Thằng
bé bị xe tông chỉ tét da đầu, xương sọ còn nguyên vẹn
nên bình phục sau một tuần nằm bệnh viện. Mấy ngày
sau, khi đi học về, Sinh lại thấy sạp báo bày ra như
cũ. Thằng bé đứng sát bên mẹ. Tai nạn vừa qua làm nó
sợ hãi nên chỉ ở gần mẹ hoặc đi quanh sạp báo chứ
không dám chơi đất cát như trước. Trông nó sạch sẽ
hơn trước. Trên đầu, một miếng băng to tướng che kín
vết thương.
Sinh
mừng rỡ dừng xe chạy lại ôm thằng bé hỏi thăm rối
rít. Một tuần lễ nay, Sinh lấy báo ở sạp trước chợ.
Nay cậu trở lại lấy báo của mẹ thằng bé như trước.
Nhờ
đọc báo và nghe đài phát thanh, Sinh bắt đầu biết rõ
được cuộc chiến đang xảy ra rất quyết liệt trên
nhiều mặt trận gần xa. Cậu làm quen với những địa
danh như Khe sanh, Hạ Lào, Dak tô, Dak xút, Đồng xoài, Bình
giả, vân vân. Người ta cũng nói đến một hội nghị
hòa bình sắp được triệu tập bên trời Âu. Qua đài Hà
nội và đài Giải phóng, ta thắng nhiều trận trên cả
hai mặt trận quân sự lẫn ngoại giao. Cùng với toàn thể
nhân dân tiến bộ trên thế giới, Sinh rất phấn khởi
vì những tin tức nầy.
Tuy
nhiên, cậu vẫn chưa tìm được dịp nào để góp công
cho cách mạng. Công tác dân vận vẫn còn bế tắc, Sinh
chưa chọn được đối tượng nào vừa ý. Có vài lần,
Sinh tìm đến vài đứa bạn trong lớp để gạ chuyện.
Nhưng khổ nỗi, bàn chuyện học hành hay chuyện đi chơi
thì bọn nó hăng hái, nhưng khi bắt qua đề tài thời sự
chính trị thì chúng nó chỉ nghe bằng nửa lỗ tai mà
thôi, đôi khi còn tỏ ra bực bội. Sinh tự trách mình
không có khả năng lôi cuốn người nghe vào lĩnh vực
thảo luận mà mình dọn sẵn. Sinh cũng trách các bạn quá
hời hợt đối với vận mệnh đất nước, không biết
tiếp thu lập trường cách mạng như cậu. Chính ý nghĩ
thầm kín đó làm cho Sinh xa dần các bạn, nghĩa là ngược
lại với dự tính ban đầu của cậu.
Hai
thằng bạn thân nhất là Đạt và Thành đã vào quân
trường được nhiều tháng. Thỉnh thoảng về phép, chúng
nó có tìm đến Sinh. Cậu vẫn còn thương bạn, nhưng
tình thương đó bây giờ không còn bình dị như trước
nữa. Nó bị sứt mẻ nham nhở vì cái lập trường chính
trị trong lòng Sinh. Vắng mặt bạn thì Sinh cương quyết
đặt bạn vào bên kia chiến tuyến ngăn đôi hai kẻ thù
thề không đội trời chung. Nhưng hễ có mặt bạn thì
cái chiến tuyến trở thành mờ nhạt. Đôi khi Sinh cảm
thấy một cái gì đó như mặc cảm có lỗi với tình bạn
xưa cũ, nhất là khi đốt nén nhang trên bàn thờ mẹ, nhớ
lời mẹ dặn là phải đối xử tốt với hai đứa bạn
mà lúc còn sinh tiền mẹ rất yêu mến. Nhưng nếu không
đặt được hai đứa bạn nầy vào hàng ngũ kẻ thù thì
có tội với cách mạng và làm hoen ố cái lý tưởng mà
thầy Văn đã cấy vào đầu mình.
Sinh
ý thức được rằng, kể từ khi cậu bước chân vào con
đường cách mạng thì cậu đánh mất sự hồn nhiên của
tuổi trẻ, tâm hồn cậu không còn thơ thới như xưa. Bản
chất thanh niên của cậu là đam mê lý tưởng, thế mà
từ khi chọn cách mạng làm lý tưởng, cậu chưa làm được
việc gì cho ra hồn. Cậu nghĩ đến những anh hùng cách
mạng mà đài phát thanh Giải phóng thỉnh thoảng đề
cao. Cậu muốn được như họ, phải làm một cái gì đó
có ý nghĩa rõ rệt, một công việc gây ấn tượng mạnh,
có tính phiêu lưu mạo hiểm, như việc ôm bom quăng vào
xe tăng địch chẳng hạn . Công việc đó có tính dứt
khoát, có kết thúc rõ rệt, cũng như thì kỳ thi là kết
thúc cần thiết của một giai đoạn học hành. Còn công
tác dân vận thì rỉ rả, khởi đầu không rõ ràng mà
kết thúc cũng không bao giờ có. Công tác nầy không thích
hợp với Sinh tí nào cả.
Trong
tâm trạng đó, Sinh không còn đi tìm đối tượng để
vận động nữa. Cậu nhủ lòng rằng công cuộc kháng
chiến là trường kỳ, như lời thầy Văn đã dạy, không
có gì phải nôn nóng. Thế là, cậu có lý do gác chuyện
công tác sang một bên để lao vào học tập vì còn mấy
tháng nữa là thi tú tài rồi. Thầy Văn cũng không đốc
thúc, không nhắc nhở gì nên Sinh càng yên tâm.
Thầy
Văn không đốc thúc là phải vì dạo nầy, thầy rất bận
rộn với nhiều nghị quyết của cấp trên và nhiều buổi
học tập thảo luận. Cuộc chiến quân sự trở nên rất
sôi động, cuộc chiến chính trị càng sôi động hơn.
Không những phe ta thắng nhiều trận quan trọng trên khắp
lãnh thổ miền Nam Việt Nam, mà còn khuấy động tận
hang ổ của địch là nước Mỹ xa xôi. Bè bạn khắp năm
châu cùng với nhân dân tiến bộ đồng loạt lên tiếng
chống lại cuộc xâm lăng của đế quốc Mỹ. Ngay cả
một đại triết gia ở Bắc Âu, mang trong đầu một nền
triết học phản động đối với chủ nghĩa xã hội cũng
đòi lập tòa án quốc tế để xử tội ác của Mỹ
ngụy. Thầy Văn vừa khoái chí vừa cười thầm ông đại
triết gia nọ.
Ta
đang thắng to và địch sắp sửa ngồi vào bàn đàm phán
để ký văn kiện đầu hàng. Cái văn kiện đầu hàng đó,
Mỹ phải ký với Mặt trận Giải phóng miền Nam chứ
không phải ký riêng với nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Cái nước Mỹ, đã từng là kẻ chiến thắng trong
hai cuộc thế chiến, buộc phải đầu hàng người đại
diện cho khối nhân dân miền Nam bị trị. Thế mới là
nhục nhã cho Mỹ, thế mới là chiến thắng vinh quang.
Điều đó sẽ có ý nghĩa rất lớn cho công cuộc giải
phóng toàn vùng Đông Nam Á sắp tới. Nước Việt Nam hình
chữ S với bốn ngàn năm văn hiến, với đảng Lao Động
vinh quang, với Hồ Chủ tịch vĩ đại, đang giương cao
ngọn cờ đầu của ba dòng thác cách mạng để giải
phóng cho bao nhiêu dân tộc đang quằn quại dưới bàn tay
bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Giai đoạn mới, nhiệm
vụ mới rất quan trọng. Thầy Văn phải học tập nhiều
nghị quyết liên tiếp. Có khi phải ra chiến khu học tập
trong vòng một tuần lễ.
Chuyện
ra chiến khu học nghị quyết là niềm hãnh diện cho thầy
nhưng đồng thời cũng tạo ra rắc rối cho cuộc sống
của thầy. Đời sống của thầy đang dựa vào trường
tư. Công tác cách mạng của thầy cũng hoàn toàn tùy
thuộc vào số lương mà chủ trường trao cho thầy hàng
tháng. Thầy thường bảo rằng đó là những món tiền
nhơ bẩn mà bọn kinh doanh giáo dục đã bóc lột học
sinh. Nhưng nếu không có những món tiền nhơ bẩn đó thì
thầy không thể sống để thực hiện được sứ mạng
cao cả mà cách mạng giao phó.
