lệ. Tất cả cơm và thức ăn thừa được đổ vào cái
tô và mang ra cho con chó Tăng ăn.
Sau
đó, cậu xuống bếp, vào nhà tắm, cởi áo quần ra và
dội nước ào ào. Nước mát làm tinh thần Sinh dịu lại..
Cậu mang xách đựng cơm ra treo vào cửa cổng, thò tay ra
ngoài bấm ổ khóa, vào nhà đóng cửa trước lại. Nếu
bây giờ có ai đến kêu cửa, cậu sẽ không ra mở, họ
sẽ bỏ đi vì tưởng nhà vắng chủ.
Trên
bàn học đám sách vở còn nằm ngổn ngang, bỗng Sinh nghe
nhói trong tim. Kể từ hôm nay, cậu phải giã từ mọi thứ
thân thuộc, giã từ sự học, giã từ những thói quen
hằng ngày để nhận lấy một cái gì đó, không phải là
sự vinh quang của kẻ chiến thắng mà là điều rất xa
lạ và chắc chắn chẳng tốt đẹp tí nào.
Cậu
lặng lẽ xếp tất cả sách vở của chứng chỉ đang
theo, thành hai chồng, lấy dây cột kỹ lại và cất vào
ngăn sách. Những tờ báo Tin sáng, vừa cũ vừa mới rải
rác khắp nơi trên nền nhà cũng bị cột thành một bó
to tướng, rồi đem quăng xuống hố rác. Riêng cái máy
thu thanh được đặt lên bàn thờ, phía sau bình hoa.
Mặt
trời đã khuất nhưng ánh nắng còn nhuộm vàng những đám
mây rực rỡ trên bầu trời. Sinh đoán chừng người mang
cơm tháng đã đến thay xách cơm treo ngoài cổng. Quả
đúng như vậy. Trời đã nhá nhem tối; cậu bật sáng
đèn trước sân rồi ra ngồi trên bậc thềm ăn cơm.
Ngồi
một lúc khá lâu, cảm thấy mỏi mệt nên cậu vào nhà,
đóng cửa cẩn thận, lấy một quyển truyện ngăn trên
kệ sách và chui vào giường nằm đọc. Đến nửa chừng
tuyện ngắn thứ hai, mí mắt Sinh đã sụp xuống.
Tiếng
chim hót bên khung cửa sổ đánh thức Sinh dậy. Trời đã
sáng rõ. Một ngày mới xa lạ bắt đầu. Một ngày không
đến trường. Một ngày chỉ có chương trình viếng thăm
mộ mẹ. Sinh chạy đến tiệm ăn, điểm tâm xong thì
thẳng ra nghĩa địa. Nén nhang đốt trước mộ mẹ tỏa
khói hương u buồn. Mấy tháng nắng vừa qua làm cho lớp
cỏ phủ trên mộ khô héo thêm phần ảm đạm. Sinh ngồi
xuống hì hục nhổ cỏ, mới được có một khuỷnh nhỏ
mà nắng đã lên cao làm mồ hôi đổ ra dán vải áo vào
lưng. Chỗ cỏ còn lại e phải năm ngày mới nhổ xong
hết. Bây giờ Sinh có quá nhiều thời gian, sau năm ngày
nhổ cỏ chắc Sinh cũng sẽ nghĩ ra được việc gì khác.
Sinh quét sạch chỗ nền đất rồi lên xe về nhà.
Một
ngày bình thản trôi qua; các ngày sau cũng bình thản trôi
qua trong sự cô lập hoàn toàn từ thể chất lẫn tinh
thần của người thanh niên tưởng rằng mình đã thoát
ra khỏi sự đau khổ và tìm được sự bình an của tâm
hồn.
Tuy
nhiên, Sinh đã lầm. Sự bình an đó là giả tạo nên hết
sức mỏng manh, sau một tuần lễ là nó lung lay.
Hôm
ấy, Sinh giật mình tỉnh giấc khi trời còn khuya. Cậu cố
ngủ lại mà không được. Hình bóng Trang Đài hiện ra
làm cậu xót xa. Đúng một tuần rồi, cậu không đến
thăm nàng. Nàng làm gì trong suốt tuần lễ vừa rồi?
Nàng vẫn vui vẻ hồn nhiên hay buồn bã nhớ nhung?
Vài
con vạc đi ăn đêm trở về, bay ngang qua kêu quang quác,
buồn tênh.
Sinh
ngồi dậy, nhìn ra sân qua khung cửa sổ. Ánh trăng hạ
tuần đang ở đỉnh đầu. Những cây cao in một bóng đen
tròn chung quanh gốc. Vài con dơi bay chập choạng trong ánh
sáng lờ mờ. Chúng bay sát bên cửa sổ, Sinh nghe tiếng
cánh đập phành phạch một cách êm ái. Cậu ngước mắt
nhìn lên bầu trời, một mảnh trời be bé bị giới hạn
bởi mái nhà và những tàn cây đen ngòm. Trong mảnh trời
ấy, Sinh không nhìn thấy mặt trăng. Những vì sao mờ
nhạt đang cố nhấp nháy để thu nhận những hình ảnh
cuối cùng của Hòn Ngọc Viễn Đông trong cơn hấp hối.
Cậu
nằm xuống, mở đèn, lấy sách ra đọc. Những hàng chữ
nhạt phèo. Cậu quăng sách, nằm nhìn trần mùng. Khoảng
không gian bên trên lại bắt đầu trở nên xám xịt và
xa dần. Sinh hoảng sợ đưa tay tắt đèn.
Trong
giấc ngủ gắng gượng đêm đó, Sinh mơ thấy nàng giữa
quang cảnh khói lửa mịt mùng.
Ánh
sáng chiếu vào làm Sinh tỉnh giấc. Đồng hồ chỉ bảy
giờ sáng. Cậu bước xuống giường, mở cửa ra sân.
Không khí trong lành của buổi ban mai làm cậu cảm thấy
thơ thới.
Sáng
nay cậu sẽ làm gì? Cỏ trên mộ mẹ nhổ xong cả rồi.
Ngôi mộ đã phẳng phiu sạch sẽ. Tuy nhiên, mùa mưa sắp
đến trong nay mai. Những hạt mưa to sẽ lôi đi những hạt
đất của cái chung cư của mẹ. Vì vậy, sáng nay Sinh sẽ
mua một trăm viên gạch, nửa bao xi măng, một ít cát và
một cái bay. Cậu sẽ xây một viền gạch chung quanh, sát
với chân mộ. Chắc chắn, viền gạch nầy rất xấu xí
so với những ngôi mộ xây chung quanh, nhưng Sinh biết rằng
mẹ rất hài lòng. Tính bà xưa kia vẫn thường hài lòng
về đứa con của mình.
Lòng
thuơng của mẹ đối với Sinh thì vô cùng vô tận. Sau
khi bà mất đi vài năm, chỗ trống tình cảm trong lòng đã
được tình yêu của một người con gái lấp đầy. Nàng
thực kiều diễm, thông minh và cực kỳ dịu dàng. Bây
giờ, nàng đang làm gì ở nhà? Nàng có ra ngồi trên băng
đá, dưới gốc cây bàng hay không? Nàng có nhớ đến
người yêu hay không?
Sinh
buồn bã đi vào nhà sau rửa mặt. Cậu đứng chải đầu
thực cẩn thận để tiêu mất bớt thời gian. Cậu lên
mở tủ, chọn bộ áo quần đẹp mặc vào và đứng trước
gương soi. Nhìn hình mình bảnh bao trong kính, Sinh xót xa
cho thói quen của mình mỗi khi nghĩ đến nàng. Hôm nay cậu
đi xây mộ mẹ chứ đâu phải đi thăm nàng! Đi làm thợ
hồ mà ăn mặc như công tử đi dạo phố vậy sao? Sinh
mỉm cười một cách buồn bã. Cậu đứng lên giường,
đóng cửa sổ lại và chuẩn bị đi ra mộ.
Bỗng
con chó Tăng hực một tiếng rồi lao ra cổng, sủa inh ỏi.
Sinh nhìn ra, sững sờ.
Ngay
giữa cổng có một tà áo dài xanh! Cả bầu trời vụt
sáng lên trong ánh dịu dàng màu xanh của áo. Một gương
mặt cực kỳ diễm lệ xuất hiện bên trên thanh gỗ
ngang của cánh cửa cổng. Đôi mắt bồ câu đen lay láy
chăm chú nhìn vào.
Trang
Đài!
Sinh
chạy vội ra cổng, tay chụp lấy ổ khóa. Quên lấy chìa
khóa. Cậu chạy lộn vào vớ cái chìa trên bàn và chạy
trở ra, đút chìa vào ổ khóa,vặn mạnh. Không ra. Cậu
nhìn kỹ, lấy nhầm chìa khóa xe Honda.
