Chưa
bao giờ Sinh thấy cuộc đời đáng yêu như hôm nay. Suốt
buổi chiều, cậu thấy tâm hồn mình bồng bềnh như mây
bay gió thoảng. Ngồi vào bàn lấy sách ra học, nhưng Sinh
thấy khó tập trung suy nghĩ nên lấy bài tập điện tử
ra làm. Đó là thói quen xưa nay của cậu. Lao vào các bài
toán là cậu tự tách mình ra khỏi thế giới chung quanh.
Cậu phải thi đậu kỳ nầy và đậu hạng cao. Sinh tưởng
tượng đến ngày xem kết quả thi, cậu sẽ sánh vai người
yêu, đến trước bảng của bộ môn vật lý. Nàng sẽ dò
danh sách còn chàng đứng lặng lẽ chờ bên cạnh. Nàng
không phải dò lâu, tên cậu hiện ra rõ ràng ở phần đầu
danh sách thi đỗ. Nàng sẽ reo lên mừng rỡ. Sinh sẽ
không reo lên nhưng lặng lẽ nắm lấy tay nàng bảo nhỏ:
-
Kết quả nầy là anh dành tặng cho nàng tiên bé nhỏ của
anh đó. Em có nhận không?
Nàng
sẽ không trả lời mà sẽ ngước mặt lên, làn môi mọng
đỏ khẽ rung rinh. Sinh sẽ cúi mặt xuống….
Cậu
ngồi thẳng dậy, lấy tay đập mạnh vào đầu để cắt
ngang dòng tưởng tượng. Cậu biết rằng cứ thả lỏng
cho đầu óc mình, thì chắc chắn cậu sẽ không có tên
trong danh sách thi đậu mà suy nghĩ tầm thường của cậu
còn xúc phạm vào tấm thân ngà ngọc của nàng. Không thể
được, tấm thân đó là một khối ngọc lưu ly. Nó gần
giống như khối ngọc vô giá mà một vài tôn giáo dùng
làm biểu tượng thiêng liêng để tôn thờ. Người ta chỉ
được phép nhìn thánh vật đó để chiêm ngưỡng chứ
không được mó tay vào.
Sinh
cố nén ép sự suy tư và tưởng tượng về người yêu
để chú tâm vào những bài toán điện tử, nhưng cậu
không thể làm ngay được. Trí tưởng tượng vừa bị
chận lại ở ngưỡng cửa của một cái hôn đầu đời
thì lập tức nó chui qua ngách khác, chạy lung tung một
vòng rồi rơi vào lĩnh vực đấu tranh giai cấp. Cậu bực
tức, đứng phắt dậy la to:
-
Ta cóc cần cái đấu tranh giai cấp chết tiệt đó nữa.
Ta chỉ có Trang Đài thôi.
Nỗi
bực tức tăng lên đột ngột và biến thành cơn cuồng
nộ. Cậu chụp tờ báo Tin sáng trên giường, nghiến răng
xé ra từng mảnh vụn rồi ném ra sân. Những mảnh báo
bay tung tóe, một số rơi ngay, nằm im trên mặt đất, một
số bay lượn, xàng qua xàng lại một cách trêu ngươi.
Sinh nhảy ra đá một cái thực mạnh vào cái đám trêu
ngươi đó. Chẳng ăn thua gì mà suýt nữa cậu ngã nhào
ra cửa. Trong cơn tức giận, Sinh chợt để ý cái máy thu
thanh trên đầu giường với những buổi phát thanh đầy
giọng lưỡi cách mạng. Cậu chồm đến, rút phăng dây
cắm điện, xách bổng cái máy lên, bước ra chỗ trống,
nơi có nền gạch cứng. Cậu dồn tất cả cơn giận dữ
vào hai tay, đưa cái máy lên khỏi đầu.
Một
tiếng rầm sẽ xảy và chiếc máy sẽ vỡ tan tành?
Không,
tay Sinh vẫn giữ cái máy. Đó là món quà tặng quý giá
mà mẹ mua cho Sinh lúc cậu vừa được mười ba tuổi!
Sinh
ứa nước mắt. Cậu đặt máy vào chỗ cũ, cắm lại sợi
dây điện và vói lấy cái khăn khô lau bụi trên máy. Có
nhiều đốm đen nhỏ và dơ dáy do chất bài tiết của
muỗi đã đậu trên đó ngày nầy qua ngày khác. Sinh xuống
bếp, nhúng nước cái khăn, bước ra hè vắt khô rồi trở
lên nhà tẩn mẩn tỉ mỉ lau sạch chiếc máy.
Cái
máy hiền lành nằm đó, mới toanh như lúc mới mua, dù nó
đã gần mười năm tuổi rồi. Sinh nhớ rõ hôm đó là
buổi chiều, Sinh ngồi đợi mẹ ngoài hiên nhà. Bà đi bộ
về, một tay xách giỏ, một tay cầm một gói vuông vức
to bằng hai cuốn tự điển. Sinh chạy ra quá phía sau và
ôm lấy lưng mẹ, giọng nũng nịu:
-
Sao hôm nay má về trễ vậy, con mong quá.
Mẹ
quay đầu lại, nhìn con mỉm cười:
-
Vì má đi chọn mua cho con cái nầy.
Mẹ
trao cái gói cho Sinh. Cậu ôm chặt vào ngực và phóng vào
nhà. Cậu lật đật mở ra. Trời, một cái máy thu thanh
thực đẹp! Máy có ba băng tầng lại thêm một băng FM để
nghe nhạc nữa. Cậu hét to khi thấy mẹ bước lên bậc
thềm:
-
Má, sao má biết con thích cái máy thu thanh?
-
Nếu má không biết thì còn ai biết nữa?
… Bây
giờ mẹ không còn nữa nhưng chiếc máy vẫn còn nguyên
và trở thành vật kỷ niệm vô giá của đời mình. Sinh
mím môi để không cho nước mắt trào ra.
Cậu
đến ngồi vào bàn, lấy những bài toán môn điện tử
ra làm. Đầu óc cậu dần dần trơ lại thực thanh thản.
Cậu nghĩ rằng linh hồn mẹ đã về với cậu và đưa
bàn tay mầu nhiệm vuốt sạch mọi ưu tư phiền muộn
trong lòng đứa con trai duy nhất mà bà không còn dịp lo
miếng cơm manh áo nữa.
*
*
*
Sáng
nay, chủ nhật, Sinh nhất định phải đến thăm Trang Đài
tại nhà. Trong đầu Sinh dòng địa chỉ chạy quanh quẩn.
Trên môi Sinh địa chỉ yêu thương bật ra thành lời. Cậu
đưa bàn tay mình áp lên má. Chính ở lòng bàn tay nầy,
người yêu đã cúi xuống, tinh nghịch viết địa chỉ
của nhà nàng. Hôm đó, Sinh dự định về đến nhà sẽ
chép ngay vào sổ tay. Nhưng khi định lật sổ ra, Sinh bỗng
bật cười tự chế nhạo mình. Không cần viết vào đâu
cả. Dù có đầu thai mười kiếp nữa, Sinh cũng không
quên được địa chỉ nầy.
Những
tuần gần đây, Sinh gọi ngày chủ nhật là ngày nhớ
nhung. Quả thực vậy, ngày thường thì Sinh bận rộn với
học hành và nhất là được đến trường. Tại đây,
hai bạn trẻ cố ý tìm nhau để trao cho nhau một nụ
cười. Chỉ có thế thôi cũng đủ cho bầu trời thêm
tươi đẹp. Có khi không gặp nhau vì khác giờ học thì
Sinh vẫn vui thích vì mọi vật ở đây đều in bóng dáng
người yêu. Nhiều hôm, đợi giờ lên lớp, Sinh đi thơ
thẩn trong sân trường đại học rợp bóng mát, cậu nhìn
lên phòng học của Trang Đài và tưởng tượng người
yêu đang vừa ngồi học vừa tưởng nhớ đến mình. Các
bạn cùng lớp để ý dạo nầy Sinh hay cười một mình.
Họ không cho điều đó là quái dị vì họ biết bạn
mình đang lặn ngụp trong tình yêu với một trong những
nữ sinh viên đẹp nhất của trường.
Tình
yêu của hai trẻ vừa bắt đầu nhen nhúm đã bùng lên
nhanh chóng. Tuy nhiên, đối cả hai, đó là mối tình đầu
còn giữ trọn vẹn nét trinh nguyên và e thẹn đáng yêu.
Họ chưa dám dắt tay nhau đi trong sân trường hay ngồi
chung trong băng đá để tâm tình mặc dầu họ biết rằng
ở tuổi sinh viên thì điều đó không có gì thái quá,
khi người ta vẫn thầm gọi tên nhau trước khi vào giấc
ngủ hằng đêm.
Do
đó, việc Sinh đến nhà hôm nay sẽ là điều hết sức
bất ngờ cho Trang Đài. Sinh mở tủ chọn bộ áo quần
đẹp nhất. Chiếc áo ca rô nầy, cái quần màu nâu sẫm
nầy là do mẹ dẫn cậu đến tiệm may, ít lâu trước
khi bà mất. Mẹ đã dặn người chủ tiệm cắt rộng và
dài một tí vì Sinh còn sức lớn. Quả thực, hôm nay cậu
mặc rất vừa. Sinh thầm nghĩ, trên đời nầy, khó có
người mẹ nào chu đáo hơn mẹ mình.
Cậu
đứng trước tấm gương lớn ở cửa tủ, nghiêng bên
trái, ngã bên phải, chớp mắt, mỉm miệng cười, cảm
thấy hài lòng về chàng thanh niên cường tráng và đẹp
trai trong gương. Đây là lần đầu tiên, Sinh hài lòng như
thế. Trước đây, kể từ khi vượt qua tuổi dậy thì,
Sinh ít để ý đến sắc diện của cơ thể mình. Gần
đây, cậu còn muốn tỏ ra lùi xùi cho có vẻ giống giai
cấp công nhân hoặc nông dân, hai giai cấp liên minh của
cách mạng vô sản. Nay, bỗng chốc, Trang Đài kéo cậu ra
khỏi hai giai cấp đó một khoảng cách đầy bất ngờ.
Thực
ra, khoảng cách nầy chưa đủ an toàn để Sinh vui hưởng
tình yêu đầu đời. Kể từ hôm linh hồn mẹ xua đuổi
nỗi bực tức suýt làm cậu nổi điên nổi khùng, cậu
đã bớt bị dày vò giữa tình yêu và giai cấp. Cậu tự
cho lập trường vô sản ngây thơ của cậu mở rộng ra
để chấp nhận giai cấp tư sản. Đài phát thanh phân
biệt hai loại tư sản: tư sản dân tộc là phe ta và tư
sản mại bản thuộc về phe địch. Cậu không phân biệt
nổi hai loại tư sản đó nên nhập làm một cục và cho
chúng thuộc về phe ta cả. Thế là tạm yên lòng. Trang
Đài của cậu có phần lớn cơ may chỉ là con nhà giàu,
còn vì lý do tại sao mà giàu thì không cần cứu xét đến.
Miễn là cha mẹ nàng không phải là kẻ thù trực tiếp
của cách mạng là được rồi. Cậu sẽ công khai hóa mối
tình của cậu cho những người quen biết, kể cả thầy
Văn và thầy Bá trong tổ chức của mình. Lát nữa đây,
cậu sẽ đến nhà Trang Đài và tìm dịp để xác minh
thành phần giai cấp của gia đình người yêu.
Cậu
huýt sáo bản Tango
bleu mà cậu ưa
thích, bản nhạc trổi lên thực đúng lúc hôm rồi, lúc
cậu đặt tay mình lên bàn tay người yêu để hai tâm hồn
hòa làm một trong màu xanh tuyệt diệu của bầu trời.
Cuộc đời đáng yêu vô ngần!
Sinh
vén tay áo xem đồng hồ rồi dắt xe ra. Cậu khóa cửa
trong, cửa ngoài cẩn thận rồi nổ máy xe, tiến ra đường
nhựa.
Sáng
chủ nhật, đường phố khá đông nhưng không có cảnh
chen chúc nhau như trong giờ đi làm ngày thường. Người
ta ăn mặc đẹp hơn, đi xe thong thả hơn. Sinh nhìn thấy
đâu cũng là màu hồng.
Không
biết số nhà người yêu ở khoảng nào của con đường
nên Sinh phải chạy thẳng lên đường Hồng thập tự rồi
rẽ vào đầu đường Cao Thắng. Vừa chạy vừa nhìn số
nhà bên đường, khi Sinh đi ngang qua con hẻm của căn nhà
hội họp bí mật thì con số cần tìm hiện rõ trên tấm
bảng vuông gắn vào một trụ cổng. Sinh dừng xe bên kia
đường đối diện với nhà Trang Đài.
Một
bức tường cao quá đầu người lạnh lùng đứng chắn
phía trước. Bên trên tường, nhiều hàng dây kẽm gai
sáng bóng, loại có mang những lưỡi dao sắc bén mà quân
đội Mỹ mới đem sang Việt Nam. Bức tường bị gián
đoạn ngay chính giữa bởi một cổng khá rộng với hai
cánh cao và kín mít. Bức tường và cửa cổng che mất
tầng trệt của ngôi biệt thự. Sinh chỉ nhìn thấy tầng
lầu với những cửa kiếng sang trọng, mỗi cửa có một
màng che bằng vải xanh bên trong. Phía trước nhà là một
bao lơn dài và hẹp có rào sắt sơn trắng toát.
Sinh
ngần ngại vì chưa bao giờ cậu có dịp bước vào một
tòa nhà to và lộng lẫy như thế nầy. Tuy nhiên, khi cậu
nghĩ đến Trang Đài đang ở đâu đó sau bức tường kín
đáo kia thì không có sức mạnh nào có thể ngăn cản
được Sinh dẫn xe qua đường.
Cậu
với tay bấm nút chuông. Một tiếng reo lanh lảnh hơi xa
nhưng rất rõ. Cậu đứng đợi một chút. Có tiếng mở
chốt nặng nề bên trong. Cánh cửa hé mở, một chiếc
đầu ló ra. Đó là một người đàn bà khoảng hơn bốn
mươi tuổi. Bà hỏi:
-
Thầy muốn tìm ai?
-
Tôi muốn thăm cô Trang Đài. Không biết có đúng nhà hay
không.
-
Đúng rồi. Thầy đợi một tí.
Cánh
cổng đóng ập lại một cách lạnh lùng. Sinh thấy bất
mãn với cách tiếp khách nầy. Nếu không phải là nhà
Trang Đài thì có thể cậu sẽ bỏ đi. Cậu nghe có giọng
đàn bà gọi to:
-
Cô Đài ơi, có khách.
Một
giọng con gái hỏi, làm tim Sinh đập rộn rã:
-
Ai vậy, dì Tư?
-
Tôi không biết. Một cậu nào lạ lắm, chắc là bạn của
cô.
Sinh
lắng nghe tiếng dép lẹp xẹp đến gần. Cánh cổng mở
ra. Trang Đài của cậu xuất hiện trong bộ áo quần toàn
màu hồng với những viền màu trắng. Nàng cười rất
tươi:
-
Anh Sinh!
-
Trang Đài!
Nàng
cười khúc khích:
-
Mời anh vào đi. Bộ em lạ lắm sao mà anh nhìn sững vậy.