Trường
tư thì rất kỵ giáo sư bỏ giờ. Cái đám học trò quỷ
sứ đó, chỉ cần vắng giáo sư nửa giờ thôi là chúng
phá vỡ trật tự kỷ luật của toàn trường. Giám thị
của trường rất ít vì trường phải giảm chi phí thì
mới có lời. Vì vậy, giám thị chỉ có thể trám một
hay hai giờ thôi chứ nghỉ cả tuần thì trường buộc
phải mời giáo sư khác thay thế và khi học tập nghị
quyết xong thì thầy đừng hòng trở lại dạy ở trường
nữa.
Thầy
đã giải quyết điều nầy một cách vất vả nhưng cũng
tạm yên. Đó là thầy đã hợp
đồng với hai
người bạn khác dạy cùng môn, dĩ nhiên là không có
trong tổ chức cách mạng. Cả ba thỏa thuận trám giờ
cho nhau và hưởng thù lao của những giờ dạy thêm đó.
Nhà trường chấp nhận giải pháp nầy. Chỉ cần giữ
học sinh trong lớp cho yên lặng còn dạy thế nào cũng
được, một ít ngày trong một năm học cũng không có gì
quan trọng cho trình độ của học sinh.
Việc
dạy của thầy ổn thỏa rồi nhưng chưa hết. Còn việc
gia đình nữa. Từ lâu, thầy sống độc thân trong căn
phòng nhỏ với giá thuê hàng tháng vừa sức thầy. Tuy
nhiên, thầy còn một mẹ già và một chị, một em gái ở
tận Vĩnh long, tuốt trong vùng đồng quê xôi đậu. Sau
khi cha thầy bị địch giết chết, mẹ thầy đã xin được
xác về chôn cất, xây mộ cho ông và ở luôn dưới đó
để tiện việc nhang khói và săn sóc phần mộ. Bà đã
sống qua cuộc kháng chiến chống Pháp, những năm hòa
bình ngắn ngủi sau hiệp định Genève
và bây giờ đến
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Bà sống với hai đứa con gái và gởi thầy lên Sài gòn
để đi học. Bà không muốn con trai bà lớn lên nối gót
cha để rồi chết thảm như chồng bà.
Chị
và em gái của thầy đã có chồng con. Anh em rể của thầy
đều là nông dân lúc ban ngày và trở thành du kích lúc
màn đêm buông xuống. Thầy hãnh diện về điều nầy
nhưng cũng rất lo lắng cho đời sống của chị em gái và
các cháu.
Khi
theo dõi tin tức chiến sự, thầy chú ý hơn cả về chiến
cuộc đang xảy ra ở quê của thầy. Tại đó địch bị
quân và dân ta giáng cho những đòn chí tử. Những đòn
đó không phải luôn luôn trúng vào đầu địch mà rất
nhiều khi giáng trúng vào đầu dân chúng vô tội. Tính
mạng của mẹ già thường xuyên bị đe dọa. Chị và em
gái của thầy nhiều lần đốc thúc thầy đưa mẹ về
Sài gòn sống cùng thầy. Thầy cứ lần lữa, hẹn rày
hẹn mai. Thầy đang quá bận rộn vì công việc kiếm
sống, vì công tác cách mạng và quan trọng hơn nữa, đó
là vì chỗ ở của thầy. Đưa mẹ lên đây, thầy phải
kiếm chỗ khác rộng rãi hơn, có bếp núc, chỗ tắm, chỗ
giặt riêng biệt. Đó không phải là chuyện dễ ở cái
thời buổi nhà đất đang lên giá vì dân chúng đổ xô
lên thành phố. Tuần rồi chị thầy lên đốc thúc một
cách hết sức quyết liệt nên thầy không trì hoãn được
nữa. Thầy hứa với chị là sẽ đưa mẹ lên càng sớm
càng tốt. Ngày nào bà còn ở dưới quê thì tính mạng
còn bị đe dọa. Phải đành đưa mẹ về đây nương nhờ
vào sự bảo vệ của kẻ thù không đội trời chung của
thầy.
Vì
những lý do đó, thầy ít đến nhà Sinh hơn và cũng không
buồn đốc thúc Sinh trong công tác dân vận nữa. Nhờ đó
Sinh học hành đàng hoàng và đậu tú tài hạng “bình”,
tức là hạng giỏi,
ngay khóa một, năm 1972. Sinh không thi tuyển vào trường
nào cả mà theo lời khuyên của thầy, ghi danh vào học
chứng chỉ dự bị toán lý hóa ở Khoa học Đại học
đường.
Cuộc
sống sinh viên đại học làm cho Sinh cảm thấy mình lớn
hơn, quan trọng hơn nhưng cậu vẫn không quên mình là
người của cách mạng, dù cậu chưa đóng góp gì được
cho tổ chức. Đó vẫn là nỗi ray rứt âm ỉ trong lòng.
Cậu phải làm một cái gì đó. Và cái gì đó đã có dịp
thực hiện, liên quan đến sự kết thúc hội nghị Paris
vào tháng 1 năm 1973.
Trong
lịch sử nhân loại, hiệp định đình chiến chỉ nhanh
chóng khi có một bên ngã quị rõ ràng. Còn khi hai bên vẫn
còn sức để choảng nhau bể đầu sứt trán thì xúc tiến
được một cuộc nói chuyện với nhau là điều luôn luôn
khó khăn và chậm chạp. Hội nghị Paris
năm 1972 cũng không thoát khỏi thông lệ đó. Cả hai phía
đều rêu rao muốn hòa bình để chấm dứt nỗi thống
khổ cho nhân dân; nhưng chỉ nội cái chuyện hai bên hay
bốn bên tham dự, ngồi bàn vuông hay bàn tròn cũng tốn
mất nhiều thời gian với hàng chục ngàn người ra đi
vĩnh viễn trong đó không ít là thường dân vô tội.
Nhưng
rồi hội nghị cũng phải kết thúc, người ta ký vào văn
kiện chính thức đem lại hòa bình cho Việt Nam. Cả thế
giới đón mừng một cách thực bụng vì họ không hiểu
lòng dạ của người cộng sản Việt Nam. Vì vậy, từ
thủ đô Stockholm,
người ta vội vã tuyên bố trao giải thưởng hòa bình
cao quí nhất của nhân loại cho hai người đại diện hai
phía. Một người hí hửng đến nhận, người kia không
được phép đến vì giải thưởng không nhằm đúng mục
đích thầm kín và thực sự của đảng ông ta.
Riêng
nhân dân miền Nam vui mừng một cách dè dặt, ít ai tin
rằng chiến tranh đã thực sự chấm dứt. Cuộc ngưng bắn
có tính chất hết sức bấp bênh với cái tên kỳ quái:
“đình chiến da beo”. Ranh giới đình chiến hoàn toàn
không có, nên mạnh ai nấy vạch. Cuộc giành dân lấn đất
bắt đầu ngay trước khi hiệp định có hiệu lực và
súng cứ nổ lai rai trong cuộc giành dân lấn đất đó.
Vui
mừng hơn cả, có lẽ là những nhà sản xuất sơn. Chính
phủ Sài gòn thu mua một khối lượng lớn sơn đỏ và
vàng để vẽ cờ quốc gia trước cửa mỗi nhà hầu xí
phần đất quốc gia của người quốc gia.
Khi
người ta đến kẽ lá cờ vàng ba sọc đỏ ở cánh cổng,
Sinh rất bực mình. Lập tức, trong đầu người thanh niên
hai mươi mốt tuổi đang ôm bầu máu nóng nầy, phát sinh
một dự tính mạo hiểm đầy lý thú. Lúc đầu, đó chỉ
là một ý nghĩ tinh nghịch nhưng nhanh chóng trở thành một
ngọn lửa cách mạng bùng cháy trong lòng cậu. Cậu dự
định ngay trong đêm nay, sẽ bôi bỏ những lá cờ quốc
gia và thay bằng những lá cờ Mặt trận. Đối với địch,
đây sẽ là một đòn rất đau, còn đối với cách mạng,
đây là một đóng góp có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn
sôi nổi của cuộc giành dân lấn đất. Sáng kiến đó
làm Sinh rất phấn khởi nêu quyết tâm thực hiện cho
bằng được. Cậu vào nhà ngồi trước bàn học, mà
miệng chúm chím cười một mình.