Lại chạy vào rồi chạy ra, cắm chìa vào ổ, lại vặn
mạnh, lần nầy thì ống khóa bật ra, cậu hấp tấp kéo
mạnh cánh cổng vào trong. Cậu đứng im nhìn người yêu,
giọng run run nghẹn ngào:
-
Trang Đài em.
Nàng
nhìn Sinh một cách thực buồn bã:
-
Anh Sinh, em đến tìm anh.
Sinh
lắp bắp:
-
Trang Đài, Trang Đài, em vào đi, anh mời em vào nhà anh.
Đưa xe cho anh.
Sinh
vói tay khép cổng rồi lẽo đẽo đẩy xe theo sau tà áo
dài. Từ cổng vào nhà chỉ một khoảng ngắn mà nàng
quay lui nhìn Sinh đến ba lần. Nàng dừng lại trước hiên
nhà, nhìn vào bên trong. Sinh dẫn xe dựng bên hè rồi trở
ra trước. Nàng vẫn đứng yên đó, bất động như tượng
thần vệ nữ.
Sinh
nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch. Cậu bước tới
cầm bàn tay mềm mại của nàng dẫn vào nhà. Cậu buông
tay nàng, đi vòng sau lưng kéo ghế và chờ đợi nàng ngồi
xuống.
Trang
Đài không ngồi mà quay lại nhìn Sinh, đôi mắt như ngây
như dại. Sinh bước tới một bước, hai thân mình lao vào
nhau. Tấm thân mềm mại run rẩy của nàng áp sát vào
Sinh. Hai bàn tay nàng bấu chặt lên lưng Sinh như sợ chàng
biến mất. Sinh cúi xuống dúi mặt mình vào mái tóc thơm
tho. Bàn tay lùa vào mái tóc, vuốt ve cổ nàng, vai nàng,
khuôn mặt nàng.
-
Em, em...
Sinh
thì thào mê dại.
Gương
mặt nàng hiện ra lồ lộ, xóa bỏ tất cả nỗi ám ảnh.
Mắt nhắm nghiền, đôi môi mời mọc đam mê. Sinh cúi
xuống hôn như điên cuồng vào đôi mắt. Đôi môi Sinh
lướt qua khuôn mặt và dừng lại trên đôi môi mềm mại.
Cậu từ từ áp môi mình vào hai cánh hoa hồng kiều diễm
đó, tham lam đè xuống mỗi lúc một mạnh thêm. Một cảm
giác cực kỳ nồng nàn và đê mê từ hai cánh hoa hồng
đó lan tỏa khắp người. Cả hai thân mình càng hối hả
áp chặt vào nhau.
Sinh
cảm thấy một bàn tay nơi lưng mình buông ra và sờ soạn
tìm bàn tay mình. Tấm thân mềm mại nhích ra một chút,
khẽ nghiêng lại và cầm bàn tay cậu áp lên bộ ngực no
tròn. Sinh bấu mạnh vào nơi nhô cao của bộ ngực. Thân
mình nàng co quắp lại. Trong lòng cậu một cơn thèm muốn
tột cùng bùng nổ. Sinh lần tay vào hàng nút áo hối hả
cởi từng chiếc một. Một làn da trắng mịn màng hiện
ra, cậu áp mạnh môi mình lên làn da đó. Sự thèm thuồng
trong người càng gia tăng dữ dội. Sinh cúi xuống nâng
bổng nàng lên, đặt nhẹ nhàng trên chiếc phản gỗ. Cậu
cởi phăng những hột nút còn lại, kéo mạnh vạt áo dài
sang một bên. Chiếc cổ trắng ngần giữa hai bờ vai trần
tròn lẳng. Phía dưới, làn da mịn màng hiện lờ mờ qua
lớp vải mỏng của chiếc áo lót, ở đó đường cong
tuyệt mỹ của hai chỗ nhô cao còn được che kín bởi
lớp nịt vú trắng phau. Sinh đưa tay lên vai nàng kéo cái
giải chiếc áo lót xuống thì nghe tiếng thì thào run rẩy:
-
Anh Sinh, đóng cửa lại.
Sinh
ngạc nhiên nhìn mặt người yêu. Đôi mắt nàng nhắm
nghiền, đôi môi mấp máy. Sinh nhìn ra ngoài, cánh cửa
vẫn mở to, ánh sáng bên ngoài lùa vào lóa mắt. Cậu
đứng phắt dậy, bước ra kéo mạnh cánh cửa đóng lại.
Con chó Tăng từ đâu phóng tới, húc đầu vô cửa, mừng
rỡ kêu ẳng ẳng. Sinh suỵt nhỏ đuổi nó đi rồi loay
hoay cài chốt cửa.
Khi
Sinh quay vào, Trang Đài vẫn còn nằm đó. Dưới ánh sáng
dịu dàng xuyên qua từ những lỗ thông bên trên, cậu
thấy trên tấm phản gỗ thô kệch nhà mình một khối
bạch ngọc long lanh, một thân thể trắng ngần và tinh
khiết. Mắt nàng bỗng mở ra thảng thốt nhìn Sinh. Ánh
mắt của nàng làm Sinh chết sững. Sự ham muốn của Sinh
đột ngột lắng xuống, chìm vào một tình yêu thương
dịu dàng.
Sinh
vội vã bước lại, khom mình kéo vạt áo dài xanh phủ
lên thân thể người yêu, chậm rãi cài từng hạt nút.
Từ khóe mắt Trang Đài, hai giọt nước mắt ứa ra làm
lòng Sinh thêm hối hận. Bỗng nhiên, Sinh có cảm tưởng
mình là một tên phàm phu tục tử vừa xâm phạm một
cách thô bỉ vào một thứ vô cùng quý giá của tạo hóa.
Cậu lùi lại, thụt dần cho đến cửa. Khi Sinh mở cửa
bước ra ngoài, hít một hơi dài, tâm hồn cậu đã bắt
đầu lắng dịu. Cậu ngồi xuống chiếc ghế dài ở hàng
hiên, nhìn bầu trời xanh có những gợn mây trắng lững
lờ trôi. Ánh nắng ban mai rực rỡ chiếu vào những vòm
lá, nơi có tiếng chim hót líu lo vọng xuống.
Tiếng
bước chân se sẽ vang lên phía sau. Trang Đài ngập ngừng
vén áo dài ngồi xuống ghế. Giọng nàng thỏ thẻ thực
dễ thương:
-
Anh Sinh, em cám ơn anh.
Sinh
nhìn qua, âu yếm nói:
-
Không, anh thực là hồ đồ.
Nàng
khép mắt lại, nói qua hơi thở:
-
Anh Sinh, hôn em lần nữa đi.
Sinh
nhìn ra cổng, giọng ngập ngừng:
-
Mình vào nhà đi.
-
Không, em sợ trong đó lắm. Ngồi đây thôi. Ai nhìn thấy
mặc họ. Nhanh lên, hôn em đi.
Sinh
choàng tay ôm lưng người yêu, cúi xuống hôn vào đôi môi
mọng đỏ của nàng một cách nhẹ nhàng và say đắm,
lòng tràn ngập một niềm hân hoan và hạnh phúc vô biên.
Sinh
ngẩng đầu dậy, đỡ Trang Đài ngồi ngay ngắn. Cậu
quay qua hỏi nàng bằng một giọng nghiêm trang:
-
Tại sao khi nãy em làm như vậy?
-
Anh khoan hỏi đã. Tí nữa em sẽ nói cho anh nghe. Bây giờ
cho em hưởng vài giây phút hạnh phúc bên anh.
-
Nhưng tại sao lúc đầu em buông thả hoàn toàn cho anh rồi
bây giờ em lại bảo sợ vào trong đó? Em có biết rằng
em vừa thoát khỏi sự nguy hiểm trong đường tơ kẽ tóc
không?
Nàng
cúi đầu đáp nhỏ nhẹ:
-
Em biết. Tâm lý con người cũng lạ. Khi chưa bị nguy
hiểm, người ta xông vào và chấp nhận hiểm nguy. Nhưng
khi thoát ra được sự hiểm nguy rồi thì người ta đâm
ra sợ hãi và không bao giờ dám trở lại nữa.
Sinh
thở dài:
-
Thôi em không muốn vào nhà thì thôi. Mình xích lại đầu
hiên nhà ngồi ngoài trời. Ở đó kín đáo hơn. Anh chỉ
ngại cho em thôi.