Nàng
mở rộng cửa ra. Sinh dắt xe vào, dựng sát mép đường.
Vào trong rồi, Sinh mới thấy tất cả nét lộng lẫy của
ngôi nhà.
Từ
chân tường đến sát hàng hiên là một khu vườn hoa được
săn sóc rất cẩn thận. Sinh không rành về hoa, nhưng cậu
đoán ở đây có rất nhiều loài hoa quý. Hàng hiên phía
trước trông mát dịu với lớp gạch bông màu xanh nhạt
điểm hoa văn trắng và xanh sẫm. Con đường từ cổng
vào trải sỏi trắng sạch sẽ, đi ngang qua hông nhà và
đâm thẳng vào một ga ra xe hơi tận phía sau. Sát bức
tường cao bên trái là một sân xi măng, cuối sân có một
cây bàng phủ bóng mát lên một bộ bàn ghế đá màu
trắng điểm đốm đen, mặt đá bóng láng và sạch sẽ.
Trang
Đài đi trước Sinh một bước. Nàng quay lại nhìn, nét
mặt tươi cười:
-
Mời anh vào nhà đi. Anh cứ để nguyên giày mà vào, đừng
cởi ra.
Sinh
nhìn cái phòng khách rộng rãi sáng choang nhờ những cửa
kính chiếm gần hết vách trước và vách bên. Kế cửa
đi vào là một bộ xa lông nệm dày đen bóng. Gần bên là
một tủ thấp, phân nửa đựng chén bát, phân nửa là đồ
chơi trẻ em sang trọng. Trong cùng là một chiếc bàn ăn
dài, mặt phủ nhựa cứng láng màu nâu nhạt, hai bên là
sáu chiếc ghế dựa lót nệm trắng phau. Căn phòng quá
lộng lẫy làm Sinh ngần ngại. Cậu quay qua nói nhỏ với
người yêu:
-
Mình nên ngồi ngoài bộ ghế đá dưới gốc cây nói
chuyện hay hơn.
-
Đúng rồi, chỗ đó em thích nhất. Em ngồi học bài nơi
đó. Nhưng bây giờ, em phải mời anh vào nhà để em giới
thiệu với mẹ trước đã.
Sinh
đành bước vào phòng khách, ngồi vào chiếc ghế bành êm
ái và nhìn theo bóng hồng khuất sau khung cửa. Sinh thẫn
thờ nhìn khắp phòng.
Trên
tấm vách dọc, có một tác phẩm hội họa vẽ trên lụa,
phong cảnh nên thơ của một làng quê, với một mái
tranh, một lũy tre và một cánh đồng lúa xanh. Ở vách
sau có hai khung ảnh to bằng nhau. Khung thứ nhất có hình
ba người: một sĩ quan mặc quân phục với ba bông mai
vàng nơi cổ áo, bên phải là một phụ nữ sang trọng
với chiếc áo dài bông trang nhã, bên trái là cậu con
trai độ mười hai tuổi, mặt mày sáng sủa. Khung ảnh
thứ hai làm Sinh hồi hộp đê mê. Đó là ảnh Trang Đài
đứng khép nép bên một khóm cây, hai tay ôm cặp học ép
vào phía trước tà áo trắng, miệng cười chúm chím, cặp
mắt đen nháy nhìn thẳng vào người xem ảnh. Dưới mắt
Sinh, mọi vật sang trọng trong căn phòng lộng lẫy nầy
lập tức biến mất, chỉ còn lại khung ảnh người yêu
trước mắt mà thôi.
Sinh
giật mình đứng dậy khi Trang Đài và mẹ xuất hiện nơi
khung cửa thông với phòng trong. Cậu lễ phép cúi chào.
Bà chào đáp lễ. Trang Đài dẫn mẹ đến ngồi trên ghế
dài đối diện với cậu. Người đàn bà trước mặt cậu
không khác tí nào với cái ảnh trên vách tường. Bà
khoảng bốn mươi lăm tuổi nhưng vẫn còn giữ được vẻ
đẹp dịu dàng của thời xuân sắc. Chỉ khác với ảnh
là nét phúc hậu của người đàn bà Nam bộ rõ ràng hơn.
Bà
vào đề ngay một cách chân thật:
-
Con Đài có nói về cháu. Tôi thấy nó làm bạn với cháu
thì tôi cũng vui lòng. Nó nói má cháu mất rồi, cháu sống
với ba phải không?
-
Dạ ba cháu mất trước khá lâu, lúc cháu mới hai tuổi.
Cháu không còn nhớ tí nào về ba cháu.
-
Tội nghiệp dữ hôn. Vậy bây giờ cháu ở với ai để
ăn học?
-
Dạ, cháu ở một mình. Trước khi mất, má cháu có để
lại một món tiền đủ để cháu ăn học đến thành
tài.
-
Tội nghiệp dữ hôn. Thôi, mồ côi mồ cút mà có điều
kiện ăn học thì ráng đi. Nghe con Đài nói cháu học có
một năm mà qua được chứng chỉ dự bị, nó thèm được
như cháu mà không biết có làm nổi không.
Trang
Đài nhìn Sinh cười kín đáo. Còn Sinh thì thấy lòng nao
nao khó tả. Thì ra mọi chuyện gì biết về Sinh, nàng đã
kể hết cho mẹ nghe. Bà không để ý đến tâm tình riêng
tư của hai trẻ, tiếp tục câu chuyện của mình:
-
Vợ chồng tôi được có hai đứa. Con Đài lớn rồi tự
biết lo, tôi yên tâm. Còn thằng Nghị, em nó, học được
nhưng ham chơi lắm. Ba nó đi làm cả ngày không sao kềm
chế được. Cháu xem có ai, giới thiệu đến đây kèm nó
giùm tôi. Năm nay, em nó học lớp tám.
Bà
ngừng nói vì người đàn bà mở cổng khi nãy bưng vào
ba ly nước đặt lên bàn. Mẹ Trang Đài nói tiếp:
-
Cháu uống nước đi.
Bà
quay sang con gái:
-
Con nói chuyện với bạn đi, mẹ đi làm cơm.
Bà
đứng dậy bước vào trong. Trang Đài hơi xê dịch để
ngồi ngã lưng vào ghế, âu yếm nhìn người yêu. Sinh
cũng nhìn nàng một cách đắm đuối:
-
Anh đến đột ngột, không báo trước, em có ngạc nhiên
không?
-
Không. Em biết sáng nay thế nào anh cũng đến.
Sinh
ngạc nhiên:
-
Tại sao em nói thế? Anh đâu có hẹn và cũng không hứa
đến hôm nay mà.
-
Tại em mong anh đến và đoán anh cũng mong đến đây gặp
em. Có phải vậy không?
Sinh
gật đầu, nói nhỏ:
-
Anh mong gặp em. Ngày chúa nhật không trông thấy em trong
trường, anh nhớ da diết. Em có cảm thấy như thế không?
Nàng
e thẹn gật đầu và nói sang chuyện khác:
-
Em đã giới thiệu anh với mẹ. Nhưng em không giới thiệu
mẹ với anh vì em biết anh đã nhận ra qua bức ảnh nầy.
Nàng
nhìn lên khung ảnh trên vách. Sinh đáp lời:
-
Không cần nhìn ảnh. Thấy em bước ra với mẹ, hai người
khác tuổi nhưng nét mặt hao hao giống nhau là anh biết
ngay.
-
Anh không nhìn thấy ảnh của em à?
-
Sao lại không? Nãy giờ anh cứ nhìn lên tường ngắm mãi
cô bé xinh xinh dễ thương trong ảnh và chẳng còn thấy
gì khác chung quanh nữa.
Trang
Đài sung sướng vì câu nịnh khéo của người yêu. Tuy
nhiên, nàng nhìn Sinh, giọng trách móc:
-
Anh nói như vậy rủi có ai nghe, họ cười chết.
-
Đó là tiếng nói thành thật của anh, em không thích nghe
à?
-
Anh Sinh, sao anh lại hỏi em như thế? Thôi mình ra chỗ ghế
đá ngồi chơi, tha hồ anh nói trăng, nói cuội.
Nàng
đứng dậy, bưng hai ly nước bước ra ngoài, Sinh theo sau.
Đôi
bạn ngồi xuống dưới bóng mát cây bàng. Tiếng xe ngoài
đường bị bức tường cao chận lại bớt, không gây khó
chịu cho đôi bạn trẻ bên nhau. Thấy Sinh ngồi im lặng
quan sát ngôi nhà, Trang Đài lên tiếng:
-
Nhà nầy của ông nội để lại cho ba em.
-
Ông nội còn sống không?
-
Mất lâu rồi. Ông nội em là điền chủ dưới Bặc liêu.
Ngán chiến tranh, ông bán ruộng đất lên mua nhà nầy, ở
được vài năm thì mất.
Sinh
hỏi một cách tò mò:
-
Ba em là quân nhân phải không?
-
Dạ phải, ba em là thiếu tá.
-
Nhưng trong tấm hình treo trên vách, ông mang lon đại úy.
-
Dạ ba em mới lên thiếu tá, tấm ảnh đó chụp cách nay
hơn hai năm.
Sinh
bỗng cảm thấy một nỗi buồn phiền hiện ra trong lòng.
Cha của người yêu là một sĩ quan cao cấp, kẻ thù thực
sự của cách mạng. Mấy tuần rồi, cậu hi vọng Trang
Đài thuộc một gia đình tư sản dân tộc. Niềm hi vọng
đó bây giờ tiêu tan.
Cậu
cố lấy vẻ tự nhiên hỏi tiếp:
-
Bác trai trong quân đội mà có phải phục vụ nơi xa nhà
không?
Trang
Đài cười vui vẻ:
-
Dạ không, ba em làm việc tại Sài gòn. Ba em là thiếu tá
an ninh quân đội.
Sinh
có cảm giác tai cậu lùng bùng vì cái tên an
ninh quân đội mà
người yêu vừa mới nói ra. Có lần trước đây, thầy
Văn có giải thích với Sinh rằng an
ninh quân đội là
kẻ thù số một của cách mạng. Thầy còn bảo rằng
những dãy nhà lụp xụp gần bên sở thú là hang ổ của
cơ quan đầu não an ninh quân đội, trong đó có toàn những
kẻ hung ác, chuyên giết người và dám ăn cả thịt người
nữa. Trời hỡi, ăn thịt người mà sinh ra được người
con gái xinh đẹp và thùy mị như thế nầy ư?
Giọng
thánh thót của người yêu vẫn đều đều rót vào tai
cậu:
-
Ba em bị động viên đầu năm năm mươi ba hay năm mươi
bốn gì đó. Ông nội em có tiền và quen biết nên lo cho
ba em vào an ninh quân đội để khỏi phải cầm súng giết
người ngoài mặt trận.
Sinh
chưng hửng. Sợ giết người mà chui vào cái chỗ ăn thịt
người sao? Cậu lắc đầu, không còn hiểu thế nào là
chân lý nữa. Lời nói của thầy Văn là lời nói của
một bậc thầy mà Sinh tin tưởng. Lời nói của Trang Đài
là lời nói của một người con gái thùy mị mà không
bao giờ Sinh nghi ngờ tính chân thật.
Sinh
dò hỏi thêm để may ra giải tỏa bớt sự thắc mắc
trong lòng:
-
Ba em là thiếu tá quân đội thì chắc là…, là nghiêm
khắc với vợ con lắm phải không?
Trang
Đài cười vui vẻ:
-
Ngược lại thì đúng hơn. Ba em dễ dãi lắm. Nhất là
đối với em, ông nuông chiều đến nỗi nhiều khi mẹ em
phải cáu lên.
-
Còn đối với người khác thì sao?
-
Bà con bên nội cũng như bên ngoại đều bảo rằng ba em
là người hiền lành, tốt bụng với mọi người, không
kể giàu nghèo. Nhưng trong công việc, ba em là người rất
cương nghị. Trong gia đình, ba em là người cởi mở không
giấu giếm công việc ở sở. Có một việc ba em kể cho
mẹ và em nghe làm em nhớ hoài. Năm đó ba em mới lên
trung úy. Phật giáo xúi đồng bào xuống đường gây bất
ổn, làm hại cho tinh thần chiến đấu của quân đội.
Chính phủ cấm quân nhân không được tham gia phong trào
lộn xộn nầy để bảo toàn lực lượng. An ninh quân đội
của ba em được lệnh điều tra mấy sĩ quan chống lại
lệnh cấm nầy. Có một ông thiếu tá bộ binh của sư
đoàn Một ở tận ngoài Huế bị theo dõi với những
thông tin chính xác là hùa theo mấy nhà sư chuyên sách
động. Ông thiếu tá nầy được đưa vào Sài gòn trình
diện văn phòng của ba em. Thấy ông mang bông mai bạc bước
vào, ba em là cấp nhỏ hơn nên ngưng công việc đứng
nghiêm chào. Ông không thèm chào lại, mặt vênh váo một
cách khiêu khích. Ba em giận lắm nhưng cố dằn. Ba em đưa
mắt ra hiệu cho ông trung sĩ dưới quyền. Ông nầy vào
trong lấy ra một cái khay bằng sơn mài rất đẹp trên có
trải vải nhung xanh. Ông trung sĩ trịnh trọng bưng khay
đến trước mặt ông thiếu tá và nói: “Xin
thiếu tá vui lòng tạm cởi lon cho vào đây”.
Ông thiếu tá tiếp tục nhìn ba em với dáng vẻ khiêu
khích rồi cởi ngay hai mai bạc vứt vào khay và đứng
chống nạnh. Ba em bước ra khỏi bàn, đến nói một cách
lịch sự: “Mời
ông vào trong nói chuyện”.
Ông thiếu tá đi theo. Vừa qua khỏi cửa, ba em quay lại
túm cổ áo ông thiếu tá đã bị lột lon, tát môt cái
rất mạnh làm ông nầy ngã chúi vào vách. Ông đứng lên
định xông vào thì ba em chỉ vào lon trung úy của mình và
hô to: “Nghiêm”.
Viên trung sĩ rút súng ra lên đạn còn ông thiếu tá bi
lột lon lùi lại đứng nghiêm, mặt trắng bệch. Sau đó
ba em mời ông ta trở ra văn phòng để làm việc. Không
biết ba em làm biên bản thế nào mà ông ta trở về đơn
vị, không bị kỷ luật gì cả. Bây giờ, hai người là
bạn thân. Hiện ông ấy là đại tá ở Tổng tham mưu.
Sinh
lấy làm lạ:
-
Ông ấy không thù ba em về cái bợp tai à?
-
Có một lần má hỏi ba một câu y như anh vừa nói. Ba
giải thích rằng ông ấy là người rất đứng đắn chỉ
phải lỡ nghe theo lời xúi dục của mấy nhà sư. Nói
chuyện với ba một lát, ông nhận ra lỗi của mình. Ông
còn nói chính nhờ cái bợp tai mà ông nhận ra lẽ phải
một cách nhanh chóng. Ba nói thêm rằng những người có
máu nhà binh thì thường cởi mở và không thù dai. Có
phải vậy không anh?
Sinh
ngập ngừng:
-
Anh không biết vì trong quả tim anh chưa có máu nhà binh mà
chỉ chỉ có hình bóng người yêu thôi nên cũng không thù
dai mà chỉ có yêu thương thôi.