-
Cờ Mặt trận là trên đỏ dưới xanh, ngôi sao vàng chính
giữa. Khó vẽ quá.
Sinh
lấy giấy bút để sẵn trước mặt, nhìn đồng hồ. Kim
giây vừa chỉ số mười hai là cậu bắt đầu vẽ. Xong,
hai phút, mười hai giây. Không được. Vẽ bằng sơn còn
lâu hơn nữa. Phải thực hiện nhanh thì mới tránh được
nguy hiểm. Nguy hiểm từ khắp mọi phía. Nhà đang được
vẽ, nếu giật mình thức giấc có thể tưởng cậu là
kẻ gian, bắt trói lại. Cả bầy chó trong xóm nữa. Chỉ
cần đứng vẽ quá một phút, chúng sẽ xúm lại sủa rân
trời thì khốn. Lại còn mấy ông nhân dân tự vệ thỉnh
thoảng vác súng và gậy đi tuần. Nguy lắm!
Cuối
cùng, Sinh quyết định cắt giấy màu, dán độ mười lá
cờ Mặt trận và dùng sơn đen gạch chữ thập lên những
lá cờ quốc gia vừa được vẽ xong lúc ban ngày. Ngoài
ra, cậu cũng sẽ viết một khẩu hiệu vào nơi thuận
tiện nhất để sáng hôm sau mọi người đều thấy. Cậu
có nghe nói, dùng hột cau tươi viết lên tường vôi thì
chữ màu đỏ bầm hiện ra rõ và bền, rất khó tẩy xóa.
Nội
dung câu khẩu hiệu phải thực hay và độc đáo. Đả đảo
Mỹ ngụy? Ủng hộ Mặt trận Giải phóng? Quá tầm
thường! Sinh chợt nhớ đến hai câu trong một bài thơ
cách mạng mà có lần thầy Văn đã đọc cho cậu nghe:
Lòng ta chung một Bác Hồ,
Lòng ta chung một cơ đồ
Việt Nam.
Hơi
dài, nhưng không sao. Chỉ cần viết một lần thôi. Nội
dung rất thích hợp. Nó có tính cách vô hiệu hóa các lá
cờ quốc gia đã vẽ, vì tấm lòng nhân dân miền Nam đang
hướng về Bác, dù có vẽ một triệu lá cờ quốc gia
cũng vô ích.
Mọi
thứ phải chuẩn bị sẵn sàng. Một giờ khuya bắt đầu
hành động. Giờ đó giới nghiêm, không ai ra khỏi nhà.
Mà nếu không giới nghiêm đi nữa thì mọi người cũng
đã yên giấc. Nhân dân tự vệ chỉ đi tuần đầu hôm
rồi về ngủ cả trong thềm nhà thờ để… gác không
cho ma quỷ đến xâm phạm tượng Chúa.
Quyết
định xong, Sinh ra phố mua các vật liệu cần thiết. Hôm
nay là chiều thứ bảy, Sinh cất mấy thứ mới mua rồi
lấy xe đi dạo chơi.
Cậu
về trung tâm thành phố và thẳng ra bờ sông, ngồi trên
một băng đá còn để trống. Đầu tháng hai dương lịch,
thời tiết ở Sài gòn rất đẹp. Bầu trời trong xanh
điểm vài dải mây trắng lững lờ trôi. Ánh nắng vàng
nghiêng nghiêng rọi trên mặt sông, sóng gợn lăn tăn vì
những cơn gió nhẹ thổi qua. Những chiếc tàu thủy đậu
im lìm bên bến cảng; giữa sông, ghe thuyền và tàu nhỏ
qua lại một cách thảnh thơi. Sài gòn thực thanh bình
giữa một đất nước chưa tan mùi thuốc súng.
Sinh
ngồi ôn đi ôn lại nhiều lần chương trình hành động
thực thích thú đêm nay. Khi cậu trở về đến nhà thì
trời đã sẩm tối. Từ cổng nhà Sinh thẳng vào trong độ
ba trăm mét, nơi đầu khúc quanh, có một tuờng vôi cao độ
hai thước, đứng xa trông rất rõ. Đó là nơi cậu sẽ
viết hai câu thơ bằng hột cau. Trong con hẻm không có đèn
đường nên viết xong không ai thấy được. Ngoài ra, còn
mười địa điểm khác cũng rất đẹp để dán cờ Mặt
trận. Đó là nơi các lá cờ quốc gia mới được nhân
viên chính phủ vẽ hôm trước, phần lớn ở sát đường
nên rất thuận tiện để xóa bằng sơn đen.
Cờ
Mặt trận sẽ được dán cả hai bên đường đến cách
nhà độ một trăm mét thì ngưng. Lá cờ ba sọc trước
cổng nhà Sinh trông thực gai mắt nhưng cứ để yên đó
cho công an đừng nghi ngờ.
Sau
khi quan sát và tính toán cặn kẽ, Sinh quành xe trở về.
Phía bên trong cánh cổng, lủng lẳng xách cơm mà người
ta đã đem đến treo lúc cậu chưa về đến nhà. Con Tăng
chạy ra kêu ăng ẳng mừng rỡ. Sinh mở khóa, dẫn xe vào.
Cơm nước xong, mới tám giờ rưỡi. Sinh vặn đồng hồ
báo thức lúc mười một giờ rồi tắt đèn đi ngủ sớm.
Nhưng cậu nằm thao thức mãi, đến mười một giờ thì
bật dậy.
Sinh
không dám mở đèn lớn sợ có người đi bên ngoài để
ý. Trong ánh sáng lờ mờ của đèn ngủ, cậu lấy giấy
màu ra cắt và dán cờ. Công việc xong xuôi mà chưa tới
mười hai giờ khuya. Tất cả giấy vụn được nhét vào
một bọc nhựa mỏng rồi mang xuống bếp đốt trong lò.
Sinh còn cẩn thận bắt ấm nước lên để chắn ngọn
lửa. Giấy cháy bùng lên rồi tàn rất nhanh. Đám tro tàn
cũng bị Sinh dùng củi đập nát không còn hình thù gì.
Khi
Sinh mở cửa bếp bước ra hè nhà, ánh trăng mỏng manh
soi chiếc bóng mờ lên thềm làm Sinh giật mình. Chương
trình hành động đã không tính đến sự có mặt của
chị Hằng. Sinh ngần ngừ ngước mắt nhìn trời rồi
quyết định tiến ra quan sát bên ngoài. Con đường đất
hiện ra trong ánh sáng lờ mờ. Xóm đêm hoàn toàn vắng
lặng, nhà nhà đều đã tắt đèn, mọi người có lẽ
đang say sưa trong giấc ngủ. Sinh trở vào ngồi trên bậc
thềm, tiếp tục lắng nghe tiếng động. Một hồi lâu,
cậu đứng dậy hé cửa bước vào nhà, nhìn đồng hồ.
Đúng một giờ khuya.
Sinh
xếp mấy lá cờ Mặt trận nhét vào túi quần, lấy dao
cạy nắp hộp sơn và đậy hờ lại để dễ mở. Cậu
cho ba hột cau tươi vào túi áo, cầm sơn và cọ bước ra
cổng. Khi chiếc chìa khóa được tra vào ổ, tim cậu đập
thình thịch, hơi thở dồn dập. "Người
làm cách mạng phải thản nhiên trong mọi hoàn cảnh dù
hiểm nguy, không được run sợ một cách hèn nhát."
Câu
nói thầm quả nhiên có hiệu quả. Sinh cảm thấy nhịp
tim và hơi thở trở lại bình thường nên cương quyết
mở cửa. Khi cậu lách người qua định khép cổng lại,
một bóng đen từ trong bụi rậm bỗng phóng tới. Nó thúc
thật mạnh vô chân Sinh, rồi nhảy vọt ra ngoài.
Con
chó Tăng đứng đó, hớn hở vẫy đuôi mừng. Miệng kêu
ăng ẳng. Nó có vẻ rất sung sướng vì cuộc ra quân bất
ngờ đêm nay.
Sinh
hoảng hốt xua tay, con chó càng khoái chí nhẩy cẫng lên.