Trang
Đài ngoan ngoãn làm theo lời người yêu. Nàng ngồi xuống,
vẫn tựa đầu vào vai Sinh. Bỗng nàng ôm chặt lấy người
yêu, úp mặt vào ngực, òa lên khóc nức nở. Giọng nàng
đứt khúc qua tiếng nấc:
-
Anh Sinh, em sắp xa anh mãi mãi rồi.
Sinh
hoảng hốt nhưng cậu bậm môi cố ngồi yên để Trang
Đài tiếp tục úp mặt khóc rấm rứt. Vài phút sau, tiếng
khóc nhỏ dần rồi ngưng hẳn. Sinh nghe nàng nói, giọng
nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng:
-
Anh Sinh, cho em mượn khăn lau nước mắt.
Sinh
móc túi quần lôi ra chiếc khăn mà cậu vừa lấy từ tủ
sáng nay. Cậu trao khăn cho Trang Đài nhưng nàng bảo:
-
Anh lau mắt cho em đi.
Sinh
nâng đầu nàng dậy. Mặt nàng nhòe nhoẹt nước mắt.
Cậu nhẹ nhàng lau khô gương mặt mỹ miều của người
yêu. Trang Đài ngồi thẳng dậy, giọng trở nên bình
tĩnh:
-
Chiều hôm qua, ba em về, bảo cả nhà chuẩn bị gói ghém
những món quý giá và nhẹ, trưa mai, tức là hôm nay, theo
đơn vị lên máy bay sang Mỹ. Ba dặn đừng đem đồ nhiều
vì ba có nhiệm vụ đem cả một núi hồ sơ mật của an
ninh quân đội. Ba mẹ con và dì Tư làm đến tận khuya
mới tạm xong. Đêm rồi. em chỉ ngủ được rất ít.
Suốt tuần rồi, anh không đến, em bồn chồn như sống
trong địa ngục. Đêm rồi là địa ngục của địa ngục
trên trần gian. Em nằm thao thức nhớ anh, đến sáng, cái
gối ướt đẫm nước mắt.
Nàng
lại gục vào vai Sinh khóc rấm rứt. Giọng nàng nghẹn
ngào:
-
Em sắp xa anh, xa anh mãi mãi. Suốt đêm, em suy nghĩ hoài,
không biết tặng anh vật gì làm kỷ niệm cho tình yêu
của chúng mình. Sau cùng em quyết định tặng anh đời
con gái của em.
Nàng
khóc òa:
-
Em không ngờ anh không nỡ nhận món quà nầy vì quá yêu
thương và quý trọng em. Khi em nhận ra được tất cả
giá trị của tình yêu của anh đối với em thì em không
còn được gần gũi anh nữa.
Nàng
lặng im, không khóc cũng không nói. Sinh tưởng nàng quá
xúc động mà ngất đi. Cậu hoảng hốt ôm chặt nàng gọi
rối rít:
-
Trang Đài, Trang Đài, em bình tĩnh lại.
Nàng
mở mắt ra, giọng thều thào:
-
Không, em không sao cả. Em đang cố gắng để nói hết
chuyện với anh. Đây là lần cuối cũng. Mình không còn
nhiều thì giờ nữa. Anh lau thực khô nước mắt cho em
đi. Em hứa không khóc nữa.
Nàng
ngồi thẳng dậy, đưa mặt cho Sinh lau nước mắt, giọng
trở nên trong trẻo rõ ràng:
-
Đời người con gái một lần được anh yêu là đủ rồi.
Ngay bây giờ, nếu anh còn thèm muốn thân thể em thì em
cũng sẵn sàng hiến dâng cho anh.
Sinh
sửng sốt nhìn đăm đăm vào mắt Trang Đài. Đôi mắt
ráo hoảnh và trầm tĩnh, không gợn chút đam mê. Sinh hiểu
rằng lời nói vừa rồi của nàng xuất phát từ con tim
nhưng cũng có phần nào lý trí chen vào. Sinh thở dài,
siết chặt người yêu và hôn nhẹ vào môi nàng rồi đỡ
nàng ngồi ngay ngắn lại. Trang Đài nói tiếp, giọng vẫn
bình tĩnh:
-
Trước đây em cứ tưởng tình yêu nào rồi cũng đi đến
hành động đam mê và thô bạo của người con trai.
Sinh
lại sửng sốt:
-
Ai nói với em như vậy?
-
Em đọc sách. Nhưng tình yêu của anh lại khác.
Sinh
ngắt lời:
-
Nhưng nếu khi nãy anh cũng thô bạo với em thì em còn yêu
anh không?
-
Chắc chắn là còn và có thể vẫn muốn anh thô bạo nếu
lại gặp hoàn cảnh cám dỗ. Tuy nhiên lúc đó tình yêu
sẽ khác hẳn tình yêu bây giờ trong tim em.
Nàng
ngừng một chút rồi nắm bàn tay Sinh áp giữa hai bàn tay
mình, giọng trở nên buồn thảm:
-
Có lẽ sau nầy em cũng phải có chồng để sinh cho mẹ
một đứa cháu ngoại. Đó là nghĩa vụ của em phải đền
đáp công ơn sinh thành. Niềm ao ước lớn nhất của mẹ
là được bế cháu ngoại trên tay. Nếu em không làm được
thì có lẽ bà sẽ đau khổ cho đến khi nhắm mắt. Nhưng
em sẽ chỉ làm nghĩa vụ một lần thôi. Sau đó, em dành
cả quãng đời còn lại để sống với những kỷ niệm
trong sân trường Đại học Khoa học của chúng mình.
Sinh
không nói được lời nào cả vì cậu cảm thấy toàn
thân tê dại đi vì ý nghĩ phải xa người yêu. Giọng
nàng lại tiếp tục một cách thê lương:
-
Sau nầy, ở một nơi xa xôi nào đó, đêm đêm em sẽ nhìn
lên bầu trời về hướng Việt Nam. Em sẽ tìm một vì
sao thực đẹp, thực hiền hòa để anh và em sẽ cùng lên
sống trên đó. Chỉ có hai đứa mình thôi; không có một
nhân dân nào khác để họ xách súng đến giải phóng.
Chỉ có anh và em thôi để không có người chiến thắng
đáng ghét và kẻ chiến bại đáng thương.
Trang
Đài đứng dậy, vuốt tà áo dài. Sinh chực đứng dậy
theo nhưng nàng đặt tay lên vai, ấn cậu ngồi yên trên
ghế. Nàng nói:
-
Bây giờ, em phải về cho kịp. Nếu xe tới mà thấy mất
em thì mẹ sẽ đập đầu vào tường mà chết. Anh Sinh,
anh ngẩng mặt lên đi, em hôn anh lần cuối cùng.
Nàng
cúi xuống và hôn vào môi Sinh, một nụ hôn dài và say
đắm. Khi nàng ngửng đầu dậy, Sinh nghe có hai giọt nước
mắt rơi trên má mình. Sinh bật dậy theo, giọng lạc hẳn
đi:
-
Anh phải đến nhà em để tiễn em ngay bây giờ.
Nàng
cầm tay Sinh lắc nhẹ:
-
Đừng, anh yêu. Anh đừng đến đó, vì khi thấy anh, em có
thể nhảy xuống xe chạy theo anh. Chắc chắn, mẹ sẽ đập
đầu xuống đường mà chết. Em van xin anh. Anh hãy chiều
em một lần, một lần nầy nữa thôi. Vĩnh
biệt anh.
Nàng
bước đến hè nhà để lấy xe. Sinh đi theo như người
mất hồn. Khi nàng ra đến cổng, cậu vẫn đứng tần
ngần nhìn nàng đăm đăm, quên cả mở cánh cửa. Trang
Đài phải tự tay mở chốt kéo cửa và dẫn xe ra. Nàng
vén vạt áo dài, ngồi lên xe, đạp nổ máy. Cặp mắt
đen ướt đẫm quay nhìn người yêu lần cuối. Chiếc xe
lăn bánh từ từ, tà áo xanh biến mất sau khúc quanh, Sinh
vẫn đứng yên như pho tượng, nhìn theo mãi với cặp mắt
thất thần. Một lúc lâu, cậu rên rỉ:
-
Trang Đài, Trang Đài, em bỏ anh mà đi sao? Anh không bao giờ
còn gặp em nữa sao?
Cậu
thất thểu trở vào nhà, để nguyên quần áo, nằm vật
ra giường. Hương thơm ngào ngạt của người con gái còn
để lại nơi đây. Sinh nhắm mắt lại, nằm yên bất
động, mặc cho thời gian đi qua.
Có
tiếng cào sột sột ở chân giường. Sinh nhỏm dậy nhìn
xuống. Con chó Tăng đang đòi ăn. Đồng hồ chỉ một giờ
rưỡi trưa. Nàng đã lên xe chưa? Cậu nuốt vội những
giọt nước mắt chưa kịp trào ra.