Trang
Đài mỉm cười sung sướng. Sinh hỏi tiếp:
-
Bây giờ hai ông có còn lui tới với nhau không?
-
Có, thỉnh thoảng ông đại tá đó đến đây uống rượu
với ba em thực là vui vẻ.
-
Rồi sao nữa?
-
Rồi thôi. Hai ông uống rượu hết chai thì ông đại tá
về chứ ngồi uống hoài sao?
Sinh
cười:
-
Hai ông không thể uống mãi được. Còn anh có thể ngồi
hoài đây nghe em kể chuyện từ ngày nầy qua ngày khác
cũng được.
Nàng
nhìn Sinh âu yếm:
-
Ngày xưa cái bà gì đó đứng trông chồng lâu, hóa đá.
Còn anh ngồi đây lâu sẽ thành cây si mọc lên thay thế
cây bàng nầy.
Sinh
thích thú về cách ví von của người yêu, nên tiếp lời:
-
Cây si đó rất bằng lòng cho thân phận của mình vì hằng
ngày được ngắm nhìn em qua lại. Khi em ngồi xuống đây
thì cây si sẽ cố vươn cành lá để phủ bóng mát lên
người em.
Tuy
nói thế chứ Sinh vẫn là con người chứ chưa thành cây
si được nên cũng phải tới lúc ra về. Trang đài tiễn
người yêu ra cổng. Hai bạn trẻ chia tay trong bịn rịn.
*
*
*
Sáng
chủ nhật nhớ nhung trước kia của Sinh bây giờ trở
thành sáng hò hẹn. Hai tuần một lần hai bạn trẻ lại
gặp nhau và ngồi tâm tình dưới gốc cây bàng mát rượi.
Nội dung những câu chuyện chẳng có gì đáng kể, họ
chỉ cần nuốt từng ánh mắt, từng tiếng nói của nhau.
Sau một vài lần, Sinh để ý chưa bao giờ gặp mặt ba
của Trang Đài, người mà thầy Văn đã tạo nơi cậu
hình ảnh một kẻ ác ôn khát máu, còn người yêu thì mô
tả như người hiền lành nhưng cương nghị, hết lòng vì
nhiệm vụ nhưng đối xử nhân đạo với người biết
hối lỗi. Một hôm Sinh hỏi thẳng:
-
Từ hôm đến đây, anh chưa hề gặp mặt ba em tại nhà.
Sáng chủ nhật mà bác cũng đi làm sao?
Nàng
giải thích:
-
Anh đọc báo chắc cũng đã thấy tình hình quân sự đang
căng thẳng lắm vì vậy lệnh cấm trại kéo dài triền
miên. Tuy vậy mỗi tuần ba cũng về thăm nhà một đôi
lần. Ngành của ba không trực diện với các đơn vị vũ
trang của Việt cộng nhưng theo lệnh chung cũng phải cấm
trại. Do đó, ba cho nhân viên thay nhau về thăm gia đình.
Phần lớn muốn về nhà ngày chủ nhật để vợ chồng
con cái sum họp trong ngày nghỉ. Ba phải nhường cho thuộc
cấp và luân phiên về trong ngày thường.
-
Bác có lòng tốt với thuộc cấp quá.
-
Không phải với thuộc cấp không thôi. Với bạn bè và
tất cả chiến hữu đang xông pha ngoài mặt trận, ba cũng
thường tỏ ý xót xa. Ba thường bảo:”
Mình ở đây tương đối bình an, cần phải nghĩ đến
những người đang chịu biết bao gian nguy, dành từng tấc
đất với Việt cộng ngoài chiến trường để bảo vệ
miền Nam tự do nầy. Tuân theo lệnh cấm trai một cách
nghiêm túc cũng đỡ bớt áy náy khi nghĩ đến họ”. Ba
em nói như thế khi thấy mẹ tỏ ý buồn vì ba thường
xuyên vắng mặt tại nhà. Ba còn bảo rằng vào ngủ trong
trại lính nhớ má lắm nhưng không làm khác được.
Sinh
nhìn Trang Đài, nói một cách tha thiết:
-
Ba má đã lớn tuổi mà đối xử với nhau thực là tình
cảm. Chúng mình phải lấy đó để làm gương sau nầy.
Trang
Đài liếc nhìn người yêu rồi cúi đầu đỏ mặt, làm
cho Sinh càng ngây ngất.
Nàng
ngửng lên, nói tiếp:
-
Em có nghe người ta nói an ninh quân đội thì rất đáng
sợ. Không biết người khác thì sao chứ ba em thì chẳng
có gì đáng sợ cả. Thế nào anh cũng có dịp gặp ba em
và anh sẽ thấy em nói không sai đâu.
-
Anh tin chắc điều đó.
Sinh
đáp lại một cách thành thực. Mặc nhiên cậu thừa
nhận, nhưng vẫn cố chống chế cho định kiến mà thầy
Văn đã cấy cho cậu, bằng cách nghĩ rằng, trong đám ác
ôn, chỉ một mình ông là người hiền lành, vì một lý
do duy nhất: ông là cha của người mình yêu.
*
*
*
Thông
thường, chuyện gì còn chưa thông về đường lối cách
mạng, Sinh thường hỏi thầy Văn trong những buổi sinh
hoạt đoàn. Riêng câu chuyện yêu đương nầy thì cậu
không hề hé môi. Trước đây chỉ mới nghĩ rằng người
yêu thuộc gia đình tư sản cũng đã gây cho Sinh mặc cảm
tội lỗi đối với cách mạng. Huống chi bây giờ biết
rõ gia đình người yêu là kẻ thù số một của Mặt
trận thì cái mặc cảm đó tăng lên bội phần. Nhưng làm
sao giấu mãi được. Chính thầy Văn tình cờ khám phá ra
điều nầy.
Đó
là một chủ nhật khô ráo của đầu tháng tư năm 1974,
thầy Văn có cuộc họp chi bộ nơi địa điểm bí mật ở
hẻm Cao thắng, sau chùa Kỳ viên. Thầy đến hơi muộn vì
bị hư xe. Từ ngã tư Phan đình Phùng, thầy rẽ phải và
đâm vào ngỏ hẻm. Thầy giật mình đạp thắng, hoảng
hốt nhìn về địa điểm hội họp. Một đám đông bu
đen phía trước. Tim thầy muốn rụng xuống khi nghe có
tiếng người gọi nhau:
-
Ê, lại coi bắt Việt cộng đằng đó.
Một
giọng khác tiếp theo:
-
Ông Việt cộng bị giết chết rồi.
Thầy
cảm thấy tối tăm mặt mày nhưng cố tự trấn tĩnh,
vòng xe lại, định rú ga lao về hướng đường Phan thanh
Giản. Nhưng một lần nữa, thầy lại đạp thắng. Thầy
vừa thấy đồng chí Sinh dắt xe vào ngôi biệt thự sang
trọng. Thầy biết đó là nhà riêng của một thiếu tá
an ninh quân đội, qua thông tin của tổ chức. Trước đây,
khi giao cho thầy quản lý địa điểm nầy, tổ chức đã
mô tả tình hình dân cư chung quanh địa bàn. Chỉ có hai
nhà đáng lưu ý. Một là nhà của một cảnh sát ở hẻm
sau, hai là nhà thiếu tá an ninh quân đội ở mặt đường
Cao Thắng.
Khi
chiếc xe của Sinh vào xong, cánh cổng đóng sầm lại,
ngôi nhà trở nên kín mít. Thầy run lên, cơ hồ không
ngồi vững trên xe. Hình ảnh thực xa xưa chợt hiện ra
rõ rệt trong đầu thầy. Cha và chú của thầy đã bị
hai thằng phản bội giết chết, không lẽ bây giờ đến
phiên thầy cũng bị phản bội nữa hay sao? Thầy rú ga,
lao tới thật nhanh, trong lòng trăm mối tơ vò.
Thế
là bể ổ. Thầy may mắn thoát chết nhờ xe hư nhưng tiêu
mất hai đồng chí trong chi bộ rồi. Tại sao Sinh lại vào
ngôi nhà đáng sợ đó đúng vào lúc nầy? Thầy cố nhớ
lại chuyện vận động và giáo dục Sinh trong bao năm qua.
Tuyệt không có một dấu hiệu phản bội nào. Câu chuyện
Sinh dán cờ Mặt trận và viết khẩu hiệu năm ngoái có
vi phạm trầm trọng nguyên tắc nằm vùng nhưng lại là
một chứng minh hùng hồn cho nhiệt tình cách mạng của
cậu và chính vì lẽ đó mà thầy đã nhanh chóng đưa
Sinh vào tổ chức đoàn. Không lẽ thầy bị thằng nhóc
con nầy qua mặt hay sao?
Vô
lý. Ở nó, không hề có một nét nào gọi là xảo quyệt.
Rồi thái độ thành khẩn xúc động hôm tuyên thệ vào
đoàn. Tuổi đời nó có bao lăm, làm sao nó đóng nổi vai
trò gián điệp để qua mặt thầy được. À, nó có hai
thằng bạn thân đi học trường sĩ quan. Cũng chẳng sao.
Địch đã ban hành lệnh tổng động viên thì ở thành
phố nầy, chuyện thanh niên nườm nượp chui vào quân ngũ
của địch là chuyện quá thông thường.
Rắc
rối lắm đây. Phải điều tra cho kỹ. Nếu đúng nó là
gián điệp thì phải nhanh chóng khử nó đi không thương
tiếc. Nếu nghi oan cho nó thì cách mạng có thể mất đi
một đồng chí và cũng tội cho nó, hiền lành dễ thương.
Một
kế hoạch điều tra nhanh chóng hình thành trong đầu người
cán bộ dày dặn kinh nghiệm nầy.
Trước
tiên là xem đồng chí Bá cùng chi đoàn bây giờ ra sao.
Nếu Bá đã bị bắt thì mình cần phải lánh nó và đề
nghị tổ chức cử người túm lấy nó đem đến một nơi
bí mật để tra khảo. Chuyện nầy không khó vì nó sống
một mình trong một gian nhà biệt lập giữa khu vườn
rộng. Trong trường hợp Bá chưa bị bắt thì chỉ cần
đề phòng và sau đó tìm cách hỏi thẳng nó là sáng chủ
nhật đi đâu. Nếu nó nói sai hoặc chối quanh thì đích
thị rồi. Nếu nó thú nhận đã vào nhà thiếu tá an ninh
quân đội thì yên tâm phần nào nhưng buộc nó phải cho
biết vào đó để làm gì.
Thôi
chuyện đó tính sau. Bây giờ phải lo nắm tình hình chính
xác chuyện bể bạc nầy để báo lên cấp trên và lo
việc đối phó trước khi có chỉ thị của tổ chức.
Trước hết là đến ngay nhà đồng chí Bá để xem đồng
chí đó có bị bắt hay không. Thầy muốn nhờ người
khác hỏi thăm nhưng không biết nhờ ai. Học sinh thường
thì không được vì nói với nó thế nào đây. Người
trong tổ chức thì càng không được vì nguyên tắc bảo
mật không cho phép làm chuyện đó. Thôi thầy đành phải
đích thân đi.
Thầy
cho xe ra đường Lê văn Duyệt và hướng thẳng về ngã
tư Bảy hiền. Thầy vào một quán giải khát, đối diện
với một con hẻm nhỏ, để ý quan sát. Thầy uống vội
ly nước và lên xe chạy vào hẻm. Thầy cố giữ nét mặt
bình thản, nhìn thẳng về phía trước nhưng rất chú ý
chung quanh. Không có dấu hiệu gì khả nghi, thầy chạy
thẳng đến nhà Bá. May quá, Bá đang ngồi chấm bài bên
cửa sổ nên khi thầy Văn dừng xe là Bá thấy ngay. Bá
sửng sốt và biết là có chuyện quan trọng nên chạy ra
dù đang mặc quần ngắn và mình trần. Thầy Văn bảo
nhỏ:
-
Ra đầu hẻm, rẽ phải độ ba trăm mét, tôi đợi ở đó,
nhanh lên.
Thầy
quay đầu xe, chạy vội về phía trước và dừng lại chỗ
vừa nói, quan sát chung quanh. Hai phút sau, Bá đến. Hai
người chạy thêm một đoạn nữa và ghé vào một quán
cà phê bên đường. Ngồi xuống và gọi nước uống
xong, thầy nói ngay:
-
Chỗ kết nạp Sinh hôm nọ bị bể rồi. Chưa biết nguyên
nhân gì. Có thể có hai đồng chí bị bắt. Anh phải đề
phòng. Sinh có dấu hiệu khả nghi nhưng đừng để lộ sự
nghi ngờ khi gặp nó. Chỉ nghi thôi, chưa chắc đúng nhưng
cần đề phòng. Trong những ngày tới, anh có thể mất
liên lạc với tôi. Cứ kiên nhẫn chờ đợi. Tổ chức
sẽ liên lạc lại. Mật khẩu là bí danh của tôi. Nhớ
chưa? Bây giờ, anh về đi. Cần quan sát kỹ. Nếu thấy
động thì lặn về quê ít lâu rồi lên tìm cách liên lạc
lại. Nhớ, nếu phải đi thì cố gắng giải quyết việc
nhờ dạy ở trường để có thể trở lại cơ sở hoạt
động và sinh sống. Bây giờ tôi đi trước. Anh ngồi nán
lại năm phút rồi ra sau. Thôi, chào.
-
Khi cần tôi có thể đến gặp đồng chí Sinh tại nhà
hay không?
-
Được, nhưng phải hết sức cẩn thận.
Thế
là mối nghi ngờ về Sinh được giải tỏa một chút khi
Bá chưa bị bắt. Sẽ điều tra tiếp về việc vào nhà
thiếu tá an ninh quân đội. Bây giờ phải tìm chỗ ẩn
náu một vài bữa.
Ẩn
náu tại đâu? Điều nầy thì thầy đã dự tính từ lâu
rồi, không có gì là khó. Ngày thì đi lang thang đâu đó:
quán cà phê, vườn Tao đàn, Sở thú, rạp chiếu bóng.
Muốn thoải mái hơn thì ra ngoại ô, thuê một cần câu,
mua một ít mồi, sau đó có thể trải qua buổi sáng và
buổi chiều một cách nhẹ nhàng. Đêm thì về xóm Bình
khang cũ. Ở đó, thầy là mối quen của một cô ả tầm
thường nhưng khá dễ chịu. Hơn hai tháng rồi, vì bận
việc nên thầy không đến. Hôm nay sẽ đến ở lại đêm
tại đó, chịu chi thêm chút ít, nhưng chẳng sao. Ở cái
đất Sài gòn, trong thời buổi loạn ly nầy, chỉ có nơi
đó qua đêm là an toàn nhất. Khách sạn thì phải bao gái,
tốn kém hơn, lại phải trình giấy tờ lôi thôi lắm. Ở
cái xóm chơi bời bình dân đó thì hay hơn nhiều, miễn
là cẩn thận quan sát kỹ một chút; không phải đề
phòng công an mật vụ mà đề phòng học trò bắt gặp.
Thầy
tấp vào một quán nhậu, gọi một chai bia. Chủ quán mang
bia ra hỏi thầy dùng mồi nhậu gì thì thầy lắc đầu.