Không còn cách nào khác, Sinh đành quay lui hé cửa, bước
vào. Con Tăng không bỏ lỡ dịp vui, cũng nhanh chân chạy
theo. Giờ đây nó đang gồng mình, bồn chồn cào mấy
móng chân trước xuống nên đất, nôn nao chờ lệnh xuất
phát. Tên bảo vệ bốn chân của thầy Văn đã theo dõi
Sinh từ lúc cậu mở cửa bếp bước ra, và nó cũng tỏ
thái độ kiên quyết bám chắc mục tiêu. Không, Sinh không
thể cho nó đi theo được. Nó đâu có đủ tư cách và
lý trí để tham gia vào công tác cách mạng trọng đại
mà Sinh sắp thực hiện. Hơn nữa, nó sẽ chạy tung tăng,
lôi cuốn cả đàn chó quỷ sứ trong xóm theo thành một
đám giặc, vừa sủa vừa cắn lộn gây thảm họa tưng
bừng náo nhiệt.
Sinh
tìm bên hàng rào được một khúc cây cầm rất vừa tay.
Con Tăng vẫn theo bén gót. Sinh gõ khúc cây một cái lên
đầu nó. Con Tăng hoảng hốt nhảy lùi lại khoảng ba
thước, dừng lại đứng nhìn và vẫy đuôi. Sinh mở cửa
cổng, lách mình ra và khép lại lập tức. Con Tăng phóng
lại, chồm hai chân lên cổng kêu ăng ẳng. Nguy quá, nếu
cậu bỏ đi, nó sẽ kêu to hoặc chui qua một lỗ hổng ở
hàng rào để đuổi theo. Sinh lại phải trở vào, mở cửa
vô nhà. Con Tăng đủng đỉnh đi theo.
Nó
nằm dưới mái hiên, lật qua lật lại, đưa bốn chân
lên trời để giỡn chơi. Lòng dạ nào mà giỡn lúc này,
con tiểu quỷ. Sinh nắm hai chân trước lôi nó xệch xệch
vào nhà, đẩy mạnh nó xuống bàn, bước ra ngoài rồi
đóng cửa lại. Trong đêm vắng, tiếng rên ăng ẳng và
tiếng móng chân cào vào cửa gỗ của con Tăng thật đáng
lo ngại. Sinh rón rén bước ra cổng và dừng lại lắng
nghe. Tiếng kêu và tiếng cào lúc này đã nhỏ dần, nhà
kế bên chắc chắn không để ý.
Sinh
nhẹ nhàng khép cổng, thò tay gài chốt bên trong rồi men
theo hàng rào, cố bước đi thực khẽ khàng để không
đánh động bầy chó trong xóm. Bức tường trắng hiện
lờ mờ trước mặt. Ban ngày trông bức tường khá gần,
nhưng bây giờ sao nó xa vậy. Sinh đâm liều và rảo bước
thật nhanh về phía đó.
Đứng
bên bức tường, Sinh nhìn quanh một cách cẩn thận, rồi
móc mấy hạt cau tươi ra, bắt đầu viết. Hết hạt cau
thứ nhất thì xong câu thơ thứ nhất. Kết thúc câu thứ
nhì thì trên tay chỉ còn nửa hạt cau cuối cùng. Sinh
quăng bỏ, rồi vội vàng mở nắp hộp sơn, thọc cọ vào
quẹt chữ thập trên lá cờ quốc gia hiện lờ mờ trên
trụ cổng. Lá cờ Mặt trận theo dự tính sẽ được
quét hồ và dán lên bên trên trụ cổng. Nhưng lúc này
Sinh lại thấy công việc quyét hồ rất luộm thuộm và
mất thời gian. Bởi vậy mà lá cờ giấy được đắp
chồng lên vạch sơn chữ thập còn ướt. Đến trụ cổng
kế tiếp, Sinh lại xóa hình lá cờ quốc gia, đắp cờ
Mặt trận lên trên.
Có
tiếng ào ào, một ngọn gió thổi thốc đến. Sinh rùng
mình. Xa xa, về phía nhà cậu, hình như có bóng người
thấp thoáng. Sinh ngồi thụp xuống gốc hàng rào, ép mình
vào để lá cây che khuất. Hai mắt Sinh căng ra, cố nhìn
xuyên qua màn đêm. Không có gì cả, chỉ có lá cây rung
vì gió. ”Người
làm cách mạng phải thản nhiên…”,
câu thần chú vang lên trong đầu Sinh, thúc dục Sinh tiếp
tục công việc. Loáng một cái, mười lá cờ Mặt trận
đã đắp xong, nhanh hơn dự trù. Với chỗ sơn còn dư,
Sinh hăng hái bôi đen thêm mấy lá cờ quốc gia, dài theo
hai bên đường cho đến nơi cuối cùng cách nhà cậu độ
một trăm mét. Sứ mạng trong đêm được hoàn thành một
cách vinh quang.
Sinh
trở về nhà vừa khi xa xa có tiếng gà eo óc vọng lại.
Tiếng gió xào xạc đong đưa mấy tàn cau. Sinh ngồi thụp
xuống, quan sát một lần nữa rồi lấm lét đi vào. Con
Tăng nghe tiếng chân, sủa to mấy tiếng và cào mạnh vào
cửa. Sinh hoảng hốt, phóng đến mở cửa. Nó nhảy ra
mừng rỡ, chồm hai chân trước lên bụng chủ. Sinh vuốt
đầu nó rồi đẩy ra, vào nhà khoá cửa lại. Cậu để
hộp sơn và cọ lên bàn, ngồi phịch xuống ghế để
thở. Bây giờ Sinh mới cảm thấy mệt nhưng nỗi khoan
khoái trong lòng cứ lớn dần. Đó thực là một kỳ công.
Vài
phút sau, cậu đứng dậy, với tay lấy hộp sơn và cây
cọ, lẳng lặng đi xuống bếp, mở cửa hông bước đến
sát hàng rào. Ở đó là hố rác khá sâu, đào cách nay
nhiều năm, rác bây giờ còn cách miệng hố độ ba mươi
phân.
Sinh
ngồi xổm trên miệng hố, thò tay phải thọc mạnh vào
rác. Bàn tay cậu đụng vào lớp rác ẩm ướt. Cậu rùng
mình tưởng tượng nhiều côn trùng có nọc độc đang
bám lên mấy ngón tay. Nhưng Sinh nghiến răng thọc tay
xuống sâu hơn nữa. Mùi khăm khẳm mùi thối rữa bắt
đầu bốc lên, càng lúc càng ghê tởm. Một lỗ trống
sâu khoảng sáu tấc hiện ra lờ mờ đen đúa. Hộp sơn
và cây cọ bị đẩy xuống lỗ, đẩy sâu cho đến khi
không còn xuống sâu hơn được nữa. Chỗ rác cũ được
lấp đầy lên trên.
Trong
bóng đêm tĩnh lặng, Sinh khe khẽ múc nước ra thau, dùng
xà phòng kỳ cọ từng ngón tay rồi rửa sạch và vào nhà
đóng cửa lại. Đồng hồ chỉ hai giờ mười phút.
Sinh
vào giường, kéo mùng xuống và nằm dài một cách khoan
khoái. Sau khi hoàn thành vẻ vang công tác cách mạng, Sinh
tưởng mình sẽ sung sướng ngủ ngon đến sáng. Nhưng năm
phút sau, cậu ngồi bật dậy. Mồ hôi bắt đầu vã ra
trong khi người cậu run lên vì lạnh. Cậu vừa sực nhớ
ra hai câu thơ viết bằng hột cau có thể bị chụp hình
rồi đưa đi giảo tự. Sau đó, cơ quan an ninh sẽ lần ra
manh mối và tra còng vào tay cậu. Mấy lá cờ Mặt trận
nữa. Trên đó dẫy đầy dấu vân tay, làm sao mà chối
cãi.
Cậu
vò đầu tự trách mình:
-
Trời ơi, sao khi chiều mình không nghĩ đến điều nầy.
Mình đã đọc nhiều sách trinh thám sao còn u mê đến
thế.
Bụng
Sinh cồn cào như muốn ói. Cậu bậm môi cố chịu đựng.
Câu thần chú:”Người
làm cách mạng…”
được lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng bây giờ nó
không còn tác dụng gì. Nỗi lo sợ không
chịu rút lui mà còn lớn bổng lên, nhe nanh vuốt dữ tợn.