Sinh
bước ra cửa, suýt đựng phải xách cơm treo ở cái đinh
bên ngoài khung cửa. Sinh chợt nhớ, lúc tiễn Trang Đài
đi xong, cậu vào quên đóng cửa. Người đưa cơm đã
mang tận vào nhà, con chó Tăng đã quen hơi nên không sủa.
Sinh ra gài cổng lại rồi vào mở xách cơm định đổ cả
vào chiếc tô của con Tăng. Thấy chiếc tô nhỏ quá, cậu
xuống bếp lấy cái thau đổ tất cả cơm và thức ăn
vào đó và đưa đến mõm con chó. Nó sung sướng nằm
xuống vẫy đuôi, cắm mõm vào thau cơm. Bàn tay Sinh lơ
đãng vuốt ve tấm lưng con chó. Mắt Sinh nhìn bất động
về hướng chiếc đồng hồ. Một giờ bốn mươi phút.
Một giờ bốn mươi chín phút. Một giờ năm mươi lăm
phút. Nàng đã lên xe chưa? Tiếng la đau đớn đột ngột
thoát khỏi cổ họng cậu:
-
Đi, ta phải đến đó gặp Trang Đài.
Cậu
chạy xuống bếp, chụp lấy chiếc xe. Tiếng nói thanh
thoát đau buồn vang lên bên tai:
-
Em van xin anh. Anh hãy
chiều em một lần, một lần nầy nữa thôi. Vĩnh biệt
anh.
Hai
giọt nước mắt từ từ lăn xuống má. Sinh trở lại nhà
trên, cởi áo quần, chỉ mặc chiếc quần cụt. Cậu rút
sợi dây nịt ra, leo lên giường, cột một chân mình vào
thanh sắt chắn ở cuối giường và nằm nhắm mắt lại
cố dỗ giấc ngủ. Sự xáo động mãnh liệt vừa qua làm
cho Sinh kiệt sức, cậu chìm sâu vào giấc ngủ nặng nề.
Khi
Sinh giật mình thức giấc, trời đã sắp tối. Ráng vàng
chỉ còn hiu hắt bên hè. Sáu giờ năm mươi phút. Cậu
vùng dậy, chân bị vướng vào thành giường đau nhói.
Hóa ra là sợi dây nịt vẫn còn trói Sinh vào thành
giường. Sinh cúi mở sợi dây nịt, lôi chân ra và lảo
đảo bước xuống giường.
Bây
giờ, không còn một sức mạnh lý trí nào có thể giữ
Sinh lại. Cậu vội vã mặc áo quần vào rồi đẩy xe ra
cổng, phóng chạy qua nhiều con đường đã lên đèn rồi
cuối cùng dừng lại trước nhà người yêu. Quang cảnh
bên trong tối om vắng lặng. Sinh bước xuống xe, đến
nhấn chuông, lắng tai nghe. Bên trong vẫn tuyệt đối yên
tĩnh, không có tiếng chuông reo. Sinh úp mặt vào cánh cổng
một lúc, rồi lùi lại, rên rỉ:
-
Trang Đài đã đi rồi. Ta đã mất em vĩnh viễn, ta không
bao giờ còn nhìn thấy em trong ngôi nhà thân yêu nầy nữa.
Cậu
thất thểu lên xe và trở về nhà.
Đêm
đó cậu ngủ rất ít. Con Tăng nhiều lần thức giấc vì
những tiếng động trong phòng. Sáng ra, cậu thấy cơ thể
bải hoải, đầu nhức tăng tăng. Viên thuốc giảm đau
không làm cậu lấy lại sinh khí, chỉ làm đầu óc Sinh
thêm u mê.
Đến
hơn tám giờ, cậu vào thay áo quần rồi đẩy xe ra cổng.
Chiếc xe như ngựa quen đường cũ, chở cậu đến đường
Cao Thắng và dừng lại trước ngôi biệt thự thân yêu.
Cửa cổng vẫn đóng im ỉm. Phía trên cao có sợi kẽm
cột hai cánh cổng vào nhau. Sinh với tay lên không tới,
nên đẩy xe Honda
dựng sát cổng và leo lên. Vòng kẽm gai có vẻ như chỉ
được buộc hờ trong lúc vội vã. Sinh leo xuống và đẩy
thử. Cánh cổng chầm chậm mở ra.
Căn
nhà vắng chủ buồn tênh. Không một nét xáo trộn nào
cả. Phòng khách vẫn y nguyên, nhưng đồ vật trong chiếc
tủ thấp biến mất, hai khung ảnh treo trên vách cũng
không còn. Sinh lại ngồi trên băng đá dưới bóng mát
cây bàng, nhìn vào nhà một cách sầu thảm. Ở cánh cửa
thông kia, Trang Đài đã xuất hiện trong bộ áo quần màu
hồng có viền trắng, nhìn cậu với nét mặt tươi cười,
xinh đẹp như tiên nga. Nàng từ từ bước ra ngồi trên
băng đá đối diện với Sinh. Không, nàng không ngồi đây
mà đứng yên ở cửa phòng khách, nhìn Sinh như trêu chọc.
Sinh vụt đứng dậy, phóng lại úp mặt vào cửa kiếng,
trố mắt nhìn vào. Vắng lặng, vắng lặng, hoàn toàn
vắng lặng! Chỉ có tiếng xe chạy ngoài đường Cao thắng
vọng vào, nghe xa lắc xa lơ. Cậu sụm xuống, úp mặt vào
nền đất, nơi bước chân nàng đã đi qua nhiều lần
trước kia.
Mãi
khi nắng lên gay gắt, Sinh mới lảo đảo đứng dậy.
Tiếng cười khúc khích nhẹ nhàng của nàng vang lên đâu
đó, trong những lần chia tay giờ đã xa lắc. Sinh mở
cổng, đẩy xe ra đường, leo lên cột sợi dây kẽm như
cũ.
Ý
nghĩ miên man kéo Sinh chạy thẳng về trường Đại học
Khoa học. Trường vắng vẻ như đang giữa mùa hè. Sinh
dừng xe trước cổng, đúng vào nơi mà cậu đã sửa xe
cho Trang Đài trước đây. Hai cánh cửa cổng khép kín
nhưng không khóa, chỉ gài chốt bên trong. Sinh thò tay vào
mở chốt, đẩy cửa ra, dẫn xe vào. Cậu khóa xe, bước
qua dãy lầu bên, leo cầu thang lên phòng thí nghiệm thực
vật rồi phòng động vật. Mỗi nơi, cậu dừng lại một
chút rồi quay xuống.
Sinh
thẩn thơ đẩy xe ra cổng, chạy đến đầu đường Lý
Thái Tổ. May quá, cái quán giải khát vẫn mở cửa nhưng
không có khách nào. Đằng kia là góc quán, là cái bàn
nhỏ, nơi cậu đã tỏ tình cùng nàng. Sinh ngồi đối
diện cái ghế trống không, run run gọi hai chai nước
ngọt. Chị chủ quán ngạc nhiên nhưng cũng vẫn bưng ra
hai ly nước đá và hai chai nước ngọt khui xong. Sinh trả
tiền trước, chậm rãi rót nước ra ly. Một ly cho cậu,
một ly cho nàng. Hơi lạnh đóng quanh thành ly bắt đầu
chảy xuống mặt bàn. Từng dòng. Từng dòng. Cậu ngồi
bất động nhìn sững cái ly đối diện, cho đến khi nước
đá trong ly tan chảy hết. Khi Sinh đứng dậy, cậu vẫn
không ý thức được hành động của mình. Đôi chân tự
động đưa Sinh bước ra khỏi quán. Chị chủ quán lắc
đầu nhìn theo, Sài gòn những ngày này có quá nhiều
chuyện bi thương.
Sinh
lại leo lên xe, chạy về trung tâm Sài gòn, vòng qua đường
Lê Thánh Tôn, đến trước rạp hát Lê Lợi. Rạp đóng
cửa, không chiếu phim. Cậu chạy xe đến tiệm kem đầu
đường, khóa xe, bước vào tìm đúng cái bàn, cái ghế
của ngày nào. Cậu kêu hai ly kem và trả tiền ngay. Hai ly
kem rồi cũng tan chảy hết dưới ánh nắng chiều hanh
hao.
-
Anh Sinh, nếu một ngày nào đó, anh không còn yêu em nữa
thì chuyện gì sẽ xảy ra…
-
Anh Sinh, em không hiểu sao, bóng tối vẫn làm em lo sợ…
-
Anh Sinh, theo em thì kẻ chiến thắng rất đáng ghét. Em
không hiểu tại sao , nhưng em không thể nào thương họ
được…
-
Anh Sinh…, anh Sinh…, anh Sinh….