Thầy lấy giấy ra viết nhanh:
“ Má,
Con
gặp mấy anh bạn cũ kéo đi Mỹ tho chơi, nếu con không
kịp về thì má đừng đợi cơm. Đêm nay, nếu con cũng
không về kịp thì má đừng mong.
Con,Văn”
Con,Văn”
Thầy
gấp tờ giấy làm tư, ghi địa chỉ ở mặt trước,
không cần bỏ phong bì kín. Thầy ngoắt thằng bé bán đậu
phộng rang đang ngồi trước quán, mua một gói để uống
bia rồi dúi cho nó tờ bạc cùng lá thư bỏ ngỏ. Thầy
bảo:
-
Em cầm thư nầy, đi ngay về Phú nhuận, đến số nhà nầy
trao lá thư cho một bà cụ trong nhà. Nhớ đưa nghe chưa?
Nếu mai anh về mà bà già nói không nhận được thư thì
anh sẽ đến đây tìm em để nện cho em mềm xương nghe
chưa?
Thằng
bé mừng rỡ, thề sẽ làm đúng lời thầy dặn; nếu
không làm thì xe hơi, xe lửa, tàu bay, tàu thủy cán chết
nó. Thầy đẩy vào vai nó và bảo đi ngay để thầy uống
bia. Nó ôm giỏ đậu phộng rang chạy ngay ra khỏi quán.
Ngày
hôm đó trôi qua đúng như sự tính trước của thầy. Và
đêm hôm đó, trong căn phòng tuy không được sạch sẽ
lắm, thầy cũng được thỏa mãn thể xác, với giấc ngủ
ngon lành sau đó. Sáng ra, con nhỏ cùng ngủ với thầy đêm
qua đã thức dậy sớm và ra khỏi phòng tự lúc nào rồi.
Thầy mở mắt nhìn trần mùng và bóp trán suy nghĩ. Cuối
cùng, thầy quyết định, hôm nay phải đến lớp dạy. Có
thể nguy hiểm, nhưng không thể khác được.
Thầy
vén mùng bước ra, rửa mặt, chải đầu rồi trở vào
mặc áo quần chỉnh tề. Mọi người trong nhà đều thản
nhiên như không có mặt thầy. Thực là một chỗ ẩn náu
tuyệt vời cho một cán bộ nằm vùng. Thầy móc bóp trả
tiền cho mụ chủ nhà. Mụ nhận mấy tờ bạc, liếc sơ
và thản nhiên cho vào túi áo. Thầy đẩy xe ra khỏi nhà
và đến quán điểm tâm.
Ăn
xong, thấy thì giờ còn rộng rãi, thầy lái xe chạy thực
chậm đến trường. Còn cách cổng trường hơn một trăm
mét, thầy khựng lại. Tám Thà đang đứng trước cửa
trường. Đó là một trong hai đồng chí của chi bộ mà
thầy tưởng đã bị bắt ngày hôm qua. Thầy biết sáng
nay Tám Thà có giờ dạy ở trường Vương Gia Cần và
thầy hiểu lý do giờ nầy anh ta có mặt tại đây. Tuy
nhiên thầy cũng phải quan sát kỹ chung quanh vì vẫn phải
đề phòng trường hợp đồng chí nầy đã bị bắt và
dẫn công an mật vụ đến đây tìm thầy. Thầy nhìn một
lượt từng căn nhà, từng gốc cây chung quanh; chẳng có
gì tỏ ra khác thường. Thầy nhìn kỹ Tám Thà dù phải
đứng xa xa. Thầy yên tâm khi thấy người đồng chí nầy
có dáng vẻ bình thường và khỏe mạnh
Tám
Thà đã nhìn thấy thầy vì anh ta đứng quay mặt về
hướng thầy đang đến. Anh ta vội chen vào trường với
học trò. Thầy cho xe chạy thực chậm vào theo. Tám Thà
đi thẳng đến văn phòng nói gì đó với cô thư ký vài
câu rồi bước ra. Thầy Văn cũng vừa cất xe xong. Hai
người xáp đến gần nhau, tỏ vẻ mừng rỡ như hai bạn
gặp gỡ một cách tình cờ. Thầy Văn hỏi, giọng oang
oang:
-
Anh Quý, ngọn gió nào thổi anh đến đây vậy?
-
Tôi vào nhờ nhà trường để ý đến thằng cháu học
lớp tám. Dạo nầy, nó có vẻ chểnh mảng.
Thầy
Văn vẫn nói thực to:
-
Lớp tám học buổi chiều. Cháu của anh học lớp tám
nào?
-
Tôi không nhớ rõ, nhờ văn phòng dò danh sách sau.
Thầy
Văn liếc về cái băng đá cuối sân. Quý, tức là Tám
Thà hiểu ý. Hai người đến đó ngồi. Học trò đang đến
trước lớp chờ vào học, nên các băng đá đều để
trống.
Tám
Thà cười thật tươi, tiếng nói nho nhỏ lẫn trong tiếng
cười:
-
Tư Đạt chết rồi!
Thầy
Văn chết điếng trong lòng nhưng thầy nhập vai, cười ha
hả thực khoái trí. Tám Thà nói tiếp:
-
Tôi đến điểm hẹn sau Tư Đạt và lập tức nhận ra nó
đang bị mật vụ theo dõi mà không hay. Nó vào nhà được
hai phút thì hai thằng mật vụ lao vào theo. Tôi dừng lại
ở phía đường Bàn cờ, sau chùa Kỳ viên, thấy nó ra
bao lơn phía sau, phóng qua mái nhà. Tôi thấy cái bóng gầy
gầy của nó chới với, hai tay quơ lên trời. Tôi cầu
khẩn nó lấy lại được thăng bằng để thấy nó chạy
trên mái nhà ra hẻm sau nhưng chẳng thấy gì cả. Vậy là
nó rơi xuống rồi. Dưới đó thì anh đã biết, ôi thôi,
đủ thứ lu hũ, thùng bộng, dao rựa. Tôi nghe có tiếng
đàn bà hét lên từ hướng đó. Tôi hoảng quá, quay xe
đánh một vòng qua Nguyễn Thiện Thuật, vào Chợ lớn rồi
liều mạng trở lại nắm tình hình. Tôi trà trộn vào
đám đông hiếu kỳ, thấy người ta đặt nó nằm trên
cánh cửa khiêng ra. Có cái khăn lông đắp trên mặt nó,
máu thấm đỏ. Nó nằm không nhúc nhích. Một chốc sau có
xe tải thương chở nó đến Trung tâm cấp cứu Sài gòn.
Tôi chạy xa xa phía sau để theo dõi. Sau khi người ta
khiêng nó vào trung tâm thì tôi bỏ đi đến nhà bà con ở
chơi tới chiều, rồi đến kiếm anh tại nhà. Bác gái
nói anh đi Mỹ tho chơi rồi.
Thầy
Văn vẫn cố giữ nụ cười trên môi hỏi nhỏ:
-
Sao anh biết Tư Đạt chết?
-
Khi đêm, tôi nhờ người đến dò la tại nhà đồng chí
đó và được biềt là vừa đến nhà thương thì Tư Đạt
tắt thở. Nó bị vỡ đầu vì đập phải vật cứng và
sắc bén khi rơi xuống.
-
Thế có nghĩa là không bị bể bạc gì cả?
-
Theo tôi thì không. Có lẽ, trên đường đi, Tư Đạt vô
ý để cho tụi nó nghi và theo dõi.
Thầy
Văn hỏi tiếp:
-
Chiều hôm qua, anh đến nhà tôi lúc mấy giờ, thấy có
gì lạ không?
-
Khoảng hơn sáu giờ. Không có gì lạ hết. Nếu có, làm
sao tôi dám vào gặp bác gái.
-
Ở đằng địa điểm, anh có thấy mẹ con chị bán rượu
không?
Tám
Thà trả lời ngay:
-
Không, chắc chắn hai mẹ con bỏ trốn ngay rồi.
-
Được rồi. Sơ khởi, tôi nhận định rằng tổ chức
chưa bị bể, chỉ mất một đứa con thôi. Anh về trường
dạy đi. Hẹn gặp lại trong buổi sinh hoạt sắp tới ở
một địa điểm khác tôi sẽ cho biết sau. Chào.
Hai
người cười ha hả, cùng đứng lên bắt tay nhau một
cách lịch sự.
Tan
buổi dạy, thầy Văn chạy thẳng về nhà. Mẹ thầy đang
làm cơm trong bếp. Cửa mở nên thầy dẫn xe vào, xuống
chào mẹ, thay áo quần rồi nằm vật ra giường. Thầy sợ
hãi nghĩ đến người đồng chí đã hoạt động chung với
thầy trong hơn hai năm. Tư Đạt ốm yếu và chậm chạp
chứ không được như Tám Thà. Vì vậy, đồng chí đó
không vượt qua được cái “hẻm tử thần” ở phía
sau nhà hội họp. Chắc chắn mật vụ truy tìm ra tung tích
và trả xác về cho gia đình. Bọn nó cũng không có lý do
gì để làm khó dễ gia đình vì có bằng chứng nào đâu
để kết tội Tư Đạt làm cách mạng. Tuy nhiên, bọn nó
sẽ đặt một cái bẫy to tướng trong những ngày làm ma
chay cho Tư Đạt. Thương bạn lắm nhưng thầy cũng sẽ
không dại gì đến đó để sa vào bẫy. Tám Thà chắc
cũng biết điều đó nên thầy tạm yên tâm.
Thế
là, cùng lúc, thầy mất một đồng chí và một địa
điểm họp rất tốt. Thầy nằm ôn lại những kỷ niệm
với Tư Đạt, và những kỷ niệm với ngôi nhà bí mật.
Thầy nhớ những hôm họp chi bộ căng thẳng, thầy thường
tìm thư giãn bằng cách ra bao lơn phía sau để hưởng gió
mát.
Từ
bao lơn đó, thầy nhìn quanh và thấy được ở xa xa tầng
lầu và mái ngói đỏ của nhà tên thiếu tá an ninh quân
đội. Thầy nhớ tới Sinh và nghĩ rằng cần phải sớm
tiến hành điều tra. Nếu quả thực Sinh phản bội thì
chắc chắn, đích thân thầy sẽ xử tội để trả thù
cho Tư Đạt và xa hơn nữa trả thù cho cha và chú của
thầy. Hai người thân yêu đó đã chết từ lâu nên không
liên can gì đến vụ nầy nhưng tất cả những tên phản
bội đều phải chịu trách nhiệm chung cho hành động của
chúng nó và phải bị xử tội một cách đích đáng.
Chiều nay, thầy phải đến địa điểm liên lạc đặc
biệt với liên chi để báo cáo sơ khởi cái chết của
Tư Đạt và mất một địa điểm hội họp. Rồi trong kỳ
sinh hoạt liên chi sắp tới, thầy phải báo cáo cặn kẽ
nguyên nhân dẫn đến thảm cảnh để cùng nhau rút kinh
nghiệm.
Chiều
thứ năm, nghĩa là bốn ngày sau sự kiện bi thương đó,
thấy tình hình vẫn bình thường, thầy Văn quyết định
đến nhà Sinh.
Đang
học bài, Sinh nghe tiếng chó ăng ẳng mừng thì biết là
thầy Văn đến. Cậu buông viết chạy ra mừng rỡ. Nhìn
nét mặt hớn hở của Sinh, thầy nói thầm:
-
Hoặc là nó vô tội, hoặc nó là một tên rất cừ khôi
trong ngành gián điệp. Được rồi, ta sẽ đấu trí với
ngươi.
Sinh
vội vàng mở cổng mời thầy vào. Hai người ngồi trước
bàn học của Sinh. Cuốn sách “bài tập điện học”
đang mở ra, quyển vở nằm ngay ngắn với một trang đang
viết dang dở. Không có gì đáng nghi ngờ. Thầy nhìn
nhanh một vòng quanh nhà, không có gì lạ.
Thấy
thầy ngồi yên lặng, Sinh lên tiếng:
-
Thầy uống nước dừa nhé, em mới hái được mấy trái.
Thầy
gật đầu. Sinh đứng dậy đi ra sau. Có tiếng phập phập
chặt vỏ dừa. Tiếng dao sắc bén bổ xuống từng nhát
bỗng dưng làm thầy ớn lạnh. Thầy Văn rùng mình, bất
chợt đưa tay lên che phía sau gáy. Phải khởi đầu cuộc
đấu trí thế nào cho thuận lợi? Trước hết phải biết
chắc chắn mấy hôm nay đồng chí Bá có đến hé lộ
điều gì về việc vừa qua để nó có thể chuẩn bị
đối phó với mình hay không. Việc đó không khó, có thể
hỏi thẳng, rồi tùy câu trả lời của nó mà xử trí
tiếp theo.
Sinh
bưng một ly to nước dừa đặt lên chiếc dĩa nhỏ trước
mặt thầy. Thầy đưa ly nước lên uống một ngụm rồi
đặt xuống bàn chậm rãi nói:
-
Tôi hoãn buổi sinh hoạt chi đoàn hai tuần lễ, Bá đã
thông báo cho em chưa?
-
Dạ chưa. Từ buổi sinh hoạt trước, cách nay gần một
tháng, em chưa gặp lại thầy Bá.
Được
rồi, Bá chưa nói gì với nó cả. Thầy tiếp tục dọ
hỏi:
-Trong
tháng vừa rồi em thấy tình hình có gì lạ đáng báo cáo
không?
Sinh
trả lời một cách thản nhiên:
-
Mọi việc vẫn bình thường, không có gì lạ cả.
Vậy
là, có thể nó muốn tránh né, cũng có thể nó chưa hay
biết biến cố thảm thương vừa qua. Bây giờ, nên đi
vào trọng tâm. Thầy nhìn sâu vào mắt Sinh, đột ngột
hỏi:
-
Em có nhà bà con hay nhà quen thân nào ở đường Cao Thắng
không?
Mặt
Sinh có vẻ bối rối làm thầy cảm thấy hồi hộp. Từ
trước đến nay Sinh không quen nói dối, nhất là với
những người đáng kính như thầy Văn. Chuyện đến thăm
người yêu thì, cho đến nay, Sinh đã không tự ý báo cáo
lại với thầy nhưng nếu thầy hỏi thì Sinh sẽ trả lời
một cách thành thật. Vì thế, Sinh đáp một cách thản
nhiên:
-
Có, em có một người bạn đang học đại học, nhà ở
đường Cao Thắng.
-
Em có đến thăm bạn không?
-
Em thường đến vào sáng chủ nhật. Chủ nhật vừa rồi,
em có đến chơi.
Thầy
Văn đưa ly nước lên uống và lơ đãng nhìn ra sân:
-
Ba bạn ấy làm nghề gì?
Sinh
ngập ngừng:
-
Dạ…, dạ, thiếu tá an ninh quân đội.
Sinh
nghe nhói trong lòng khi nói đến kẻ thù số một, đồng
thời là người cha đáng kính của người yêu. Cậu biết
rằng với thầy Văn thì tình yêu nầy và cuộc đấu
tranh giai cấp không thể sống chung hòa bình với nhau
được. Từ lâu, cậu lo sợ cái ngày phải đem vấn đề
nầy ra mổ xẻ dưới sự chủ trì của thầy Văn. Bây
giờ thì không tránh được cuộc mổ xẻ đó rồi. Thực
vậy, thầy thẳng thừng đưa vấn đề lên bàn mổ:
-
Tại sao biết đó là nhà thiếu tá an ninh quân đội mà
em vẫn đến?