Sinh hình dung, ngay ngày mai, cảnh sát sẽ ập đến, lôi
thủ phạm lên xe và chở về trại giam. Ở đó, cậu sẽ
bị tra tấn cho đến chết, hay ở đó cậu sẽ khai ra
thầy Văn. Ý nghĩ phản bội lại thầy giáo của mình làm
Sinh kinh khiếp hơn cả cái chết. Hai bàn tay Sinh đấm
lên đầu, rồi bóp đầu thực mạnh để trừng phạt cái
bộ não ngu si bên trong. Cậu lại nằm xuống và ngồi dậy
nhiều lần, sau cùng, đến bốn giờ sáng thì ngủ thiếp
đi vì quá mệt mỏi.
Vệt
sáng xuyên qua khe cửa, rọi lên nóc mùng, làm Sinh tỉnh
giấc. Đồng hồ đeo tay chỉ bảy giờ rưỡi. Ánh mắt
cậu di chuyển từ cái đồng hồ xuống bàn tay, rồi chết
sững ở đó.
Mấy
ngón tay Sinh còn dính lem nhem màu sơn đen. Sinh hốt hoảng
phóng xuống bếp tìm can dầu hỏa. Cậu đổ dầu ướt
đẫm cái nùi giẻ, hì hụi chùi rửa mấy ngón tay, không
để ý rằng, căn bếp bây giờ đang nồng nặc bốc mùi
dầu hôi.
Chùi
xong những dấu vết đen đúa trên bàn tay, Sinh vẫn còn
chưa hoàn hồn. Biết đâu đêm qua cậu còn làm vấy cả
sơn đen lên ổ khóa cửa cổng. Bất cứ chỗ nào cậu
đụng vào đều có thể để lại vết sơn lem luốc. Sinh
ngồi lặng thinh trong bếp chìm ngập trong nỗi sợ hãi.
Nhưng sự tò mò trong lòng cậu cứ lớn dần, nó thúc dục
Sinh đừng dậy, mở cửa bước ra sân.
Bên
ngoài có vẻ chộn rộn khác thường. Nhiều bóng người
thấp thoáng bên kia hàng cây. Tiếng chuyện trò to nhỏ từ
hai phía đường văng vẳng vọng đến. Cậu hồi hộp
không biết cơ quan an ninh có đến chụp hình hoặc lấy
dấu vân tay trên mấy lá cờ Mặt trận hay chưa.
Con
chó Tăng nghe làng xóm chộn rộn cũng tỏ vẻ hớn hở
khác thường. Nó chạy ra chạy vô lăng xăng thúc dục cậu
chủ mở cửa.
Sinh
thận trọng bước ra đường. Con Tăng vừa hăm hở phóng
theo đã bị Sinh quay lại dậm chân nạt nhỏ một tiếng.
Nó hốt hoảng cụp đuôi lùi về phía sau. Giờ đây, nó
là nhân chứng duy nhất của chuyện xảy ra đêm qua. Nó
bỗng làm Sinh sợ hãi.
Bên
ngoài, người dân đứng rải rác suốt trên con đường
dẫn vào phía trong xóm. Nơi bức tường trắng ở khúc
quanh, có một người đàn ông đang khom lưng dùng dao hì
hục cạo. Sinh đang lấm lét nhìn quanh để xem có ai mặc
sắc phục cảnh sát hay không thì tiếng hỏi ngay sau lưng:
-
Sao bữa nay cậu dậy trễ vậy?
Sinh
giật mình, suýt nữa thì bỏ chạy. Nhưng người vừa hỏi
đó là chị Hằng hàng xóm. Sinh hít một hơi, chậm chạp
trả lời:
-
Em sắp thi nên đêm rồi học đến khuya cho kịp bài.
-
Vậy hả. Hồi hôm Việt cộng về viết khẩu hiệu và
dán cờ. Khủng khiếp! Nghe mấy bà xóm trong nói họ về
đông lắm, có mang theo súng và lựu đạn nữa.
Sinh
giả bộ ngây thơ:
-
Em học đến nửa đêm thì ngủ gục trên bàn, không còn
biết trời trăng gì. Nhưng làm sao họ về được. Lính
và cảnh sát canh gác dữ lắm mà.
-
Ăn nhằm gì. Đồn bót mấy lớp kẽm gai, đèn pha rọi
suốt đêm, họ cũng vào dễ như mình vào nhà vậy mà.
Sinh
dọ hỏi:
-
Sáng giờ, chị có thấy cảnh sát hay an ninh đến không?
-
Có ai khai báo đâu mà đến. Sáng ra, người ta thấy cờ
và khẩu hiệu thì vội vàng chùi gỡ, mạnh nhà nào nấy
làm, sợ mang họa.
-
Để em lại đằng đó xem thử.
Sinh
thọc sâu hai bàn tay vô túi quần, bước nhanh lại bức
tường. Chủ nhà đã cạo theo những chữ nên không còn
vết hạt cau nữa, nhưng hai câu thơ vẫn còn đó với
đường nét to ra và nham nhở. Vì thế, ông chủ nai lưng
ra mà cạo một vùng to bao trùm cả hai câu thơ. Sinh gật
gù cười thầm. Ở những nơi khác, cờ Mặt trận đã
bị gỡ và xé cả chỉ sót lại mấy mảnh giấy trắng
còn dính tại chỗ sơn dán mà thôi. Chắc chủ nhà cũng
đã cẩn thận mang cờ đi đốt.
Sinh
thở ra khoan khoái. Bây giờ, cơ quan an ninh có tới đi nữa
thì cũng không thể nào lần ra được dấu vết. Nỗi lo
sợ của đêm hôm qua hoàn toàn biến mất, bây giờ Sinh
bắt đầu tận hưởng thành quả của công tác vĩ đại
của mình. Cảnh nhốn nháo của dân chúng trong xóm có thể
xem như công tác cách mạng của Sinh thành công về cơ
bản. Cậu đã chứng tỏ cho nhân dân thấy Mặt trận có
mặt khắp nơi và cậu đã giáng cho địch một đòn quyết
liệt.
Sinh
thủng thẳng bước về nhà, lòng vui như mở hội. Cậu
không vội đi ăn sáng mà ngồi đợi xem tình hình. Một
giờ đồng hồ sau, khu xóm trở lại bình thường, không
thấy bóng một cảnh sát hay quân đội nào đến. Có lẽ,
chẳng ai dại dột nghĩ đến chuyện đi báo. Đi báo chỉ
mang rắc rối vào nhà thôi. Cậu thay áo quần và dẫn xe
đi ăn sáng.
Ra
đến đầu hẻm, cậu dừng lại mua tờ báo. Chị bán báo
ngửng lên nhìn cậu, hỏi nhỏ, giọng có vẻ nghiêm
trọng:
-
Khi hôm, trong đó có Việt cộng về, cậu biết không?
-
Em ngủ say không biết gì cả, sáng ra mới hay.
-
Gớm thiệt, nhưng chắc không phải Việt cộng ở ngoài
vào đâu. Có lẽ Việt cộng nằm vùng đó. Biết đâu họ
ở ngay trong xóm em cũng có.
Sinh
lại chột dạ. Chị bán báo còn suy luận được như thế,
thì cơ quan an ninh có thể còn đi xa hơn. Cậu giả bộ
ngây thơ:
-
Nhưng em ở đó lâu, đâu có thấy ai là Việt cộng.
Chị
bán báo cười:
-
Cậu tưởng ai đó làm Việt cộng thì phải đến trình
diện cậu hay là dán cái bảng VC trước ngực cho cậu
biết hay sao? Ngay như hai chị em mình đây, có thể có một
người là Việt cộng cũng nên.
Sinh
giật thót người. Thấy nét mặt hoảng hốt của cậu,
chị cười an ủi:
-
Nói chơi vậy thôi. Chị không phải là Việt cộng đâu.
Chị lo làm ăn nuôi con. Làm “cái nghề” đó ghê lắm.
Trốn chui, trốn nhủi khổ thân. Rủi mà bị bắt thì mềm
xương. Mấy thằng gác nhân dân tự vệ hôm qua ngủ trong
thềm nhà thờ bị gọi lên bót cả rồi. Không biết
trong đám tụi nó có thằng nào lén đi làm chuyện bậy
bạ đó không. Nếu có thì chỉ khổ cha, khổ mẹ thôi.
Sinh
cảm thấy buồn phiền trong lòng nên vội lấy báo quăng
vào giỏ xe. Cậu cúi xuống xoa đầu thằng bé rồi quay
xe ra đường, mua một ổ bánh mì thịt cho mình và một ổ
bánh mì ngọt cho thằng bé con chị bán báo rồi về nhà.