Sinh
lấy khăn chặm vào mắt và vội vàng bước ra khỏi quán.
Khi
mặt trời xế bóng thì cậu về tới nhà. Thấy hai xách
cơm treo ở cửa cổng, cậu sực nhớ là hơn một ngày
rưỡi rồi chưa có một thứ gì vào bụng. Bây giờ cậu
mới thấy đói lả người. Con chó Tăng rên rỉ, cuống
quýt cào lên bắp chân chủ. Sinh dỡ cơm ra chia cho con
chó. Cả nó và Sinh đều cắm cúi ăn ngon lành. Ăn xong,
cậu thấy trong người hơi dễ chịu. Cậu bắt ghế ra
ngồi dưới bóng cây, nhìn ra đường, mặt buồn hiu. Khi
mặt trời ngã hẳn về Tây, Sinh xách cuốc ra vườn làm
cỏ. Buổi tối lặng lẽ đi qua, giấc ngủ tìm đến với
những cơn mơ, khi thì hung dữ, khi thực hiền hòa.
Sáng
hôm sau thức dậy, Sinh cảm thấy khá khỏe khoắn. Khi đi
ra đường để tìm chỗ điểm tâm, cậu nhận thấy không
khí khác thường. Hầu hết cửa tiệm đều đóng cửa,
đường thưa thớt người đi, dù đang giờ đến sở làm.
Cậu phải chạy khá xa mới mua được một ổ bánh mì,
mang về nhà ngồi gặm.
Có
bóng người thấp thoáng ngoài cổng làm con chó Tăng nhảy
xổ ra sủa inh ỏi. Cậu ngạc nhiên bước ra nhìn người
mới đến. Đó là một đứa bé độ mười ba tuổi, một
chiếc xe đạp dựng kế bên. Nó vịn cánh cổng, dáo dác
nhìn vào. Khi thấy Sinh, nó hỏi to:
-
Đây có phải nhà ông Sinh không?
-
Phải rồi, tôi là Sinh đây. Có việc gì vậy?
-
Chú có một cái thơ.
Nó
móc túi lấy bao thư gấp làm đôi, nhầu nát. Nó trao thư
cho Sinh, nói như phân trần:
-
Đáng lẽ cháu đưa tới lâu rồi mà không mượn được
xe đạp. Chú thông cảm.
-
Được rồi, cám ơn em.
Sinh
vội vã vào nhà, xé bao thư, rút tờ giấy gấp đôi, chăm
chú đọc, mặt tái dần đi:
Sài gòn,
ngày 8 tháng 4 năm 1975
Anh
Sinh thân mến,
Sáng
nay, tôi đến tìm anh mà không gặp. Sáng mai, tôi phải về
quê sớm thu xếp gia đình, không đến anh lần thứ hai
được. Đêm nay tôi viết lá thư nầy và nhờ cậu bé ở
sát nhà mang đến cho anh. Sợ nó vứt bỏ lá thư nên tôi
có cho nó một món tiền nhỏ, vì nếu thư nầy không đến
tay anh thì đó là điều ân hận rất lớn cho tôi. Tôi
không hy vọng gặp lại anh ở cái đất Sài gòn thân yêu
nầy nữa. Tình hình ngày càng tồi tệ, hết cơ cứu vãn
rồi. Vì vậy, tôi về quê thu xếp, chuẩn bị cho cả gia
đình đi tìm chỗ nương thân ở ngoại quốc.
Tôi
là Nguyễn văn Sĩ, cùng đơn vị với bạn thân của anh
là Trung úy Trần Phát Đạt. Đạt đã vĩnh viễn nằm
xuống sau một trận đánh lớn ở gần Pleiku. Tiểu đoàn
chúng tôi bị phục kích, nhưng đã chống trả mãnh liệt
buộc địch phải tháo chạy.
Đạt
bị thương rất nặng nơi đầu. Trước khi trực thăng
tải thương đến nơi thì anh ấy đã tắt thở trên tay
tôi. Trước khi chết, Đạt bảo tôi ghi hai địa chỉ,
một cho gia đình và một cho bạn thân là anh. Thôi, tôi
xin báo tin cho anh rõ chứ không muốn nhắc nhiều đến
chuyện đó nữa, sợ tôi sẽ òa khóc làm ướt lá thư
nầy.
Theo
tôi thì cuộc chiến tranh dài đằng đẵng nầy sắp kết
thúc và chúng ta là kẻ chiến bại. Những ngày theo đoàn
người di tản từ Pleiku về đây làm cho tôi thấy rất
rõ điều nầy. Tôi phải ra đi hoặc tôi sẽ chết khi
Việt cộng chiếm được cả miền Nam nầy.
Thôi,
tôi xin dừng bút. Tạm biệt anh. Biết đâu chúng ta sẽ
lại gặp nhau ở cái xó xỉnh nào đó trên hành tinh nầy
trong những ngày sống tha hương.
Trung
úy Nguyễn văn Sĩ.
Sinh
ôm lá thư vào lòng, mắt nhòe lệ. Cậu lẩm bẩm một
mình:
-
Thằng Đạt đã chết còn thằng Thành ở đâu? Có lẽ nó
cũng chết rồi. Hai đứa nó đã nguyện sống chết có
nhau.
Trong
có mấy ngày mà cậu chịu những sự mất mát lớn quá
sức chịu đựng. Trang Đài đã đi xa mịt mờ, hai thằng
bạn thân nhất cũng không còn trên đời nầy nữa. Cậu
đọc lại lá thư của trung úy Nguyễn văn Sĩ.
‘Chúng
ta là kẻ chiến bại’.
Sinh lặp lại câu nầy trong thư, hình bóng Trang Đài trong
tiệm kem ngày nào làm cho nước mắt cậu lại trào ra.
‘Chúng
ta là kẻ chiến bại’.
Chúng
ta là ai? Là ông trung úy Sĩ đáng mến qua lời thư, là
thằng Đạt, thằng Thành, là Trang Đài và ba mẹ nàng, là
cả một khối lương dân miền Nam đau thương nầy. Còn
Sinh thì sao? Cậu còn trong hàng ngũ kẻ chiến thắng nữa
hay không? Sinh đau đớn nhớ lại, sau buổi đi phân phát
quà cứu trợ cho nạn nhân, chính cái mặc cảm kẻ chiến
thắng đã làm cho Sinh xa lánh người yêu suốt cả một
tuần. Nàng đã đau khổ biết bao trong tuần lễ đầy
biến động đó. Giờ đây, biết làm thế nào để nói
với nàng một lời tạ tội. Cậu tha thiết muốn nàng
hiểu rằng, bây giờ cậu không còn trong hàng ngũ những
kẻ chiến thắng đáng ghét, những kẻ đã làm cho nàng
cùng gia đình, và biết bao người khác phải lìa bỏ quê
hương yêu dấu để đến lánh nạn nơi đất khách quê
người. Cậu ở lại đây trong hàng ngũ những kẻ chiến
bại đáng thương, tuy xa cách nhưng cậu cũng cùng giới
tuyến với nàng.
Ý
nghĩ nầy làm cho Sinh thấy lòng lâng lâng trong một cảm
giác thực buồn và thực êm đềm. Bây giờ tình yêu của
Sinh và Trang Đài mới thực là trọn vẹn dù hai người
đang ở xa nhau vạn dặm.
*
*
*
SÁNG
ngày 29 tháng 4 năm 1975, thầy Văn chạy về hướng nhà
Sinh, sau xe có một mớ hàng to trong bao thường được
dùng để đựng gạo. Cảnh vật trên đường phố buồn
bã nhưng lòng thầy phấn chấn lạ thường. Đêm qua, thầy
đã tham dự cuộc họp đến khuya lắc khuya lơ. Các binh
đoàn chính quy từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa đưa vào,
phối hợp với các đơn vị địa phương đã phá vỡ mọi
ổ kháng cự của quân thù chung quanh thành phố. Sài gòn
đang bị bỏ ngỏ. Từ nhiều ngày trước, các tổ trinh
sát đặc công đã thâm nhập ồ ạt vào ngoại ô và nội
thành để chuẩn bị hoàn thành hình ảnh một cuộc “nổi
dậy của nhân dân”, một cuộc “hợp đồng tác chiến”
ngoạn mục giữa quân và dân. Hình ảnh nầy sẽ được
công bố trên toàn thế giới để nêu cao chính nghĩa của
cuộc kháng chiến trường kỳ và thần thánh của chúng
ta.