Sinh
cảm thấy như hụt hơi. Tuy nhiên nét mặt mỹ miều của
Trang Đài xuất hiện đúng lúc trong trí óc làm Sinh bình
tĩnh lại và cậu có ngay câu trả lời chống chế, dù
cậu biết rõ đó là lời nói dối:
-
Em cũng có ý đến đó chơi để may ra có dịp dọ hỏi
điều gì có lợi cho cách mạng.
-
Nghĩa là em có ý muốn lập công bằng cách
“vào hang hổ mới bắt được cọp con” phải
không?
Sinh
mừng rỡ, vội đáp:
-
Dạ phải.
Thầy
ngồi dựa ngửa cười sằng sặc:
-
Chỉ sợ em chưa bắt được cọp con thì đã bị nó nhai
xương. Tôi đã nói kỹ với em lúc đầu rồi kia mà. Em
nên nhớ rằng làm cách mạng thì phải tránh phiêu lưu và
chỉ được làm cái gì mà lãnh đạo cho phép, tôi đã
nói với em điều đó rồi, em không nhớ sao?
Sinh
cảm thấy như tim mình bị bóp nghẹt. Cậu tiếp tục tìm
cách chống chế dù cậu biết rằng bất cứ lời biện
bạch nào bấy giờ cũng khó được thầy Văn chấp nhận:
-
Em định báo cáo việc nầy với thầy nhưng chưa có dịp.
Thầy
nhìn Sinh với cặp mắt thực nghiêm trang:
-
Thôi em không cần phải nói gì nữa. Thầy khuyên em từ
rày về sau đừng lui tới đó nữa.
Sinh
đau đớn, vì cậu biết rằng lời khuyên của thầy chính
là mệnh lệnh của thầy và, hơn nữa, mệnh lệnh của
cách mạng. Trong đầu của cậu hiện ra gương mặt cực
kỳ diễm lệ dưới bóng mát của cây bàng, trong tai cậu
văng vẳng giọng nói thánh thót của người yêu. Cậu cố
vớt vát một cách tuyệt vọng:
-
Đằng đó cần một người kèm cậu con trai lớp tám học
thêm. Em cũng muốn kiếm tiền.
Thầy
trợn mắt nhìn thẳng vào mặt Sinh:
-
Ủa, em nói có số tiền mẹ em để lại đủ cho em ăn
học mà. Em muốn tích lũy thêm hay sao? Không cần, cách
mạng sắp thành công rồi. Bộ Chính trị đã ban lệnh
tổng tấn công. Ngụy quyền sắp sụp đổ, miền Nam sắp
thống nhất với miền Bắc, cả nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Đời sống toàn dân sẽ được đảng chăm
sóc từng miếng cơm manh áo. Em là người đã cống hiến
cho cách mạng thì còn lo làm gì việc để dành tiền. Em
hiểu chưa?
-
Dạ hiểu.
Thấy
Sinh buồn xo, giọng đáp xuội lơ, thầy nghĩ rằng đồng
chí trẻ tuổi nầy muốn lập công mà không được phép
nên thầy an ủi:
-
Thầy ghi nhận em có ưu điểm là đề xuất được ý
kiến thâm nhập vào nhà tên thiếu tá an ninh quân đội
và nhất là biết phương pháp xâm nhập với tư cách
người kèm trẻ. Đưa được người của mình vào nhà
một tên sĩ quan cao cấp của ngành ác ôn nầy là một
thắng lợi của cách mạng. Thầy sẽ đề đạt điều
nầy lên lãnh đạo để trên cứu xét và đưa người có
khả năng hơn em vào công tác đó. Thôi thầy về. Hẹn
gặp lại.
Sinh
tiễn thầy ra về. Xe nổ máy, thầy tiến ra đường nhựa,
lòng cảm thấy thơ thới. Người đồng chí của thầy
đáng được cách mạng tiếp tục tin dùng. Nhưng theo
nguyên tắc hoạt động địch hậu, trong trường hợp
nầy, chỉ được tín nhiệm năm mươi phần trăm thôi,
còn năm mươi phần trăm vẫn phải cảnh giác.
Sau
khi thầy đi rồi, Sinh thất thểu vào nhà, nằm dài trên
giường. Bữa cơm chiều hôm đó, Sinh chỉ nuốt được
hai miếng rồi đổ cả cho con Tăng. Dọn dẹp xong, cậu
bắt ghế ra ngồi ngoài hiên, bất động như pho tượng,
lòng vẫn tiếp tục đau buốt vì cái lệnh cấm đến nhà
người yêu. Đến gần mười giờ cậu vào nhà đóng cửa
tắt đèn và lên giường. Cậu bỏ cả cử nghe đài Giải
phóng hay đài Hà nội như thường lệ nhưng không ngủ
được mà nằm thao thức đến gần sáng mới thiếp đi
một chút thì tiếng chim bên cửa sổ đánh thức dậy.
Trời đã sáng tỏ nên cậu lật đật ra khỏi giường,
súc miệng rửa mặt và thay áo quần. Đứng trước gương,
cậu tự nhận thấy, chỉ qua một đêm mà vẻ hốc hác
và tiều tụy hiện rõ trên đôi mắt thâm quần. Cậu
buồn bã thở dài rồi dẫn xe ra khỏi nhà.
Hôm
nay, theo sự luân phiên nhóm, cậu sẽ gặp một thí nghiệm
khó, cần nhiều chú ý. Cậu ngồi trên băng ghế trước
phòng thí nghiệm, nhắm mắt lại, cố giữ đầu óc trống
rổng để được thư giãn. Bỗng, một mùi thơm thoang
thoảng bay qua mũi làm Sinh mở mắt. Không gian như sáng
rực lên; trước mắt cậu, Trang Đài đang đứng nhìn
cậu, nét mặt lo lắng:
-
Anh Sinh, sao thế nầy, anh bị bệnh hả?
Sinh
ngồi ngay ngắn lại. Cậu cảm thấy bao nhiêu mệt mỏi
đêm rồi đều tiêu tan. Trang Đài ôm cặp học đứng
khép nép y như trong tấm ảnh treo tại nhà. Sinh say đắm
nhìn người yêu:
-
Không, anh không bệnh gì cả. Hơi mệt vì đêm qua thức
quá khuya. Em có khỏe không?
-
Em khoẻ. Còn một tháng nữa là bắt đầu thi viết. Bài
vở chưa thuộc còn nhiều lắm, em muốn học khuya mà mẹ
không cho học quá mười một giờ. Mẹ bảo con gái không
nên thức khuya, hại cho sức khỏe và cho nhan sắc.
Sinh
cười:
-
Em về thưa với mẹ là anh cám ơn mẹ rất nhiều.
Nàng
cười bẽn lẽn trông xinh đẹp lạ lùng. Sinh thầm nghĩ,
với nụ cười nầy thì tất cả cái bộ Chính trị nào
đó mà thầy Văn hay nói đến cũng khó mà làm cho cậu xa
nàng được. Tuy nhiên, cái lệnh cấm của thầy ngày hôm
qua còn văng vẳng bên tai. Sinh không muốn thẳng thừng
đối chọi với lệnh ấy. Nên hòa hoãn ít nhất một
thời gian rồi tính sau. Thời gian đó chính là hơn ba tuần
lễ chuẩn bị thi sắp tới. Sinh đề nghị:
-
Gần đến kỳ thi rồi. Anh lo cho em nhiều hơn cho anh. Thôi
từ nay đến khi thi xong, anh không đến nhà em nữa, em có
thêm sáng chủ nhật để học bài.
Nàng
im lặng, mặt thoáng buồn. Sinh thấy vậy, an ủi:
-
Gần như ngày nào chúng mình cũng gặp nhau tại trường.
Thi xong, rảnh rỗi, anh đến thăm em thường hơn. Chúng
mình có cả ba tháng hè mà.
Nàng
mỉm cười, nét mặt tươi ra:
-
Vậy cũng được. Thôi em lên phòng học. Anh phải giữ
gìn sức khỏe, nếu không em giận. Nhớ chưa?
-
Em ra lệnh cho anh đó phải không?
-
Đúng, em ra lệnh đó. Anh phải tuân theo.
Trang
Đài cười khúc khích và bước về phòng học. Nàng đi
rồi, Sinh nghĩ thầm: “Hai ngày nhận được hai lệnh,
một lệnh làm cho lòng mình tan nát, một lệnh đem đến
xiết bao êm đềm!”
*
*
*
Khi
những cơn mưa đầu mùa dội xuống, xua tan cái oi nồng
của mùa xuân vùng nhiệt đới, thì tuổi trẻ thành phố
bước vào mùa thi. Biết bao tâm tình bồn chồn, hy vọng
lẫn lo âu. Trong số nầy hẳn phải có Sinh và Trang Đài.
Gần một tháng nay hai bạn trẻ không gặp nhau ở nhà. Họ
thực sự lao vào cuộc đua nước rút để giật lấy
chứng chỉ đại học.
Sinh
thi trước. Cậu vượt qua dễ dàng hai chặng đường lý
thuyết và thực hành. Khi cậu bắt đầu vào vấn đáp
thì Trang Đài khởi sự nhập cuộc. Cậu đưa người yêu
đến tận phòng thi rồi mới trở về bắt thăm vấn đáp.
Khi trả lời xong câu hỏi cuối cùng, cậu được giáo sư
khen ngợi và báo cho cậu biết là đã đậu chứng chỉ,
tuy nhiên còn phải đợi niêm yết chính thức để biết
thứ hạng của mình. Cậu bước ra sân, lòng phơi phới.
Nơi phòng thi của Trang Đài, thầy giám thị vẫn còn đứng
tựa cửa sổ nhìn vào. Điều đó có nghĩa là giờ thi
chưa hết. Sinh đi ra phía trước, đến chân cầu thang và
đứng đó đợi người yêu. Vài sinh viên xong sớm xuống
trước và Trang Đài thuộc nhóm ra sau cùng.
Nhìn
thấy Sinh, nàng cười rất tươi. Trong lúc phấn khởi,
Sinh đưa một tay ra, nàng cầm lấy để xuống bậc thang
cuối cùng. Tay trong tay, họ đi ra sân trường. Đây là
lần đầu tiên, họ nắm tay nhau đi trong khuôn viên đại
học. Các sinh viên có mặt chẳng ai thèm để ý vì bận
lo nghĩ đến những bài thi sắp tới. Sau khi vui mừng cho
Sinh biết bài thi rất tốt, Trang Đài từ giã về nhà để
chiều trở lại thi môn thứ hai.
Chứng
chỉ dự bị của Trang Đài có nhiều môn thi lý thuyết
lẫn thực hành nên kéo dài đến hơn hai tuần lễ. Ngày
nào Sinh cũng vào trường mặc dù kết quả kỳ thi của
cậu đã được công bố và Sinh đậu hạng cao. Cậu đưa
đón Trang Đài mỗi bữa. Ngày nào cậu cũng mang theo một
tạp chí để đọc trong khi người yêu ngồi trong phòng
thi. Những ngày Trang Đài vấn đáp, Sinh vào ngồi hẳn
trong phòng thi để chờ đợi và để khuyến khích người
yêu.
Đến
giờ thi môn vật lý, giáo sư nhìn xuống thấy Sinh trong
lớp. Ông ngạc nhiên vì mới hỏi vấn đáp Sinh ở chứng
chỉ chuyên khoa hai tuần trước đây. Tuy nhiên khi thấy
cô gái đẹp đang ngồi đợi kế bên, giáo sư chợt hiểu
và mỉm cười một cách vui vẻ và độ lượng.
Sau
cùng, tất cả các môn thi đều kết thúc, sáng nay hội
đồng sẽ công bố kết quả chung cuộc chứng chỉ của
Trang Đài. Rất nhiều sinh viên đứng lố nhố chờ đợi.
Khi vị giáo sư đại diện hội đồng cầm bảng danh sách
ra, tiếng ồn ào vụt biến mất, mọi người im lặng hồi
hộp lắng nghe. Vị giáo sư đọc tên thí sinh được chấm
đậu tuần tự theo thứ hạng từ trên xuống dưới. Chỉ
mới sau tên hai người là đến tên Trang Đài. Nàng quay
sang người yêu, mặt rạng rỡ. Sinh cầm lấy hai bàn tay
mềm mại của nàng. Nàng nói nho nhỏ:
-
Anh Sinh, vậy là em qua dự bị rồi. Năm học tới, em là
sinh viên chứng chỉ chuyên khoa cũng như anh vậy.
Sinh
chỉ biết im lặng đắm đuối nhìn người yêu. Họ dắt
tay nhau ra khỏi đám đông. Trang Đài ríu rít:
-
Em phải về ngay để báo tin cho mẹ. Anh Sinh, anh về nhà
với em đi. Mẹ biết anh thi đậu trước em rồi. Mẹ muốn
gặp anh để khen ngợi đó.
-
Dĩ nhiên là hôm nay anh phải đưa em về để vinh quy bái
tổ.
Họ
lấy xe và cùng ra cổng trường.
Đến
nhà, Trang Đài xuống xe bấm chuông. Nàng bấm liên hồi
nhiều cái và quay lại nhìn Sinh cười. Cậu nhìn nàng một
cách thích thú. Vẻ sang trọng đài các mà Sinh nhìn thấy
khi nàng đi chậm chạp trên sân trường đại học không
còn nữa. Trước mặt Sinh là một cô nữ sinh nhí nhảnh,
sẵn sàng chọc ghẹo mọi người. Có tiếng kéo chốt sắt
rồi cánh cổng mở tung ra. Dì Tư đứng dựa cửa, mặt
tươi rói:
-
Cô Đài đậu rồi phải không? Có cả cậu Sinh nữa. Lâu
rồi cậu không đến chơi.
Trang
Đài đáp lời:
-
Con đậu rồi, dì Tư. Dì phải thưởng đó nghe. Thưởng
cho cả anh Sinh nữa, nhớ nghe dì Tư.
-
Được rồi, cô vào nhanh đi, bà đang ở sau bếp. Sáng
giờ, bà trông cô lắm đó.
Dì
nhìn sang Sinh:
-
Vào đi cậu Sinh. Bà nhắc đến cậu mãi.
Sinh
cúi đầu chào dì và dắt xe vào. Cậu nhớ hôm đầu tiên
đến đây, thấy khớp vì cái nhà to và sang trọng,
lòng lại lo sợ bị đối xử như một người thuộc giai
cấp thấp hơn trong xã hội. Những lời nói có tính cách
nhồi nhét tư tưởng của thầy Văn, những bài bình luận
của đài Hà nội và đài Giải phóng mà cậu nghe hằng
đêm, không biết từ lúc nào đã vẽ nên trong lòng cậu
một xã hội miền Nam thực đáng ghét, gồm hai giai tầng
rõ rệt. Một bộ phận thiểu số nhà giàu bóc lột,
khinh khi kẻ nghèo. Bộ phận kia, chiếm đa số, là nhân
dân lao động nghèo đáng thương luôn luôn nuôi một lòng
căm thù sâu sắc đối với tầng lớp trên.