Khi
Sinh vừa về đến cổng, con Tăng vội ngúc ngoắc đuôi
chạy ra mừng. Sinh bần thần ngồi xuống bậc thềm, ngắt
một đoạn bánh mì quăng cho con chó, đoạn còn lại, cậu
vừa nhai vừa suy nghĩ về lời chị bán báo. Cái công tác
cách mạng có tính chất anh hùng mà cậu vừa thực hiện
khi đêm, chẳng những chị không ca tụng mà còn cho là
“chuyện bậy bạ, làm khổ cha mẹ”.
Chị thuộc thành phần nhân dân lao động nghèo, cũng có
thể gọi là vô sản, mà có tư tưởng xấu như thế sao?
Tội nghiệp, chị còn quá lạc hậu, nếu không nói là u
mê. Chị không được tiếp xúc với một cán bộ như
thầy Văn để được giác ngộ. Còn anh chồng của chị
thì sao? Sinh biết anh ta là công nhân, nghĩa là thuộc giai
cấp vô sản chính cống, giai cấp tiền phong, giai cấp ưu
việt, giai cấp lãnh đạo của cách mạng. Không lẽ anh
ta cũng lạc hậu như chị sao? Nếu không lạc hậu thì,
đầu gối tay ấp bao nhiêu năm, anh chẳng làm cho chị
giác ngộ được chút nào.
Cậu
bực tức vì cái lý tưởng đang bị tổn thương, hành
động phi thường vừa qua bị chê bai dè bỉu. Sinh nghĩ
đến thầy Văn. Chỉ có thầy mới hiểu được tính chất
anh hùng của sứ mạng nầy. Thầy sẽ hết lời ngợi
khen và giúp Sinh lấy lại trọn vẹn niềm hãnh diện, bồn
chồn mong thầy đến sớm.
Sinh
không phải đợi lâu, thầy đến ngay buổi chiều hôm đó.
Buổi
trưa, sau khi ăn cơm xong, Sinh ngủ say đến bốn giờ chiều
để bù lại đêm ít ngủ vừa qua. Tiếng con Tăng sủa
mừng ngoài cổng làm Sinh thức giấc. Cậu bật dậy và
chạy ra mở cổng.
Thầy
Văn dẫn xe vào nhà, vừa ngồi xuống ghế, Sinh đã kể
ngay hành động cách mạng của cậu trong đêm qua. Lúc
đầu, thầy tỏ ra
ngạc nhiên làm Sinh rất thích thú, càng kể càng phấn
khởi. Thầy chăm chú nghe, mặt lộ vẻ xúc động. Sinh
vừa kể, vừa nhìn thầy. Qua phút ngạc nhiên ban đầu,
nét mặt thầy trở nên căng thẳng. Sinh chờ đợi nụ
cười tán thưởng nơi miệng thầy. Nhưng không, đôi môi
thầy hình như mím chặt, cái nhìn thì nghiêm khắc. Sinh
có cảm tưởng như mình là kẻ đang thú tội. Vì thế,
câu chuyện mà cậu kể, bắt đầu thì đầy phấn khởi
nhưng kết thúc thì xuội lơ. Sinh chờ đợi một lời
khen ngợi hoặc một lời la rầy. Nhưng thầy im lặng nhìn
ra cổng, vầng trán cao và thông minh của thầy cau lại
một cách khó hiểu. Vài phút sau, thầy lên tiếng, giọng
nói nhỏ và đều:
-
Thôi, chuyện lỡ rồi. Em có nhiệt tình và lòng can đảm
như thế cũng tốt.
Thầy
ngừng lại rồi hạ giọng nói tiếp:
-
Ngày nay em có để ý thấy ai qua lại trước cổng và
nhìn vào không?
Sinh
ngủ suốt từ trưa đến giờ. Nhưng cậu cũng trả lời
một cách cương quyết:
-
Không, không có ai cả.
-
Em làm bộ ra đuổi gà rồi bước ra cổng nhìn một lần
nữa. Nhớ nhìn kỹ nhưng thật nhanh, và cố hết sức tự
nhiên.
Sinh
nhìn ra, thấy có mấy con gà hàng xóm đang bươi ở chân
hàng rào. Cậu đứng dậy, miệng xua đuổi gà, chân bước
nhanh ra cổng. Trên con đường đất chỉ có vài người
đi bộ hoặc đạp xe ngang qua, tất cả đều bình thường
như mọi ngày. Sinh vào nhà nói với thầy bằng một giọng
chắc chắn:
-
Hoàn toàn yên ổn. Không có gì đáng ngại.
Thầy
vẫn giữ giọng nhỏ và đều:
-
Em lấy tập vở ra để trước mặt.
Bỗng
thầy nói thực to:
-
Tôi đã dặn em rồi. Dòng điện xoay chiều và dòng điện
một chiều khác xa nhau. Tại sao em đem công thức dòng
điện một chiều áp dụng cho các bài toán của dòng điện
xoay chiều? Trật rồi, làm lại hết.
Thầy
xuống giọng thực nhỏ nhưng gay gắt:
-
Em đã phạm một khuyết điểm thực đáng phê bình. Em
vừa có một hành động tự phát không thể nào chấp
nhận được ở người làm cách mạng. Ngay đối với
quần chúng, hành động tự phát cũng rất nguy hiểm cần
phải được ngăn chận. Với một người trong tổ chức,
hành động nầy còn tệ hại hơn vì được xem là hành
động vô kỷ luật.
Sinh
hoảng hốt, cảm thấy tay chân mình rụng rời. Cậu định
nói lời xin lỗi nhưng thầy đưa tay ngăn lại để nói
thật lớn:
-
Nếu nối hai đầu khung dây với mạch ngoài thành mạch
kín thì biểu thức điện áp tức thời mạch ngoài là...
Là bao nhiêu? Em tính lại rõ ràng cho tôi.
Thầy
lại gằn giọng nói nhỏ:
-
Hôm nay, thầy không thể nói chuyện với em lâu được.
Nên cẩn thận. Chuyện em làm khi đêm đã đặt cả xóm
nầy dưới sự giám sát đặc biệt của cơ quan an ninh
trong ít nhất vài tuần hoặc vài tháng. Em cứ giữ nếp
sinh hoạt bình thường, nhưng tránh đi chơi đêm về
khuya. Về khuyết điểm vừa rồi thì em nên rút kinh
nghiệm. Cái nguyên tắc căn bản của hoạt động địch
hậu là tuyệt đối làm theo sự lãnh đạo của cấp
trên. Mọi sáng kiến chỉ được thi hành sau khi cấp trên
chấp thuận.
Thầy
ngưng một chút để dò xét phản ứng trên mặt Sinh. Cái
nhìn của thầy dịu lại, giọng nói ôn tồn hơn:
-
Dù sao, câu chuyện vừa rồi cũng chứng tỏ lòng nhiệt
thành của em đối với Mặt trận. Nhưng rất tiếc, kể
từ hôm nay, tôi không đến thăm em nữa, ít nhất là một
vài tháng.
Thầy
lại ngưng một chút để suy nghĩ rồi nói nhanh:
-
Em chuẩn bị tư tưởng. Trong một hay hai tuần lễ nữa,
em có thể được kết nạp vào đoàn Thanh niên Lao động
qua một buổi lễ ở một địa điểm bí mật. Địa điểm
đó có thể là trong chiến khu hoặc ngay ở trong lòng
địch. Hôm nay, chủ nhật. Trưa thứ tư, đi học về, em
ghé tiệm phở ‘Tàu
bay’ ở ngã tư
Phú nhuận, tìm một bàn trống, kêu phở ăn. Thầy sẽ
đến gặp em tại đó. Bây giờ, thầy về. Em nhớ địa
điểm đó nhưng không được ghi vào giấy. Em hãy đưa
thầy ra cổng và giữ tự nhiên như hàng ngày.
Thầy
vẫn ngồi yên và đưa tay về trước. Bằng một phản
xạ, Sinh bắt tay thầy. Thầy nở một nụ cười rất
tươi, giọng vẫn nhỏ nhưng rất rõ ràng:
-
Chào tạm biệt đồng chí. Hẹn gặp lại.