Tuy
không nói ra, những người tham dự hội nghị đều thấy
nhân dân thành phố chưa sẵn sàng nổi dậy. Họ hoang
mang lo sợ. Họ bàn tán xôn xao, tích lũy lương thực. Đề
tài nổi bật nhất là di tản sang ngoại quốc để trốn
tránh cách mạng. Cuộc di cư khổng lồ của cả triệu
người năm 1954 bỏ quê hương miền Bắc chạy vào Nam để
trốn cộng sản vẫn còn sờ sờ trong lịch sử. Rồi
trong tháng qua, hàng trăm ngàn người lìa bỏ quê hương
miền Cao nguyên và miền Trung cũng cùng một lý do. Những
sự việc đó thổi bùng ngọn lửa thèm muốn ra đi của
nhiều người dân Sài gòn. Một số ít đã thực hiện
được ý muốn đó. Phần lớn còn lại, co cụm tại chỗ,
thắc thỏm chờ đợi điều phải đến.
Đó
là hình ảnh không tốt đẹp cho cuộc chiến thắng vĩ
đại, chấm dứt ba mươi năm chiến tranh đầy gian khổ.
Phải gấp rút cải thiện hình ảnh nầy. Vì vậy, một
số lượng khổng lồ cờ Mặt trận, truyền đơn, biểu
ngữ đã được các cơ sở bí mật in ra và được đưa
thẳng từ các vùng mới “giải phóng” vào. Nhiệm vụ
trước mắt là trang hoàng cho cuộc nổi dậy của toàn
thể nhân dân thành phố.
Nhiệm
vụ kế tiếp là phân công những người tham gia “cướp
chính quyền”.
Trước
hết là ủy ban quân quản, sau đó là ủy ban cách mạng
lâm thời. Các chức vụ then chốt như chủ tịch, trưởng
phòng ban đều đã giao cho các cán bộ từ miền Bắc và
từ chiến khu vào. Các cán bộ nội thành chỉ giữ vai
trò phụ tá mà thôi.
Thầy
Văn được đề cử vào làm việc với ủy ban quân quản
và sau đó, có thể là phó phòng giáo dục quận. Thầy
sướng rơn lên. Các đồng chí trong hội nghị nghĩ rằng
thầy sẽ chọn địa bàn phụ trách là quận Phú nhuận,
nơi thầy đang ở. Lúc đầu thầy cũng nghĩ như thế. Cái
xóm nầy toàn là người mới quen vì thầy mới đến ở
hơn một năm nay. Chẳng có ai thân thiết vì thầy không
muốn kết thân một cách thái quá để họ có thể chạy
xộc vào nhà bất cứ lúc nào. Đó là thói quen cảnh giác
của cán bộ nằm vùng. Tuy không thân nhưng thầy biết
xóm giềng kính nể thầy vì ai cũng biết thầy đang dạy
học. Sự kính nể đó sẽ thành sự ngạc nhiên và tôn
sùng, nếu họ thấy thầy hoạt động cho quân quản, suốt
ngày tất bật với công tác tổ chức chánh quyền cho họ.
Thầy
mới được cấp phát một cây súng ngắn. Thầy sẽ không
cần giấu giếm họ điều đó. Tại sao phải giấu? Vũ
khí nầy là biểu tượng cao quý của cuộc cách mạng vô
sản mà phương châm là dùng bạo lực trấn áp bọn phản
cách mạng để củng cố chính quyền cho nhân dân. Không
riêng bọn phản cách mạng, mọi người thấy thầy có
súng đều phải kiêng nể. Sống trong thành phố bao nhiêu
năm với “ngụy”, ai mà không có mặc cảm có tội đối
với cách mạng. Tuy nhiên cũng đừng nên khoe cây súng một
cách quá lộ liễu. Cử chỉ đó không phù hợp với cốt
cách nhà giáo của thầy. Nghĩ như thế, thầy cất nó vào
túi đeo trên vai, lâu lâu có dịp ló ra cho họ thấy một
chút là đủ rồi.
Đó
là ý nghĩ ban đầu của thầy. Suy đi tính lại thì ở
địa phương cũng có phần bất lợi. Bọn phản động và
hèn nhát đã tháo chạy để lại rất nhiều nhà rất
đẹp. Nhưng đã có nhà rồi mà còn xin thêm hay đổi nhà
thì cũng khó coi. Nếu thầy cứ làm như thế, biết đâu
có đồng chí ganh ghét sẽ phê bình là thầy bắt đầu
thoái hóa phẩm chất vì người cộng sản phải hy sinh
tuyệt đối cho sự nghiệp của đảng, chí công, vô tư,
không nghĩ tới quyền lợi bản thân mình. Cần phải đề
phòng những người đồng chí hay phê bình đó.
Đắn
đo suy nghĩ mãi, thầy đã chọn được một giải pháp
hoàn hảo. Đó là xin hoạt động ở một địa bàn khác.
Công tác sẽ dồn dập ngày đêm. Nhà xa đi về bất tiện,
các đồng chí có trách nhiệm sẽ bố trí cho thầy một
chỗ ở tạm. Thầy sẽ góp ý một cách thành khẩn và
đầy chất hy sinh về chỗ ở tạm đó trong một ngôi nhà
vô chủ đầy đủ tiện nghi mà suốt đời làm thầy giáo
thầy không mong có được. Từ chỗ ở tạm đến sở hữu
lâu dài không phải là chuyện khó.
Thầy
nghĩ ngay đến địa bàn quận Gò vấp. Ở đây, thầy có
Sinh, vừa là học trò cũ, vừa là đồng chí đoàn viên
mà thầy kết nạp. Gần đây, nó có nhiều biểu hiện
đáng nghi ngờ nhưng chưa xác minh được. Sự nghi ngờ đó
chỉ đáng sợ khi còn phải sống lâu dài trong lòng địch.
Bây giờ địch đang tháo chạy. Những tên còn sót lại
sắp bị quân đội ta với xe tăng và đại bác trấn áp,
giết chết hoặc cho vào tù hết thì sự nghi ngờ đồng
chí đó không còn ý nghĩa nữa.
Thầy
nhớ lại cách đây hai năm, đồng chí đó dã dám tự
phát vẽ cờ và truyền đơn đi dán trong xóm giờ giới
nghiêm. Bây giờ, giao cho cậu ta cả bao cờ nầy để đi
phân phát cho mỗi nhà thì còn gì hay cho bằng. Chắc chắn
đồng chí ấy sẽ vui mừng nhận trách nhiệm và hoàn
thành nhanh chóng. Những lá cờ Mặt trận sẽ đồng loạt
giương lên trong địa bàn phụ trách của thầy, ngay cả
trước khi đoàn quân Giải phóng đầu tiên tràn vào Sài
gòn. Thầy sẽ báo cáo lên lãnh đạo, tinh thần nổi dậy
của nhân dân ở đó và chắc chắn thầy sẽ được ghi
công.
Những
ý nghĩ trên đây làm thầy rất phấn khởi. Thầy siết
ga, chiếc xe lướt nhanh trên đường và dừng lại trước
ngôi nhà quá quen thuộc đối với thầy. Con chó Tăng chạy
ra kêu ăng ẳng mừng rỡ. Thầy mỉm cười thò tay vào
vuốt đầu nó.
Sinh
đang quét lá sau vườn, nghe chó kêu mừng rỡ thì biết
là thầy Văn đến. Cậu lững thững bước ra cổng. Thầy
nhìn vào, ngạc nhiên thấy dáng điệu chậm chạp và bơ
phờ của người đồng chí nhỏ. Có lẽ nó đang gặp
phải chuyện buồn phiền gì đó. Không sao, thầy chỉ cần
mất thêm một chút thì giờ quý báu để làm công tác tư
tưởng, kích động nó là xong ngay. Thầy biết tính tình
hiếu động của người thanh niên nầy rất nhiều. Tình
hình đất nước đang vô cùng phấn khởi, chiến thắng
đang tràn vào thành phố, kích thích lòng hăng hái của nó
để lao vào công tác không phải là điều khó khăn.
Sinh
đã ra tới nơi, cúi đầu chào thầy một cách lễ phép,
mở cổng mời thầy vào. Thầy đẩy xe dựng sát hiên
nhà, sửa lại chiếc túi cán bộ cho ngay ngắn và cho ra
vẻ rồi ưỡn ngực bước qua ngạch cửa, bệ vệ ngồi
xuống ghế. Sinh định chạy xuống bếp pha nước thì
thầy ngăn lại và nói:
-
Không cần, đồng chí ngồi xuống đây, công tác khẩn
trương lắm rồi.
Sinh
vâng lời thầy ngồi xuống ghế, thẫn thờ nhìn ra sân.