Trong
ngôi biệt thự lộng lẫy nầy, hình ảnh đó hoàn toàn
sai lạc. Mẹ Trang Đài là người đàn bà hiền lành với
cái nhìn phúc hậu như mẹ cậu xưa kia vậy. Dì Tư là
người giúp việc được mọi người đối xử bình đẳng
như người thân của gia đình. Trang Đài luôn luôn tỏ ra
kính trọng và thân mật với dì. Đôi khi nàng còn có cử
chỉ nũng nịu với dì nữa. Quan hệ giữa những con người
trong cái gia đình nhỏ bé nầy làm cho Sinh nghĩ rằng trên
đất nước miền Nam, hay ít nhất tại thành phố nầy,
chỉ có kẻ giàu người nghèo chứ không có giai cấp để
mà đấu tranh. Cậu nhớ xưa kia, mẹ cậu lúc sinh tiền,
thỉnh thoảng kể cho cậu nghe vài người quen phất lên
nhờ tài kinh doanh và may mắn. Họ đã chuyển từ giai
tầng thấp lên giai tầng cao của xã hội một cách tự
nhiên mà không bị ngăn cản bởi một thế lực ghê gớm
nào của xã hội.
Ý
nghĩ nầy gây cho Sinh ít nhiều buồn phiền, vì cậu đã
suy tư ngược lại với những điều mà thầy Văn đã
giáo dục về đấu tranh giai cấp của cuộc cách mạng vô
sản. Đầu óc cậu đang bắt đầu có nhiều ưu tư và
mâu thuẫn trong tư tưởng. Cậu lắc đầu cố gạt phăng
những thứ phiền phức đó đi để chỉ nghĩ đến người
yêu.
Trang
Đài bỏ Sinh ngồi một mình trên băng đá, chạy vào nhà.
Tiếng nàng tíu ta tíu tít với mẹ trong đó, rót vào tai
Sinh thánh thót như tiếng đàn. Cậu bỗng cảm thấy khu
nhà trở nên tươi đẹp hẳn ra. Cậu ngồi đây mà tưởng
như ngồi trong một vườn hoa rực rỡ, có nhạc thánh
thót và có chim líu lo. Trong lòng Sinh rộn lên một niềm
vui hòa lẫn với nỗi mến thương khung cảnh đáng yêu
nầy. Cậu cảm thấy có cái gì đó khắc khe và tàn nhẫn
trong lệnh của thầy Văn cấm cậu đến chốn nầy. Về
lý trí, cậu vẫn chưa bác bỏ lệnh của cấp trên, nhưng
về tình cảm thì đã hình thành sự chống đối rõ rệt.
Con tim và khối óc giờ đây không là đôi bạn đồng
hành.
Sinh
đứng dậy khi Trang Đài và mẹ bước ra cửa phòng khách.
Bà vui vẻ bảo Sinh ngồi xuống. Hai mẹ con ngồi đối
diện. Trang Đài nhích sát vào mẹ, thỉnh thoảng choàng
tay qua lưng bà. Bà nhìn con, mắng yêu:
-
Con nhỏ nầy, có khách ngồi trước mặt mà y như con nít.
Bà
quay sang Sinh phân trần:
-
Nó lo lắng cả tháng nay, bữa nay thi đậu, nó vui quá nên
quên là đã hơn hai mươi tuổi đầu rồi.
Sinh
nhìn bà hỏi một cách lễ phép:
-
Thưa bác, bác trai có thường về không?
-
Có. Một hai bữa ổng về một lát thôi. Ổng ốm đi quá
rõ vì lo lắng và mất ngủ. Bác gặng hỏi mãi ổng mới
nói là tình hình có thể rất nguy hiểm. Mỹ cắt viện
trợ rồi, miền Nam tự lực đánh với Việt cộng. Mà
lâu nay, chúng ta có quen tự lực đâu. Bác có kể về
cháu với ổng. Ổng cũng thích gặp cháu cho biết mặt.
Ổng nói:”Tội
nghiệp cho đám trẻ, không biết còn được học đến
bao giờ”. Ối,
ổng nói thế là tại ổng bi quan. Chớ cái thành phố nầy
thì Việt cộng vô sao nổi mà lo.
Sinh
nhớ lại những bản tin tức và bình luận của đài Hà
nội và đài Giải phóng mấy hôm rồi và hiểu rõ nỗi
lo lắng của ba Trang Đài. Trước đây những tin tức loại
nầy làm cho Sinh rất phấn khởi, còn bây giờ trong lòng
cậu bắt đầu có sự lo ngại. Sinh hiểu sự lo ngại đó
xuất phát từ tình yêu nồng thắm của cậu với Trang
Đài.
Mẹ
Trang Đài đứng dậy, cười nói:
-
Thôi, chuyện đó để cho mấy ông nhà binh lo. Hai đứa
con cứ lo việc học đi. Ngồi chơi nghe, bác vô làm việc
nhà.
Trang
Đài nhìn theo mẹ cho đến khi bà đi khuất sau cửa phòng.
Nàng quay lại, âu yếm nhìn người yêu:
-
Anh Sinh, em có chuyện bí mật, anh muốn nghe không?
Sinh
nhìn nàng, vừa ngạc nhiên, vừa hồi hộp:
-
Chuyện gì vậy?
-
Mẹ cho phép chiều nay em đi dạo phố với anh. Mẹ nói đó
là phần thưởng cho hai đứa.
Sinh
sửng sốt. Đó là điều ước mơ tự bấy lâu nay của
cậu, nhưng cậu chưa bao giờ dám đề nghị điều nầy
với Trang Đài. Giọng nàng lại thỏ thẻ bên tai:
-
Lúc đầu, mẹ còn ngần ngại. Từ trước đến nay mẹ
quen giữ em chằng chằng nên em không có bạn trai nào cả.
Sinh
cãi lại:
-
Có chứ sao lại không? À không phải bạn trai mà là người
yêu đây nầy.
-
Thôi đừng nói trăng nói cuội nữa. Nếu anh quen em sớm
hơn thì đừng có hòng. Từ khi em lên đại học thì mẹ
mới chịu chấp nhận em là người đã trưởng thành và
nới lỏng bớt sự quản lý. Em biết, việc anh và em cùng
đậu kỳ nầy làm mẹ rất vui lòng. Bà sợ nhất là em
có bạn trai rồi lơ đễnh việc học. Bây giờ, em hỏi
anh nè. Anh có thích đi chơi phố với em không?
-
Anh bán cả quả đất nầy để mua điều đó.
-
Anh khéo nịnh lắm. Mấy giờ chiều nay anh đến?
-
Tùy em. Còn anh thì thích đi ngay bây giờ.
-
Không được đâu. Mẹ chỉ cho đi một buổi chiều và
phải về trước giờ cơm. Thôi bốn giờ anh đến, đi
chơi đến sáu giờ về.
-
Không, anh sẽ đến lúc hai giờ rưỡi. Nếu em chưa cho
vào thì anh sẽ ngồi ngoài lề đường đợi.
-
Anh tham lắm. Lần đầu tiên đi ít thôi thì lần sau mới
dễ xin mẹ.
-
Thôi được. Anh dung hòa với em. Anh sẽ đến sau hai giờ
rưỡi, nghĩa là hai giờ ba mươi mốt phút. Thôi bây giờ
anh về.
Hai
bạn trẻ đứng dậy. Đến cổng, Trang Đài đưa tay nắm
lấy chốt cửa. Sinh liếc mắt vào trong không thấy ai,
cậu cầm lấy bàn tay búp măng của nàng. Trang Đài để
yên tay mình trong bàn tay ấm cúng của người yêu. Nhưng
khi Sinh kéo tay lên định hôn thì Trang Đài giựt lại mở
cổng và âu yếm bảo Sinh ra về. Sinh dẫn xe ra lề đường
và quay lại nhìn. Trang Đài đứng tựa cửa cười rất
tươi, vẫy tay chào rồi khép cửa lại.
Sinh
chưa vội đi. Cậu nhìn hai cánh cổng kín mít và bức
tường cao, bỗng cảm thấy trong lòng dậy lên một nỗi
bứt rứt và lo sợ vu vơ.
Từ
hơn một tháng nay, cậu không lui tới cái nơi thân yêu
nầy, theo lệnh của thầy Văn. Đó là thời gian hòa hoãn
mà cậu đặt ra cho mình sau lần gặp gỡ cuối cùng với
thầy. Bây giờ thời gian đó vừa chấm dứt với sự vi
phạm tràn đầy hạnh phúc vừa rồi. Lúc nãy, đi vào có
Trang Đài cùng đi chung, đầu óc Sinh chẳng còn chỗ trống
để nhớ đến điều gì khác. Nhưng khi nàng vắng mặt,
dù trong chốc lát, cái lệnh quái ác đó lại nổi cộm
lên trong lòng Sinh. Cậu lắc đầu cố xua đuổi tất cả
để chỉ còn nghĩ đến cuộc đi dạo phố với người
yêu vào buổi chiều đáng ghi nhớ hôm nay. Cậu rồ máy
xe và thẳng về nhà.
Sinh
trở lại biệt thự của Trang Đài lúc ba giờ rưỡi. Vẫn
là dì Tư ra mở cửa, nhưng kèm theo nụ cười thân mật.
Sinh hiểu ý nghĩa cái cười đó của người giúp việc
dễ thương của gia đình người yêu. Cậu dựng xe và đến
ngồi ở băng đá quen thuộc. Dì Tư, theo thói quen, bưng
ly nước mát ra mời Sinh. Cậu cầm ly nước định đưa
lên môi thì khựng lại. Trang Đài xuất hiện ở phòng
khách trong chiếc áo màu xanh quyến rũ, cái áo nàng mặc
hôm hai đứa thố lộ tình yêu ở quán nước gần trường.
Đôi môi của nàng hồng lên một chút nhờ lớp son mỏng
bên trên. Nàng bước đến bên Sinh, tà áo dài bay bay tha
thướt. Giọng nàng êm như nhung:
-
Anh lại nhìn em như một vật lạ từ trên trời rơi
xuống.
-
Không phải, anh tưởng mình là Lưu Nguyễn lạc vào chốn
Bồng lai.
-
Lúc nào anh cũng tìm cách nịnh em. Thôi mình đi.
Sinh
ngần ngừ nhìn vào nhà. Nàng hiểu ý:
-
Mẹ đang ngủ. Mình đi, lát nữa về anh chào mẹ cũng
được.
Nàng
đi vào phía nhà xe, nhưng Sinh cản lại:
-
Đi một xe của anh thôi.
Nàng
nhìn Sinh e thẹn. Sinh nói, giọng cương quyết:
-
Đi thôi. Anh chở em đi. Sinh viên đại học rồi mà còn
lạc hậu quá.
Nàng
ngoan ngoãn vâng lời người yêu.
Sinh
lái xe thẳng về trung tâm thành phố. Cậu gởi xe ở
đường Lê Lợi. Hai người dắt nhau đi trên phố chính
của Sài gòn. Cái nắng xế trưa chói chang khó chịu. Họ
đi theo bóng mát của dãy phố cao ở đường Phan bội
Châu, đến đường Lê Thánh Tôn. Sinh nhìn vào mặt Trang
Đài thấy trán nàng lấm tấm mồ hôi. Cậu dừng lại,
ái ngại:
-
Nắng nóng quá, em có khó chịu không? Mình nên vào quán
kem hay rạp chiếu bóng để tránh nắng đi.
-
Nhưng giờ nầy có đúng xuất hát không?
-
Không cần, rạp Lê Lợi thường trực kìa. Vào ra lúc nào
cũng được.
Trang
Đài đáp nho nhỏ:
-
Mình vào rạp chiếu bóng đi.
Sinh
dẫn bạn qua đường, mua vé và hai người nắm tay nhau đi
vào. Không khí trong rạp được điều hòa nên mát rượi.
Hai bạn đứng yên một chút phía sau bức màn dày che cửa
ra vào. Trong bóng tối lờ mờ, họ nhìn thấy rất nhiều
ghế trống. Sinh dẫn bạn bước vào dãy ghế cuối cùng
và ngồi xuống. Trên màn bạc đang chiếu dở dang một
cuộn phim với nhiều tiếng động.
Sinh
nhìn sang người yêu. Dưới ánh sáng nhấp nháy phản
chiếu từ màn bạc, Sinh thấy mặt nàng ẩn hiện, đẹp
lạ thường. Chưa bao giờ lòng Sinh rạo rực như lúc nầy.
Cậu đưa tay nắm lấy bàn tay mỹ miều đang đặt trên
thành ghế. Trang Đài quay đầu nhìn sang, bàn tay nàng cũng
nắm chặt tay người yêu. Sinh khẽ nghiêng mình sang để
nhìn rõ đôi mắt long lanh đang đắm đuối nhìn mình. Bàn
tay còn lại của Sinh run rẩy vuốt má nàng. Trang Đài
nhắm mắt lại và gục đầu vào vai người yêu.
Mùi
thơm của mái tóc trinh nữ làm cho Sinh ngây ngất. Trang
Đài cảm thấy cơ thể nàng nóng ran lên trong một cảm
giác lạ kỳ. Nàng nghe một tiếng gọi nho nhỏ đầy xúc
động:
-
Trang Đài em.
Nàng
ngửng mặt lên, hé mắt nhìn. Trong bóng tối lờ mờ,
nàng thấy khuôn mặt người yêu cúi xuống sát dần, sát
dần. Đôi môi nàng bỗng tê dại đi, hai thân mình tan
biến trong nụ hôn đầu đời.
Thời
gian ngừng lại hay vẫn lặng lẽ trôi qua? Làm sao họ
biết được trong giờ phút say đắm tuyệt vời nầy.
Thỉnh thoảng, Sinh ngẩng lên chăm chỉ nhìn gương mặt
diễm lệ của người yêu với đôi mắt nghiền và đôi
môi mọng đỏ vẫn đợi chờ. Sinh lại cúi xuống áp
mạnh môi mình vào đôi môi đó và cả hai lại đắm chìm
trong nụ hôn bất tận.
Bỗng
nhiên, nhạc nổi lên ầm ầm rồi đèn bật sáng, một
xuất phim vừa kết thúc.
Đôi
trẻ ngửng đầu lên bàng hoàng. Bây giờ, Sinh mới nhìn
thấy đôi mắt ngây dại của Trang Đài, nàng nhìn lại
và cũng bắt gặp đôi mắt ngây dại của người yêu.
Nàng rùng mình, ngồi thẳng dậy, lấy tay vuốt tóc. Sinh
vẫn nắm chặt bàn tay nàng. Cậu thì thào:
-
Hết phim rồi. mình ngồi đợi tiếp xuất sau em nhé?
Nàng
lắc đầu, giọng run run:
-
Anh Sinh, thôi mình ra khỏi nơi nầy đi.
Sinh
ngạc nhiên:
-
Sao vậy, còn sớm lắm, em không thích ngồi với anh sao?
-
Không, em thích ngồi mãi bên anh, nhưng bóng tối làm em
sợ.
Nàng
đưa tay lên ngực:
-
Vả lại em hơi mệt.