Lời
“chào tạm biệt đồng chí” làm Sinh sửng sốt, nhưng
nét mặt cậu không lộ nét phấn khởi vì lòng cậu đang
rối bời. Sau khi xe thầy đi khuất, Sinh đóng cổng vào
nhà và nằm vật ra giường, đầu óc trống rổng, không
vui cũng chẳng buồn, không chán nản cũng chẳng hân hoan.
Về
phần thầy Văn thì sau khi nổ máy xe, thầy cố giữ nét
mặt thực thản nhiên, nhìn thẳng về phía trước. Chiếc
xe phóng vọt tới, suýt đụng phải một người đi bộ
băng qua đường. Thầy giật mình thắng gấp. Lái xe trong
khi đầu đang căng thẳng như hiện tại thì rất dễ gây
tai nạn. Thầy cố dẹp qua một bên các ý nghĩ đang nhảy
múa lung tung trong bộ óc để được thư giãn một chút
và lái xe thẳng về nhà.
Thế
là kế hoạch định sẵn cho việc gặp Sinh chiều nay bị
đảo lộn hoàn toàn. Khi đi, thầy đã vạch chương trình
rất rõ rệt. Trước hết, sinh hoạt về tình hình và
nhiệm vụ mới sau khi thỏa ước Paris
được ký ngày 23 tháng 1 năm 1973 và bắt đầu được áp
dụng từ 0 giờ GMT, tức là 7 giờ sáng, giờ Hà nội và
8 giờ sáng, giờ Sài gòn, ngày 28 tháng 1 năm 1973. Công
việc sinh hoạt nầy kéo dài không quá một giờ rưỡi.
Sau đó thầy sẽ hỏi xem Sinh có thể cho mẹ thầy tá túc
đỡ một thời gian tại nhà Sinh trong khi thầy tìm nhà
khác đủ cho thầy và mẹ sống.
Công
việc thứ nhất thì không có gì khó. Thầy đã học xong
nghị quyết, bây giờ thông báo lại và giải thích thêm.
Sinh rất thông minh nên việc nầy sẽ dễ dàng. Việc thứ
hai là việc nhà mới là nhức đầu.
Tuần
rồi, chị Hai của thầy lại lên khóc lóc, bảo thầy đem
mẹ lên Sài gòn ngay vì, ngoài sự nguy hiểm vì đạn lạc
tên bay, bà còn bị đe dọa từ cả hai phía. Hai con rể
của bà đều là du kích ban đêm, có thể thoát ly không
biết lúc nào, đó là điều đe dọa từ phía quốc gia.
Người ta phao tin đồn là ở Sài gòn, chính thầy là nhân
viên của CIA, tức là Cơ quan tình báo trung ương của Mỹ,
nên phe cách mạng sẵn sàng trút hận thù lên mái tóc bạc
của bà.
Nghe
chị nói, thầy lồng lộn lên vì tức giận và không kềm
được câu chửi thề tục tĩu trước mặt chị. Thầy
không biết chắc đó là tin đồn có thực ở quê hay chỉ
là sự bịa đặt của chị để đốc thúc thầy sớm đem
mẹ lên Sài gòn. Dù thế nào đi nữa, thầy cũng phải
hứa với chị giải quyết ngay công việc. Trong lúc chưa
tìm được nhà, thầy định tạm thời gởi mẹ sống tại
nhà Sinh. Nay thì giải pháp đó không thành rồi. Sinh vừa
thực hiện một việc có tính chất tự phát và xuẩn
động làm cho thầy phải ngưng lui tới. Không lẽ giao mẹ
cho Sinh rồi nhiều tháng trời không đến thăm mẹ hay
sao?
Việc
nhà rối rắm, việc nước cũng chẳng khá hơn. Cái nhà
kín đáo trong khu vườn rộng của Sinh đã được thầy
chọn làm địa điểm hội họp và cất giấu tài liệu
sau nầy. Bây giờ thì dự tính đó hoàn toàn lung lay, một
khi cả xóm nầy bị cơ quan an ninh cho vào sổ đen. Chưa
hết, chuyện cấp bách nhất hiện nay chính là bản thân
cậu học trò cũ mà cũng là đồng chí mới của thầy.
Thầy biết đó là một nhân tố rất tích cực và rất
quý giá để bổ sung cho hàng ngũ cách mạng ở nội
thành. Nhưng thầy cũng biết tính chất hiếu động của
thanh niên. Tính chất hiếu động đó, trước nay thầy
chỉ nghĩ đến việc ăn nói không cẩn thận chứ có ngờ
đâu đến việc làm vừa qua của Sinh. Chắc chắn Sinh
không lặp lại hành động như vừa rồi nữa nhưng với
bản tính hiếu động, bất chấp hiểm nguy, cậu có thể
có hành động khác nguy hiểm không kém. Không những nguy
hiểm cho bản thân Sinh mà hậu quả còn có thể vô cùng
tai hại cho đời sống của thầy và cho sự hoạt động
của tổ chức. Thầy hiểu Sinh là một phần tử mau giác
ngộ nhưng chưa hề được trui rèn trong ngọn lửa cách
mạng nên, nếu bị bắt, cậu ta không thể nào chịu đựng
nổi sự tra tấn. Cậu ta sẽ khai, mà chẳng khai ai khác
ngoài thầy. Do đó, hiện tại phải ưu tiên giải quyết
vị thế của Sinh trước đã.
Trong
những tháng vừa qua, đôi khi thầy có ý nghĩ sớm đưa
Sinh vào đoàn để cậu được sinh hoạt thường xuyên
nhưng thầy trì hoãn để giáo dục thêm ý thức hoạt
động trong vùng tạm chiếm. Hơn nữa, thầy cũng muốn
Sinh có một đóng góp nào đó cho cách mạng, cụ thể là
vận động được một hai bạn quen để trở thành đối
tượng đoàn sau nầy. Thành tích ban đầu đó sẽ tăng
thêm ý nghĩa của lễ kết nạp đoàn và hơn nữa, thành
tích đó của Sinh cũng chính là thành tích của thầy đối
với cấp trên. Nhưng bây giờ, không thể trì hoãn được
nữa. Phải kết nạp Sinh vào đoàn càng sớm càng tốt.
Trở thành đoàn viên, cậu ta sẽ cảm thấy mình trưởng
thành, có ý thức kỷ luật, nên sẽ biết thận trọng
trong lời nói và việc làm. Hơn nữa, đoàn là sợi dây
vô hình nhưng rất vững chắc cột chặt cuộc sống của
cậu ta với cách mạng, từ đó có thể đòi hỏi sự hi
sinh cao độ của cậu đối với tổ chức và đối với
cá nhân thầy nữa. Thầy liên tưởng tới việc gởi mẹ
về sống tại nhà nầy sau khi đã yên chí địch không
còn theo dõi nữa. Đã là đoàn viên, Sinh sẽ chấp nhận
đề nghị của thầy một cách dễ dàng, không còn nghi
ngại gì nữa. Dần dần, cậu ta cũng có thể nhường lại
cho thầy một miếng đất trong khu vườn rộng rãi để
thầy cất nhà và sống với mẹ và có thể cả với vợ
con sau nầy nữa. Nghĩ đến đó, thầy thấy trong lòng
thực phấn khởi và tự thấy hài lòng với chính mình.
Thầy nhớ lại lúc nghe Sinh kể hành vi cách mạng có tính
cách xuẩn động của mình, thầy bàng hoàng sửng sốt vì
mọi chuyện đã thay đổi hoàn toàn, nhưng với khả năng
suy nghĩ của người trí thức, với kinh nghiệm đối phó
trong bao nhiêu năm cọ xác với địch ngay trong lòng địch,
thầy có quyết định như trên một cách hết sức nhanh
chóng.
Về
thủ tục, việc chấp nhận Sinh vào hàng ngũ Thành đoàn
hoàn toàn tùy thuộc nơi thầy. Theo điều lệ, đoàn viên
đã có thể giới thiệu quần chúng vào đoàn, huống chi
thầy là đảng viên, hơn nữa bí thư chi bộ đảng. Điều
khó khăn cuối cùng là cơ sở hoạt động. Hiện thầy
đang phụ trách một trường trung học tư thục còn Sinh
thì đang học ở trường đại học Khoa học. Ở đó có
tổ chức đoàn hay không thì thầy không thể biết được.