-
Đồng chí Nguyễn văn Sinh!
Tiếng
thét to của thầy làm cậu giật mình quay lại chăm chú
nhìn. Giọng thầy tiếp theo thật dõng dạc:
-
Cách mạng đang thành công, quân Giải phóng đang tiến vào
thành phố. Chúng ta cần phải chứng tỏ cho cả nhân loại
biết rằng thắng lợi nầy là một cuộc tấn công nổi
dậy của cả quân lẫn dân, một bản đồng ca tuyệt vời
của nhân dân thành phố với lực lượng võ trang anh
hùng. Đây là giờ phút trọng đại của lịch sử Việt
Nam!
Sinh
vẫn nhìn thầy không chớp mắt, thầy phấn khởi tiếp
tục bài diễn văn hùng hồn:
-
Cả nước, cả thế giới đang nhìn về chúng ta. Hôm nay,
tôi giao cho đồng chí một công tác quan trọng để lập
công với cách mạng, để góp sức mình hoàn tất bản
anh hùng ca cực kỳ vinh quang của chúng ta. Kể từ giờ
nầy chúng ta phải lao vào sự nghiệp vĩ đại, không còn
một giây phút rảnh rỗi nữa. Đồng chí hãy đứng lên
và bắt tay ngay vào công tác. Ngoài xe tôi có một bao cờ
của Mặt trận. Đồng chí hãy nhận lấy và lập tức đi
phân phát hết cho mỗi nhà. Dặn họ treo ở nơi nào dễ
thấy nhất. Phóng viên của ta và của ngoại quốc sẽ đi
chụp hình quay phim. Đồng chí cứ làm cho nhanh chóng giữa
ban ngày. Bọn an ninh của địch bỏ chạy cả rồi, không
còn gì đáng sợ nữa. Nhiều nơi, phòng vệ dân sự mà
địch gọi là nhân dân tự vệ đã quay súng lại, cùng
với cách mạng bảo vệ nhân dân. Nào, hãy đứng lên lập
công với cách mạng!
Sinh
nhìn xuống bàn, giọng xuội lơ:
-
Thầy đem mấy thứ đó về đi, em không nhận đâu.
Thầy
chưng hửng. Thầy không ngờ Sinh từ chối thẳng thừng
như vậy. Nhưng thầy cần phải cố gắng thuyết phục.
Công tác dân vận bí mật bao nhiêu năm đã tập cho thầy
tính kiên nhẫn.
Thầy
hạ giọng cho có vẻ tình cảm hơn:
-
Đây là giờ phút em chứng tỏ mình xứng đáng với sự
hy sinh của ngưới cha đáng kính của em. Rồi cách mạng
sẽ đền ơn ông và chính em là người nhận lãnh sự đền
ơn đó. Ngày vinh quang đến rồi, cho em và cho mọi người.
Cách mạng đang đạt thắng lợi cuối cùng. Chúng ta đang
là những người chiến thắng. Em cũng là người chiến
thắng, có biết không Sinh?
Sinh
trả lời một cách bực tức:
-
Thầy đừng nói nữa. Tôi không phải là kẻ chiến thắng.
Thầy
Văn trố mắt nhìn Sinh. Mặt thầy, từ bình thường,
chuyển sang đỏ rồi tái lại. Tuy nhiên, thầy vẫn cố
gắng giữ bình tĩnh để thuyết phục vì Sinh là quân cờ
rất sáng giá góp phần vào việc thực hiện dự tính
tương lai của mình. Thầy cố lấy giọng tình cảm hơn
nữa:
-
Sinh, tại sao em lại có thể nói một điều bậy bạ đến
thế. Có điều gì đã xảy ra làm cho em quẫn trí phải
không? Cứ thành thực nói hết cho thầy nghe.
Sinh
vẫn ngồi im lặng, cặp mắt đờ đẫn nhìn bầu trời
qua khung cửa sổ. Thầy Văn cảm thấy sự kiên nhẫn của
mình đang đến cuối đường, sự trầm tĩnh của mình
sắp chấm dứt. Thầy hít vào một hơi dài cố gắng đè
nén cơn giận chực bùng lên. Thầy cố gắng hết sức để
giữ giọng nói ôn tồn và thay đổi cách xưng hô:
-
Đồng chí Sinh, tại sao đồng chí im lặng. Tôi nhắc lại
một lần nữa cho đồng chí rõ, chiến thắng đang đến
với chúng ta. Hãy đứng lên mà tận hưởng sự vinh quang
đó. Đây là dịp may cực kỳ to lớn và duy nhất trong
cuộc đời. Nào, đứng lên, người chiến sĩ cách mạng,
người đồng chí thân yêu của tôi.
Sinh
không thể nào chịu đựng nỗi những câu nói lải nhải,
lặp đi lặp lại những từ chiến
thắng, vinh quang.
Cậu ngẩng lên nhìn với cặp mắt đầy ác cảm, giọng
chua chát:
-
Đủ rồi, thầy đừng nói nữa. Tôi lặp lại lần cuối
cùng, tôi không phải là người chiến thắng, tôi là kẻ
chiến bại. Chính thầy mới là người chiến thắng.
Cậu
bỗng nhớ lại lời người yêu nên tiếp tục với giọng
buồn thảm:
-
Người chiến thắng bao giờ cũng đáng ghét.
Cơn
giận của thầy nổ bùng như một khối thuốc súng vừa
bị châm ngòi. Thầy nhảy dựng lên, giọng lắp bắp:
-
Đồng chí…. Mày nói cái gì hả Sinh? Mày là kẻ chiến
bại hả? Tao có nghe lầm không?
Sinh
cười lạt:
-
Không, thầy không nghe lầm. Tôi là kẻ chiến bại. Đúng
vậy, tôi là kẻ chiến bại đáng thương!
Thầy
nhìn Sinh bằng cặp mắt tóe lửa, giọng rít lên như
những mảnh kim loại chạm vào nhau:
-
Mày là kẻ chiến bại! Hừ, chưa bị tra khảo mà mày đã
thú tội rồi. Hừ, mày đáng tội chết. Từ lâu tao đã
nghi mày là người của bọn nó cài vào. Mày là người
của bọn nó từ hồi nào? Từ lúc chưa gặp tao phải
không? Nếu thế thì mày là tên gián điệp đến tao cũng
phải chịu thua. Hay là mày mới phản bội sau nầy? Thằng
phản bội kia, thú nhận đi để hưởng sự khoan hồng
của cách mạng!
Sinh
nghe bưng bưng trong óc, đầu nhức như búa bổ. Cậu không
muốn nghe nữa. Cậu cần sự yên tĩnh. Nhưng biết làm
sao bây giờ. Cậu đứng dậy quay nửa vòng rồi ngồi
xuống, ôm lưng ghế. Cậu cố gắng không nghe lời thầy
nói.
Thái
độ nầy làm cho thầy Văn tức như điên cuồng. Thầy
bỗng nhớ đến cái chết của Tư Đạt, người đồng
chí cùng chi bộ với thầy. Lòng căm thù dâng lên làm cho
thầy nghe tức ngực. Thầy cố kìm hãm hơi thở, hổn hển
nói tiếp:
-
Tao hiểu cả rồi. Mày là tay sai của thằng thiếu tá an
ninh quân đội. Từ cửa sổ nhà nó, đặt ống nhòm sang
là thấy hoạt động của bọn tao. Mày đã chỉ cho thằng
chó săn đó địa điểm kết nạp mày. Mày đã giả bộ
hứa với tao là mày không đến nhà nó nữa. Nhưng tình
báo cho tao hay là mày vẫn đến đó. Mày hết phương chối
cãi rồi.
Sinh
ù tai khi nghe thầy nhắc đến cái nơi thân yêu, đã mấy
hôm nay làm quả tim cậu rớm máu. Cậu không muốn nghe
nữa nhưng giọng nói của thầy Văn vẫn the thé một cách
căm hờn:
-
Thằng phản bội khốn nạn, mày có biết cái chết của
một người tên Đạt không?
Đạt,
Đạt! Than ôi, thằng bạn thân của cậu không còn nữa.
Đạt, Đạt! Đau đớn biết bao!
-
Trả lời đi, thằng phản bội, mày có biết cái chết
của nó không?
Sinh
không quay lại nhưng cậu ngửng lên, se sẽ gật đầu.
Thầy
nhảy dựng lên sau cái gật đầu của Sinh. Hai cái chết
của cha và của chú xưa kia đột ngột hiện ra. Lòng căm
hờn đối với kẻ phản bội làm thấy ngạt thở. Trong
biết bao năm rồi, thầy mơ ước chính tay mình giết chết
kẻ phản bội để trả thù cho hai người thân yêu. Nó
đã giết cha làm cho thầy sớm trở thành trẻ mồ côi.