Nhìn
thấy vẻ thất vọng trên mặt người yêu, nàng dùng cả
hai bàn tay mình nắm lấy tay Sinh, giọng van lơn:
-
Anh Sinh, anh không tin là em yêu anh vô cùng sao? Em sung sướng
và hạnh phúc lắm. Nhưng em không hiểu sao, bóng tối vẫn
làm em lo sợ. Anh Sinh, anh chiều em đi.
Sinh
đăm đăm nhìn mặt Trang Đài. Nàng trở nên nhỏ bé và
yếu đuối như một bông hoa ẻo lả, từ đó toát ra một
nét thanh khiết lạ thường. Lòng cậu tràn ngập môt niềm
yêu thương lẫn kính trọng mênh mông. Cậu đứng dậy,
nhẹ nhàng đỡ Trang Đài lên theo. Nàng gỡ tay cậu ra để
vuốt lại hai tà áo dài. Cả hai bước ra khỏi rạp hát.
Ánh
sáng chói lòa và bầu không khí oi nồng làm hai bạn trẻ
khó chịu. Ngoài đường, có nhiều người và xe cộ qua
lại ồn ào. Sinh cúi xuống nói với người yêu:
-
Có lẽ trời chuyển mưa nên nóng bức quá. Mình lại vừa
trong rạp máy lạnh đi ra, thực khó chịu. Bây giờ em
thích đi đâu?
-
Em thích đi chỗ nào mà anh thích. Hôm nay, em để anh quyết
định. Nhưng sáu giờ, phải trả em về cho mẹ.
Sinh
vén tay áo nhìn đồng hồ. Bốn giờ bốn mươi lăm phút.
Sinh bảo bạn:
-
Mình còn hơn một giờ nữa. Đi tìm một tiệm kem có máy
lạnh ngồi nói chuyện tốt hơn là đi hít bụi ngoài phố.
Em có đồng ý không?
Nàng
ngước nhìn Sinh một cách âu yếm:
-
Anh Sinh, em đã nói hôm nay em tùy thuộc anh mà.
Cả
hai nắm tay nhau rảo bước đến ngã tư đường và đẩy
cửa kiếng bước vào một tiệm kem khá sang trọng. Họ
đến một chiếc bàn nhỏ có hai ghế ngồi. Sinh lịch sự
kéo ghế để người đẹp ngồi xuống rồi mới bước
qua chiếc ghế đối diện của mình. Cậu gọi hai ly kem
to. Lập tức, người bồi bàn đem đến.
Hai
người nhâm nhi từng muỗng kem mát lạnh. Không khí dễ
chịu của tiệm kem, thêm tiếng nhạc du dương làm cho cả
hai thấy thoải mái. Sinh nhìn vào đôi môi tươi thắm của
người yêu, cậu sung sướng mỉm cười với ý nghĩ, trên
đôi môi nầy cậu vừa đặt một chiếc hôn dài. Cậu
chờ đợi nàng ngửng lên để cậu nhìn sâu vào đôi mắt
đẹp của người yêu. Vừa rồi, trong ánh sáng chập
choạng của rạp hát, cậu đã nhìn sát vào đôi mắt nầy
và lờ mờ nhận ra một cái gì rất kỳ lạ, nó vượt
qua ranh giới của sự đáng yêu, nó gây một xúc động
cực kỳ mãnh liệt, nó đẩy cậu rơi tòm vào sự thèm
muốn của bản năng sinh tồn của con người. Khi ánh sáng
bật lên, cậu vừa kịp nhận ra cái kỳ lạ đó chính là
cái nét dại khờ, nó làm cho đôi mắt đẹp của nàng
trở thành vô cùng say đắm. Sinh muốn thưởng thức nét
dại khờ trong đôi mắt đó lâu hơn nhưng nó đã biến
mất nhanh chóng với tiếng nhạc xập xình quá to, với
ánh sáng của hàng chục bóng đèn hai bên vách và với
những bóng người lao xao trên những hàng ghế trước
mặt. Cậu cảm thấy nuối tiếc và muốn tìm lại ở
xuất hát sau, nhưng Trang Đài đã nài nỉ ra khỏi rạp
nên cậu đành phải chiều ý người yêu.
Trang
Đài vẫn đăm chiêu nhìn ly kem đã vơi đi phân nửa, nét
mặt thoáng buồn. Sinh gọi nho nhỏ:
-
Trang Đài!
Nàng
ngẩng lên mỉm cười. Sinh thấy có cái gì khang khác
trong nụ cười nầy, còn đôi mắt nhìn mình thì bình
lặng và sâu thăm thẳm. Cậu hỏi nàng:
-
Em đang buồn phải không?
Nàng
để cái muỗng vào ly, tay cầm chân của ly kem xoay qua
xoay lại trên mặt bàn. Giọng nàng nhẹ như gió thoảng:
-
Em không buồn nhưng cảm thấy mình không còn là con gái
nữa.
Sinh
sửng sốt vì ngạc nhiên. Cậu đã làm gì gọi là xúc
phạm đến nàng đâu. Trong bóng tối lờ mờ, bàn tay của
cậu bị một sức cám dỗ mãnh liệt đi khám phá những
gì sâu kín nhất của nàng để thỏa mãn lòng tự tôn
rằng tạo hóa dã dày công tạo ra sản phẩm cực kỳ quý
giá nầy và dành riêng cho cậu kể từ hôm nay. Nhưng Sinh
đã thắng sự cám dỗ đó do một sự tôn sùng khó lý
giải. Nó khác xa với sự kính phục khi cậu đứng trước
hai lá cờ Tổ quốc và Mặt trận trong buổi lễ tuyên
thệ để vào đoàn trước đây. Tất cả những gì mà
Sinh được hưởng thụ vừa qua trong rạp hát, chỉ là
trên đôi má căng phồng và mịn màng, trên làn da mềm
mại của đôi môi chín mọng. Mà những báu vật nầy
thì, ngoài những cô gái theo đạo Hồi, có ai giấu kín
trong cái nhìn của người đời đâu. Cậu lo lắng hỏi
người yêu:
-
Em hối hận vì đã để cho anh hôn phải không?
Nàng
cười thành tiếng nho nhỏ, giọng nói linh hoạt và âu
yếm hơn:
-
Không, anh nói sai rồi. Không phải anh hôn em mà chúng mình
hôn nhau. Em nói không còn là con gái nữa vì em cảm thấy
đã thuộc về anh rồi. Trước đây, khi ra đường, em
biết có nhiều người nhìn theo và em thích thú lẫn hãnh
diện. Từ nay về sau, sự thích thú lẫn hãnh diện đó
liệu có còn được phép tồn tại hay không? Anh có hiểu
em không?
Sinh
sững sờ nhìn nàng. Trong khu vườn tình yêu mà cậu vừa
bước vào, không phải chỉ có sắc đẹp mỹ miều, có
dáng điệu dịu dàng, có tiếng nói ngọt ngào mà còn
nhiều thứ vô vùng quý giá khác chưa thể nào thấy ngay
được. Tạo hóa đã dành quá nhiều ưu đãi cho người
con gái nầy, cả về thể xác, con tim lẫn khối óc.
-
Anh Sinh!
-
Em!
-
Nếu một ngày nào đó, anh không còn yêu em nữa thì
chuyện gì sẽ xảy ra?
-
Thì quả đất sẽ nổ tung và loài người bị tận diệt!
Trang
Đài cười khúc khích vì câu tỏ tình ngộ nghĩnh của
người yêu. Nàng bắt đầu cảm thấy thoải mái nên ý
nghĩ tinh nghịch lại trở về với nàng. Nàng nhìn Sinh,
giọng nghiêm trang:
-
Em muốn anh làm cho em điều nầy, không biết anh có làm
được không?
-
Anh phải cố làm cho được, dù việc đó có khăn thế
nào đi nữa. Em nói đi, việc gì?
-
Kể lại cho em nghe chuyện phim mà khi nãy anh xem trong rạp
hát.
Sinh
ngẩn người, giọng xuội lơ:
-
Anh chịu thua.
-
Một chi tiết thôi cũng được.
-
Không một chi tiết nào cả. Từ lúc bước vào rạp, cả
cái màn ảnh to chình ình anh cũng không trông thấy nữa.
Anh chỉ biết có em bên cạnh và chỉ muốn tìm chỗ ngồi
cho nhanh để hôn em thôi.
-
Thế anh có ý định hôn em khi mới bước vào rạp à?
-
Trước đó nữa.
Nàng
cười xòa:
-
Hèn chi. Mẹ thường dặn em cần phải để ý giữ mình,
kể cả với người mình thương yêu.
-
Thực là một lời dạy dỗ tuyệt vời.
Sinh
bỗng thấy tò mò nên hỏi:
-
Tại sao em có ý định xin mẹ cho đi chơi với anh hôm
nay?
-
Tại em thích gần anh một lát trong khung cảnh khác với
thường ngày.
-
Nhưng tại sao em không bàn với anh trước khi xin phép mẹ?
-
Em biết anh ước ao điều đó nên muốn dành cho anh một
sự bất ngờ lý thú. Vả lại em cũng lo mẹ không cho
phép. Bàn với anh rồi mà không thực hiện được thì
anh sẽ thất vọng, tội nghiệp anh.
Sinh
nhìn nàng đắm đuối. Tạo hóa đã cất giấu tất cả
những điều dễ thương nhất của loài người vào trong
cái kho vô tận nầy.
-
Khi đồng ý vào xem hát, em có nghĩ rằng anh sắp hôn em
không?
-
Tuyệt đối không!
-
Thế sau đó, em biết được ý định của anh từ lúc
nào?
-
Không có lúc nào cả. Em chỉ ý thức được bàn tay anh
đưa vào mặt em làm em chới với. Bàn tay đó áp mạnh
làm cho đầu em tự nhiên ngã sang vai anh. Môi em bỗng tê
dại đi rồi em không biết gì nữa. Cho đến khi đèn bật
sáng thì em mới biết anh vừa hôn em xong.
Nàng
cúi đầu, đỏ mặt e thẹn. Nàng ngửng lên nhìn Sinh cười
khúc khích:
-
Em tưởng anh thực tình dẫn em vào xem phim nên lúc đầu
em cũng chú ý đến cảnh đang chiếu trên màn bạc.
-
Em còn nhớ chút nào không?
-
Có, em nhớ lúc đó nhà đang cháy và người ta chạy nhốn
nháo.
Nàng
phụng phịu nói tiếp:
-
Anh hấp tấp quá, không để em xem cho hết phim.
Sinh
nhìn nàng như ngây như dại làm nàng cảm thấy hơi rạo
rực trong lòng. Vì vậy, nàng vội chuyển sang đề tài
khác:
-
Cảnh lửa cháy trong phim vừa rồi làm em nhớ đến bộ
phim “Cuốn theo chiều gió”.
Anh xem phim đó chưa?
-
Rồi, lúc rạp Rex
mới đưa về chiếu độc quyền.
-
Em xem đến hai lần. Anh thích đoạn nào nhất trong phim
đó?
-
Anh không rõ vì anh thích toàn bộ cuộn phim.
-
Em thì thích nhất đoạn Butler
chia tay với Scarlet,
sau lưng họ là bầu trời đỏ rực vì ngọn lửa đang
thiêu rụi Atlanta.
-
Tại sao em thích đoạn đó? Có phải vì nó rùng rợn
không?
-
Không, cảnh rùng rợn qua rồi. Lúc đó hết nguy hiểm nên
Butler mới chia tay
với người thiếu phụ đỏng đảnh mà anh ta yêu.
Sinh
cố gắng nhớ lại đoạn phim đó để bắt vào dòng tư
tưởng của Trang Đài. Cậu nói:
-
Anh nhớ rồi. Butler
chia tay với Scarlet
để trở về tham gia quân đội miền Nam đang tan rã.
Scarlet nổi điên
nổi khùng vì Butler
bỏ rơi cô nàng trên đường về Tara.
Có phải em thích tài diễn xuất của nữ minh tinh hay
không?
-
Không phải. Cái tài diễn xuất của cô đào nầy đã lên
đến tột đỉnh trong cả cuộn phim, không có chỗ nào
hơn chỗ nào. Cái điều em thích là lời giải thích của
Butler
về hành động đăng vào quân đội miền Nam khi cuộc
chiến coi như kết thúc trên thực tế.
Thấy
người yêu chăm chú nghe, nàng nói tiếp:
-
Butler
bảo rằng anh ta vào lính vì thích mình là kẻ chiến bại.
Nhân vật nầy trong tiểu thuyết cũng như trong phim khôn
ngoan hơn bất cứ người nào khác. Của cải, tiền bạc
anh ta không thiếu mà cũng không cần lắm. Niềm đam mê
của anh ta là tình thương của người khác đối với
mình, trong đó có tình yêu của Scarlet.
Vì vậy, đóng vai người chiến bại thì anh ta sẽ được
rất nhiều tình cảm của người đời.
Sinh
buộc miệng hỏi:
-
Tại sao vậy?
-
Lúc cuộc chiến đang xảy ra, người ta dành cảm tình cho
bên nào nắm chính nghĩa trong tay. Nhưng khi cuộc chiến
kết thúc rồi thì cái chính nghĩa đó trở nên nhẹ bổng,
người ta có khuynh hướng dành cảm tình cho kẻ chiến
bại.
-
Đó có phải là một tình cảm sai lạc hay không?
-
Theo em thì hoàn toàn không. Tình cảm là một tặng phẩm
đắc ý nhất mà Thượng đế trao cho con người, thì làm
sao mà sai lạc được. Cảm tình đối với kẻ chiến bại
cũng thế thôi. Đó cũng là lẽ công bình của Thượng
đế. Kẻ chiến bại bị mất tất cả nên Ngài bù lại
cho những kẻ đáng thương đó cái cảm tình của người
khác. Anh có nhớ không, khi Ashley
thất thểu về trong đoàn người chiến bại tả tơi,
trong rạp hát có nhiều người sụt sịt, còn em thì khóc
mùi mẫn.
Sinh
rất cảm động. Cậu nắm lấy tay nàng, giọng tha thiết:
-
Anh ghen với Ashley
rồi đó!
Cậu
hỏi tiếp:
-
Còn kẻ chiến thắng thì có đáng ghét không?
-
Điều đó tùy người. Nhưng với em thì những kẻ đó
đáng ghét. Em không hiểu tại sao, nhưng em không thể
thương họ được.
Nàng
nói xong cười xòa, nét mặt hồng lên, đáng yêu làm sao.
Sinh
hỏi nàng:
-
Anh không hiểu tại sao nơi cô bé thùy mị, ngoan ngoãn như
em mà lại có những tư tưởng sâu sắc và có tính cách
triết lý như vậy.
-
Tại mẹ đó.
Sinh
ngạc nhiên:
-
Bác gái là học giả hay triết gia?
Trang
Đài cười khúc khích:
-
Chẳng là học giả hay triết gia gì cả. Khi mẹ mới học
hết lớp mười thì có ông chuẩn úy mới ra trường yêu
mẹ quá cỡ mới rủ mẹ đi lập tổ uyên ương và đẻ
ra em. Mẹ sợ em theo chân bà nên giữ rịt em trong nhà.
Chương trình trung học kể cả lớp mười hai không choán
hết thì giờ nên em ôm sách về đọc. Mà đọc thì phải
suy nghĩ.
Sinh
mỉm cười:
-
Đáng lẽ em phải học Văn khoa, bộ môn triết học mới
đúng.