Nó đã giết chú làm cho thầy phải lao đao lận đận bao
nhiêu năm để lo kiếm sống trong cái xã hội của quân
thù. Đến nay thầy đang bắt gặp kẻ phản bội trước
mặt thầy. Dù tên nầy không phải là kẻ trực tiếp
giết chết cha và chú nhưng chính nó đã giết chết Tư
Đạt người đồng chí vô cùng đáng thương của thầy.
Nó là thằng phản bội, không thể nào tha thứ nó được.
Thầy rít lên trong nỗi căm hờn cùng cực:
-
Tốt, mày cứ thú nhận hết đi. Mày còn làm cái gì nữa
ở nhà thằng thiếu tá an ninh quân đội đó. Tình báo
còn cho tao hay mày rù rì rủ rỉ với con nhỏ khốn nạn
nào trong đó để báo cáo làm hại cách mạng phải không?
Con nhỏ khốn nạn đó là cái gì của thằng thiếu tá?
Nó dùng con đĩ đó để giương bẫy mỹ nhân kế và mày
đã rơi vào đó để trở thành đứa phản bội, phải
không? Mày thú thật đi để được sự khoan hồng của
đảng.
Sinh
đứng bật dậy, quay lại, mắt long lên sòng sọc. Cậu
chồm tới trước. Thầy Văn lùi lại một bước, tay cho
vào túi nắm chặt cây súng ngắn. Sinh gằn giọng:
-
Im đi. Ra khỏi đây ngay!
Cậu
muốn chụp một vật gì đó trên bàn, ném vào mặt người
đang hạ nhục người yêu của mình. Tuy nhiên cậu sực
nhớ người đó chính là thầy dạy học của mình nên
bỗng nghe lòng đau nhói, bao nhiêu sức lực vụt tan mất.
Cậu quay lui, ngồi thụp xuống, gục đầu vào thành ghế.
Cậu rên rỉ nho nhỏ, vừa đủ mình nghe:
-
Trang Đài, em ở đâu?
Cậu
ngẩng dậy, nhớ cái hôm người yêu ngồi khóc sau khi đi
phát hàng cứu trợ trở về. Cậu định quay lui, nói cho
đã giận, nhưng nghĩ đến cái bộ mặt đáng ghét của
kẻ chiến thắng nên cậu ngồi yên, nhìn thẳng trước
mặt, cố hết sức bình tĩnh nói to:
-
Thầy về xem lại hình ảnh khốn khổ của những con
người chạy trốn cộng sản thì mới thấy được tất
cả sự vinh quang của cuộc cách mạng vĩ đại của thầy!
Cái lý tưởng của thầy và các đồng chí thân yêu đã
gây nên biết bao tội lỗi đối với nhân dân miền Nam.
Cậu
cười gằn sau câu nói, cảm thấy thỏa mãn vô cùng. Thầy
Văn gầm lên:
-
Thằng phản bội khốn nạn. Mày đã giết chết người
của tao. Bây giờ trong giờ phút vinh quang này, mày dám
thóa mạ cả cách mạng nữa. Tao không thể để mày sống
được. Tao phải thay mặt cách mạng xử tội mày, thằng
phản bội khốn nạn.
Sau
câu nói dễ sợ đó là một tiếng lên đạn lạnh lùng.
Thầy Văn chĩa họng súng vào cái lưng trước mặt và bóp
cò. Hai tiếng nổ liên tiếp. Sinh bật lên, rướn về
trước, ngã sấp xuống, chiếc ghế ngã theo, cậu nằm đè
lên lưng ghế, hai chân dạng ra.
Thầy
Văn sững sờ nhìn đốm máu đỏ hiện ra rồi lan rộng
dần trên lưng áo trắng. Sinh cố ngẩng đầu về phía
bàn thờ mẹ. Một dòng máu ứa ra nơi khóe miệng. Thầy
nghe tiếng kẻ hấp hối thều thào:
-
Má, má, chờ con….
Rồi
im lặng hoàn toàn. Thầy đứng yên, bàn tay cầm súng run
lên, bàn tay kia bấu vào thành ghế, hơi thở dồn dập.
Sinh đã chết nhưng mắt vẫn còn mở trừng trừng. Thầy
nhắm mắt lại, không tin sự việc xảy ra là có thực.
Thầy cố gắng tự trấn tĩnh; thầy tập trung tư tưởng
mình vào con đường cách mạng, vào những năm chiến đấu
gian nguy trong vai trò người cán bộ nằm vùng, vào chiến
thắng vinh quang đang cận kề. Thầy hít mạnh một hơi
dài, cho súng vào túi cán bộ, tự an ủi:
-
Nó đền tội cũng phải.
Nhưng
cặp mắt mở trừng trừng của Sinh kinh khủng quá. Thầy
bậm môi cúi xuống vuốt mắt cho Sinh rồi lật đật ra
khỏi nhà.
Trời
bên ngoài nắng gắt, tương phản với bầu không khí lạnh
lẽo thầy vừa bỏ lại phía trong nhà. Thầy Văn giật
mình chùng bước, dáo dác nhìn quanh khu vườn. Kia là băng
ghế Sinh hay ngồi mỗi buổi chiều chờ thầy đến. Chỗ
đó là nơi hai thầy trò thường giăng võng nằm tâm sự.
Suốt những năm qua, thầy đã đến đây nhiều lần.
Trong không gian tĩnh mịch nầy và hai thầy trò đã từng
thủ thỉ với nhau. Cảm giác ăn năn từ đâu len lỏi tìm
đến. Thầy lắc mạnh đầu, hướng mắt nhìn về cái
bao cờ cột sau xe. Sự ăn năn trong chốc lát mà biến
mất, nhường chỗ cho một tình cảm gần như mừng rỡ
vì hành động dứt khoát vừa qua. Nếu thầy nương tay
không giết nó mà bắt nó giao cho ủy ban quân quản thì
hậu quả có thể rất tai hại cho thầy. Chính thầy đã
đưa nó vào tổ chức, đương nhiên phải chia sẻ trách
nhiệm về hành vi bội phản của nó. Chắc chắn, thầy
sẽ bị khiển trách. Hơn thế nữa, thầy có thể bị tổ
chức nghi ngờ. Hơn ai cả, thầy hiểu rằng tính nghi ngờ
là bản chất cố hữu của người cộng sản. Nếu bị
nghi ngờ thì còn chi là tương lai chính trị của thầy!
Thầy
tự thấy hài lòng, dẫn xe đi nhanh ra cổng. Bỗng thầy
dừng lại, lật đật dựng xe, mở bao đựng cờ và quay
lui. Thầy bước lên bậc thềm, nhắm mắt lại quăng
chiếc bao vào nhà. Thầy nghĩ rằng, đối với tổ chức,
Sinh vẫn là đoàn viên. Sự phản bội của nó chỉ một
mình thầy biết vì nó đã chết và bè lũ phản động đã
trốn chạy cả rồi. Cái chết của nó bên bao cờ Mặt
trận có thể làm cho nó trở thành liệt sĩ. Điều đó
an ủi phần nào linh hồn của nó mà cũng có lợi cho vị
thế chính trị của thầy. Mọi đồng chí đều biết
Sinh là người được thầy đưa vào hàng ngũ cách mạng.
Công khó của thầy phải được cách mạng đền đáp
xứng đáng. Nhất định thầy sẽ thẳng tiến trên con
đường vinh quang, đời sống tinh thần lẫn vật chất
của thầy sẽ rất huy hoàng.
Thầy
thấy tinh thần phấn chấn trở lại nên nhanh nhẹn dẫn
xe ra cổng, nhìn dọc theo hai bên đường, xem có ai để ý
đến hai tiếng nổ vừa qua không. Không, chẳng ai để ý
cả vì mọi người đang ru rú trong nhà. Đó đây có nhiều
tiếng súng rải rác. Thầy cho rằng đó chưa phải là
súng tấn công của bộ đội. Những đứa trẻ lượm
được những cây súng do các kẻ chiến bại chạy trốn,
vứt bừa bãi trên đường phố. Chúng nghịch ngợm chĩa
súng lên trời bắn cho sướng tay, làm người lớn khiếp
vía.
Thầy
nghĩ đúng. Mãi sáng hôm sau, bộ đội chính quy mới tràn
vào thành phố. Khi chiếc xe tăng T54 lao vào húc đổ cổng
dinh Độc lập thì đó cũng là giây phút chấm dứt cơn
hấp hối đầy đau thương của Hòn Ngọc Viễn Đông.