-
Thượng đế buộc em phải học khoa học.
Nàng
ngước nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Sinh rồi cúi đầu
xuống, nói nho nhỏ:
-
Em phải học khoa học để gặp anh.
Câu
nói dễ thương của người con gái kết thúc buổi chiều
tuyệt vời của đôi bạn trẻ.
Sinh
đưa Trang Đài về nhà. Xe dừng trước cổng để nàng
xuống. Cậu tắt máy xe, định đợi người yêu vào hẳn
trong nhà, mới chạy về. Nhưng Trang Đài không chịu, buộc
cậu phải vào nhà gặp mẹ để bàn
giao nàng lại cho
bà. Sinh sung sướng chiều theo ý người yêu, cậu vào
dựng xe và bước đến ghế đá dưới gốc bàng. Nàng
vẫy tay bảo cậu vào phòng khách rồi chạy xuống bếp.
Một thoáng sau, mẹ nàng xuất hiện ở cửa thông, hỏi
thăm qua loa rồi trở vào.
Trang
Đài tiễn bạn ra cổng. Nàng quay lại không thấy ai, bảo
nhỏ người yêu:
-
Anh thích hôn tay em lắm phải không? Anh hôn đi nhưng không
được làm gì khác.
Sinh
cầm bàn tay búp măng đưa lên áp mạnh vào môi mình một
cách đam mê. Xong, cậu sung sướng buông tay nàng, rồi đẩy
xe ra cổng. Khuôn mặt Trang Đài vừa khuất sau cánh cửa
là lòng Sinh rơi vào trăm mối tơ vò. Trong tâm tư cậu,
cuộc chiến thứ hai vừa xuất hiện.
Cuộc
chiến thứ nhất chưa chấm dứt hẳn. Đó là mâu thuẫn
giữa tình yêu và giai cấp dẫn đến sự cấm đoán của
thầy Văn. Cuộc chiến thứ hai vừa nảy sinh từ quan niệm
về người chiến thắng, kẻ chiến bại của Trang Đài.
Người chiến thắng thì đáng ghét còn kẻ chiến bại
thì đáng thương. Điều đó có phải là chân lý hay
không? Sinh không cần biết. Cậu chỉ ý thức đó là quan
điểm hết sức rõ rệt của người yêu.
Cậu
sắp là kẻ chiến thắng đây vì cậu là người của
cách mạng. Theo thầy Văn, trung ương đảng đã ra lệnh
tổng tấn công. Theo đài Giải phóng và đài Hà nội thì
quân ta thắng nhiều trận lớn. Mặt trận Giải phóng
miền Nam đã cho ra đời một chính phủ lâm thời mà thủ
đô nằm tuốt trong rừng rậm. Không bao lâu nữa cách
mạng sẽ về đây. Cậu sẽ nghênh ngang cầm lá cờ Mặt
trận đi trên các phố. Trang Đài sẽ nghĩ gì khi nhìn kẻ
chiến thắng đáng ghét đó? Tình yêu đằm thắm mà nàng
dành trọn cho cậu bấy lâu nay sẽ ra sao?
Cuộc
chiến thứ hai nầy trong tâm tư, có lẽ còn khốc liệt
hơn cuộc chiến thứ nhất. Lý do là kẻ giám sát cuộc
chiến thứ nhất là thầy Văn. Còn kẻ giám sát cuộc
chiến thứ hai chính là người mà cậu yêu thương hơn
chính bản thân mình nữa. Sinh cảm thấy nỗi đau trong
lòng mỗi ngày một tăng lên song song với hạnh phúc mà
người yêu đem đến cho mình. Tình yêu càng làm cho cuộc
sống cậu thêm tươi thì hai cuộc chiến nội tâm càng
dìm tâm hồn cậu vào vùng u tối. Cuối cùng, cậu phớt
lờ lệnh cấm của thầy Văn. Vì thế, trong ba tháng hè,
Sinh vẫn đều đều lại thăm người yêu và trên ghế đá
đã bám đầy rễ cây si. Tuy vậy, cậu cũng không hoàn
toàn tự buông lỏng; mỗi khi đến nhà Trang Đài, cậu
thường nhìn trước nhìn sau như một kẻ phạm pháp.
Về
phần Trang Đài thì đây là thời gian đẹp nhất của
cuộc đời con gái của nàng. Vừa đậu xong chứng chỉ
dự bị, được cha mẹ nuông chiều, rồi hàng tuần đón
người yêu để được nghe những lời đầm ấm xuất
phát từ tấm lòng yêu tha thiết của người con trai cường
tráng, thông minh, đứng đắn, nhưng tràn đầy tình cảm.
Thỉnh thoảng nàng cũng xin mẹ cho đi chơi một buổi với
người yêu. Mẹ chưa bao giờ từ chối vì bà có lòng
thương mến Sinh và vì cái tài khôn vặt của cô con gái
yêu.
Thực
vậy, nàng lựa dịp nào mà mẹ hài lòng về nàng thì mới
xin. Như lần đầu tiên mẹ chấp thuận là hôm nàng báo
tin thi đậu chứng chỉ. Báo tin xong, nàng đã níu áo mẹ
đòi phần thưởng. Bà đang ngẩn người thì nàng xin mẹ
cho đi chơi với Sinh để thay cho phần thưởng. Bà đã
cốc vào đầu nàng một cái và bảo:
-
Đi đi, mẹ cho phép đó, con chó con khôn vặt nầy.
Những
lần sau cũng thế, trước khi xin phép mẹ, nàng làm vui
lòng mẹ bằng nhiều cách như mua tặng mẹ một xấp vải
may áo do chính tiền của mẹ cho nàng. Mỗi lần như thế,
mẹ lại cốc và đầu và bảo:
-
Con chó con nầy cũng biết hối lộ má nó nữa.
Những
lần đi chơi nầy, Sinh chở nàng đến hóng mát tại bờ
sông, có khi ra ngồi trên bờ ruộng ở ngoại ô rồi về
nắm tay nhau đi dạo phố hoặc cắm mũi vào các tấm kính
của các cửa hàng sang trọng trên các phố chính của
trung tâm Thủ đô. Họ không còn bước vào rạp hát nữa,
dù Sinh thèm muốn điều đó vô cùng. Tình yêu của cậu
ngày càng mãnh liệt thì sự kính trọng của cậu đối
với người con gái đoan trang và trí thức nầy cũng tăng
lên không kém.
Có
một lần, nàng hỏi cậu về nơi ở. Sinh cho biết địa
chỉ, tả tỉ mỉ ngôi nhà trong khu vườn rộng của mình
và nhấn mạnh ở đó không có ai ngoài cậu. Sinh không
mời nàng đến nhà chơi để tránh cho nàng sự lo sợ và
thủ thế tự nhiên của người con gái lớn lên trong sự
chăm sóc quá kỹ lưỡng của mẹ nàng. Vả lại, nhà của
cậu là nơi thầy Văn lui tới biết bao lần để đưa cậu
vào con đường cách mạng và ngày nay làm nơi sinh hoạt
chi đoàn. Chính điều nầy làm cho tình yêu tuyệt vời
trở thành nguồn bứt rứt không nguôi trong lòng cậu.
Ngôi nhà thân thiết nầy sẽ làm vẫn đục tình yêu nếu
nàng đến đây. Những giây phút bên nàng phải hoàn toàn
trong lành, không một dấu vết nào của giai cấp đấu
tranh, của cách mạng vô sản, của giải phóng miền Nam.
Nghe
cậu tả ngôi nhà vắng vẻ nên Trang Đài cũng không đòi
đến nữa. Do đó, nơi gặp gỡ giữa đôi bạn chỉ duy
nhất là nhà Trang Đài mà thôi. Điều nầy làm cho mẹ
khá yên tâm.
Một
hôm, Sinh đến nhà Trang Đài; hồi chuông chưa dứt, cánh
cổng đã mở ra. Mọt cậu bé độ mười lăm tuổi cúi
đầu chào. Thấy người lạ mở cổng, Sinh tự giới
thiệu:
-
Tôi là bạn của cô Trang Đài.
-
Dạ, em biết, mời anh Sinh vào.
-
Ủa, sao cậu biết tên tôi?
-
Dạ, em là Nghị, em của chị Đài.
Trả
lời xong, cậu bé vội đóng cửa và vụt lên lầu. Trang
Đài từ nhà sau bước ra với nụ cười rất tươi, đến
gần Sinh, ngửng mặt nhìn lên lầu và nói:
-
Thằng Nghị, em trai của em đó.
-
Anh đến bao nhiêu lần mà không gặp cậu ấy, anh cũng
quên hỏi.
Nàng
cười khúc khích:
-
Cứ nói chuyện với em là anh quên nhiều thứ trên đời
nầy, phải không?
Sinh
gật đầu tán đồng:
-
Đúng vậy. Anh chỉ còn nhớ một điều, đó là: em là
người yêu của anh, thế thôi.
-
Nếu anh quên luôn điều đó thì mới thực sự là người
si tình.
Hai
người cười vui vẻ đến ngồi trên băng đá. Dì Tư,
như thường lệ, bưng ra một ly nước ngọt, cười rộng
miệng với khách rồi lui vào trong nhà. Sinh nói:
-
Lần đầu tiên anh đến đây, mẹ bảo muốn tìm một
người kèm cho Nghị học. Đã có ai chưa?
-
Dạ chưa. Mẹ em kỹ lắm. Anh cũng biết ba em là thiếu tá
an ninh quân đội, nên mẹ em rất kỹ về những người
thường xuyên ra vào. Nhưng nếu anh giới thiệu thì mẹ
nhận. Mẹ thường nhắc đến anh. Mẹ bảo: “Ước chi
thằng Nghị học được anh, mỗi năm đều thi đậu”.
Trang
Đài nhìn Sinh thấy mặt người yêu đăm chiêu. Nàng hỏi:
-
Anh Sinh nghĩ gì vậy. Anh có chuyện gì lo lắng phải
không?
Sinh
quay lại, bối rối:
-
Không, anh chẳng có chuyện gì lo lắng cả. Anh đang nghĩ
đến hai đứa bạn rất nghèo của anh đang ở trong quân
đội. Nếu hai đứa còn tiếp tục đi học như anh thì
anh sẽ đưa một đứa đến đây tức khắc.
Câu
trả lời nầy chỉ có phân nửa sự thật mà thôi. Quả
thực, Sinh có nghĩ đến hai đứa bạn là Thành và Đạt,
nhưng điều làm cho cậu ưu tư là việc thầy Văn sẽ báo
cáo để lãnh đạo đưa người đến kèm cho Nghị với
mục đích dò xét. Điều đó có nghĩa là cách mạng sẽ
cử người đến
“nằm vùng”
trong chính ngôi nhà nầy. Cậu là đầu dây mối nhợ dẫn
đến cái việc có lợi cho cách mạng, nhưng có thể có
hại, có thể rất nguy hiểm cho gia đình người yêu.
Trang
Đài sẽ nghĩ thế nào khi biết được chuyện nầy? Mà
dù có dấu được thì cậu còn xứng đáng với tình yêu
của nàng hay không? Cậu còn xứng đáng với lòng tin cậy
của mẹ nàng hay không?
Hay
là thú thực mọi sự với nàng? Không thể được. Đó
là sự phản bội lại lời thề, phản bội lại lý
tưởng. Lúc đó, Sinh cũng không còn tư cách nào sống để
nhìn mặt Trang Đài nữa. Sinh đau đớn trong lòng. Tại
sao mối tình đầu tươi đẹp vừa đưa cậu vào thiên
đàng hạnh phúc, vừa dìm cậu xuống địa ngục âu lo?
Trang
Đài thấy mặt người yêu buồn bã khi nhắc đến hai
người bạn thân ngoài mặt trận. Nàng cảm động nói:
-
Anh Sinh, anh đừng buồn nữa. Anh cũng đừng lo chuyện tìm
người đến đây nữa.
-
Anh tìm xong rồi!
Sinh
hoảng hốt vì câu nói buộc miệng của mình. Quả thực,
coi như Sinh đã giới thiệu rồi, nhưng người sẽ đến
lại do thầy Văn và lãnh đạo của thầy ấy. Câu nói
thành thực nhưng tai hại nầy đang đặt Sinh vào một
trạng thái không thăng bằng nữa. Hoặc là làm lợi cho
cách mạng, hoặc là giữ an toàn cho gia đình người yêu.
Cậu phải chọn ngay một phía, không còn trì hoãn được
nữa. Thầy Văn có thể đưa người đến bất cứ lúc
nào, và nhân danh là người do cậu giới thiệu thì mẹ
Trang Đài sẽ nhận ngay. Cậu thường nghe thầy Văn nói
tình báo của cách mạng thì ngay cả đế quốc Mỹ cũng
phải nể sợ. Tình yêu và cách mạng, cậu chọn bên nào?
Trong cuộc chiến nội tâm, cậu sẽ ngã về phía nào?
Phải quyết định ngay!
Trang
Đài nhìn Sinh, thấy nét mặt người yêu biến đổi từ
đăm chiêu sang căng thẳng rõ rệt. Nàng nghiêng mình về
trước, nắm lấy tay Sinh, lắc nhẹ, giọng cực kỳ dịu
dàng:
-
Anh Sinh, anh có chuyện lo nghĩ sao không nói em nghe? Em là
người yêu của anh nên em có bổn phận chia sẻ mọi nỗi
lo buồn của anh.
Thôi
rồi! Cử chỉ âu yếm của Trang Đài, giọng nói thánh
thót êm đềm của nàng làm cho hai đối thủ của cuộc
chiến trong lòng Sinh không còn cân sức nữa. Sinh đã ngã
hẳn qua một bên. Cậu thở dài, nói với nàng:
-
Gần như anh đã tìm được người rồi, nhưng nghĩ lại,
người nầy không xứng đáng. Tuyệt đối mẹ đừng nhận
nếu có người đến nói anh giới thiệu. Cũng không nên
tỏ ý không tín nhiệm người ta. Theo anh thì chỉ cần
nói là mình đã tìm được người, hoặc đã cho Nghị đi
học nơi khác, không cần người kèm tại nhà nữa.
Cậu
nói xong, thở ra một hơi dài khoan khoái. Trang Đài cười
bảo:
-
Có thế mà anh cũng căng thẳng làm em đâm lo. Em sẽ nói
lại với mẹ. Theo em thì chẳng cần người kèm cho thằng
Nghị nữa. Em sẽ để tâm nhắc nhở nó. Em sắp sửa là
sinh viên chứng chỉ chuyên khoa, cũng ngang hàng với thầy
cô nó tại trường rồi.
Nàng
ngưng lại nhìn Sinh một cách âu yếm rồi tiếp tục với
giọng nói đầy tình tứ:
-
Vả lại, từ khi có anh thường đến thăm, em không muốn
một người nào đến đây nữa. Em chỉ thích một mình
anh đến đây thôi.
Lời
nói nầy là phát đạn cuối cùng hạ gục một trong hai
địch thủ trong lòng Sinh. Tuy nhiên, cậu cũng tự an ủi
mình: “Đây chỉ là một việc riêng lẻ. Ta vẫn còn là
người của cách mạng. Quyết định trên là do tình thế
bức bách, không có tí gì gọi là phản bội được”.
*
*
*