Thầy cũng không muốn giới thiệu Sinh cho một cơ sở
khác mà muốn giữ người đồng chí nầy lại cho mình,
sẽ có lợi hơn nhiều. Được rồi, thầy sẽ báo cáo
lên trên là Sinh sắp về dạy ở trường mình và việc
kết nạp Sinh vào cơ sở của thầy trở nên hữu lý.
Bây
giờ chỉ còn chọn địa điểm, quyết định ngày và
thành phần tham dự lễ kết nạp. Dĩ nhiên với nguyên
tắc bí mật, chỉ cần thầy và Sinh là đủ. Phần lễ
nghi cũng không cần thiết; chỉ cần bắt Sinh đứng
nghiêm để thầy đọc thuộc lòng quyết định của Thành
đoàn là xong. Nhưng thầy không bằng lòng với cách làm
giản dị đó. Sinh là niềm hy vọng của thầy. Đó là
một khâu trong chuỗi tính toán cho tương lai của thầy.
Buổi lễ kết nạp phải long trọng tối đa, vì như thế
sẽ ảnh hưởng tốt đến chất lượng công tác của
Sinh sau nầy. Buổi lễ kết nạp phải có cờ Mặt trận,
thêm cờ nước càng tốt. Và phải có người thứ ba tham
dự. Người thứ ba ấy phải là người cùng cơ sở hoạt
động với Sinh ngay sau đó. Mọi việc nầy phải giải
quyết xong trong ba ngày, vì thầy đã hẹn Sinh, trưa thứ
tư sẽ gặp lại tại quán phở Tàu
bay, nơi thầy
thường dùng để liên lạc.
*
*
*
KHU
Bàn cờ có nhiều con đường nhỏ chặt nhau vuông góc như
một bàn cờ. Ngày xưa chỉ toàn là nhà lá, cái nầy
giống hệt cái kia, nên vào đây thì như lạc vào một mê
hồn trận, không còn biết mình đang đứng trên con đường
nào nữa. Vì vậy, ở những năm đầu kháng Pháp, khu nầy
nổi tiếng là một ổ Việt minh mà lính Pháp phối hợp
với lính quốc gia thường xuyên bố ráp.
Khoảng
năm 1952, ngọn lửa thiêu rụi toàn khu Bàn cờ. Những căn
nhà mọc lên sau đó không còn là nhà lá nữa. Vẫn những
con đường kẻ ô vuông như cũ, nhưng nhà thì mỗi cái
một kiểu khác nhau, dễ nhận diện, do đó cái ổ Việt
minh cũng biến mất phần lớn. Tuy nhiên, có lẽ vì tính
chất truyền thống cách mạng, nên khi muốn tạo dựng
một địa điểm bí mật để hội họp, các cán bộ nội
thành vẫn có khuynh hướng tìm đến khu nầy.
Địa
điểm hội họp của thầy Văn cũng không ngoại lệ.
Song
song với đường Phan đình Phùng, có một con hẻm, nằm
ngay sau chùa Kỳ viên, nối liền đường Bàn cờ với
đường Cao thắng. Hai bên hẻm là hai dãy phố với những
căn nhà sát vách nhau. Gọi là dãy phố nhưng mỗi căn
thuộc một chủ, xây cất theo ý riêng, nên dãy nhà lởm
chởm, cái thấp, cái cao, có nhà trệt thấp lè tè, có
nhà cao ba, bốn tầng.
Trong
số nầy, có một căn gồm một trệt, một lầu. Đó là
địa điểm hội họp chính của thầy Văn. Tầng trệt là
một quán rượu. Bên trước quán là một quầy bán mồi
nhậu. Những thứ nấu nướng hằng ngày như thịt vịt
luộc, chả giò chiên, thịt bò xào thì thường đến trưa
là hết, hiếm khi còn lại đến chiều tối. Các món khác
như đậu phộng rang, khô mực, khô cá thiều, khô bò thì
có thường xuyên nhưng ít hấp dẫn đối với khách nhậu.
Do đó, buổi chiều thường vắng khách, rất thuận tiện
cho công tác cách mạng.
Việc
buôn bán hoàn toàn do hai mẹ con đảm nhận. Mẹ là một
phụ nữ khoảng bốn mươi tuổi, con là một thiếu nữ
khoảng mười lăm, không đẹp cũng không xấu lắm. Đó
là vợ và con của một đồng chí ở Mỹ tho đã bỏ mình
trong Tết Mậu thân. Tổ chức đưa hai mẹ con lên đây,
vừa có cách sinh sống vừa canh giữ cho địa điểm hội
họp nầy.
Tầng
trệt là một phòng lớn kê năm bộ bàn ghế thấp để
tiếp khách bình dân. Phía sau là bếp và nhà vệ sinh liền
nhau. Tầng lầu bên trên là cơ sở cách mạng. Có hai lối
để lên trên lầu. Thứ nhất là một cầu thang đúc,
rộng rãi, đẹp đẽ ở ngay cuối phòng trệt nhưng lại
luôn luôn đóng bít để ngăn cản khách nhậu bước lên
một cách vô tình hay hữu ý. Thứ hai là lối đi thường
xuyên, bằng cái thang rất dốc, được đặt ngay trong
bếp. Lối đi nầy, chỉ có người trong cuộc mới biết
để sử dụng.
Tầng
lầu dùng làm nơi hội họp, có các cửa sổ bằng kiếng,
bên trong có màn che bằng vải dày y như các phòng của
nhà giàu. Khác với các nhà khác, bao lơn có cửa thông ra
lại nằm phía sau, chứ không ở phía trước. Điều nầy
cũng dễ giải thích vì mặt tiền nhà quay về hướng
Tây, buổi chiều ra bao lơn ngồi thì rất mát mẻ. Nhưng
đối với tổ chức thì bao lơn phía sau có ý nghĩa khác.
Hai
bên là hai nhà trệt. Mái của một trong hai nhà đó hơi
thấp và cách bao lơn khoảng một thước. Chỗ trống bên
dưới là sàn nước của nhà bên cạnh. Đối với một
người khỏe mạnh, leo ra hàng rào sắt của bao lơn, nhún
chân nhảy qua mái nhà bên ấy là điều khá dễ dàng. Mái
nhà ấy làm bằng tấm lợp xi măng, loại của Mỹ sản
xuất nên rất chắc, có thể chạy bên trên một cách
vững vàng. Các mái nhà gần như tiếp nối nhau liên tục
tạo nên một con đường trốn chạy khá an toàn khi địa
điểm bị lộ và bị bao vây.
Nơi
hội họp bí mật nầy thuộc quyền cai quản của thầy
Văn. Thầy không có tên trong giấy khai nhà ở đây, nhưng
lại đóng vai trò chủ nhân bí mật. Về mặt công khai,
căn nhà nầy là của một đại tá quân đội Cộng hòa
đã được thuyên chuyển về vùng Một Chiến thuật tận
ngoài Huế. Tổ chức cách mạng cho người dùng giấy tờ
giả ký hợp đồng thuê mướn. Viên đại tá cũng không
cần tiền lắm nên không phải trả tiền trước; tiền
thuê hàng tháng cũng chỉ có tính cách tượng trưng để
cho có người giữ nhà mà thôi.
Đồ
đạc trong nhà toàn là nhưng thứ rẻ tiền, để khi bị
động thì hai mẹ con bỏ trốn về quê hay ra chiến khu.
Hai mẹ con cũng hoàn toàn không biết tên tuổi, địa chỉ
của những người đến họp. Bà mẹ và cô con gái chỉ
cần người nào đến, nói trúng mật khẩu là cho lên lầu
bằng cầu thang trong bếp. Mật khẩu thay đổi hàng tháng,
do thầy Văn thông báo. Thầy dùng địa điểm nầy để
sinh hoạt chi bộ, thường kỳ là mỗi tháng một lần và
đôi khi bất thường nếu có chỉ thị đột xuất và
khẩn cấp. Thỉnh thoảng nơi đây cũng họp liên chi bộ
nhưng rất hiếm vì thầy thường nhận chỉ thị trực
tiếp từ một người của cấp trên ở địa điểm thay
đổi luôn, như ghế đá vườn Tao đàn hay sở thú, một
quán cà phê, một rạp chiếu bóng thường trực, vân vân.
Thầy
Văn quyết định tổ chức lễ kết nạp cho Sinh ở địa
điểm nầy. Cách nay đúng năm ngày, thầy đã gặp Sinh ở
điểm hẹn là tiệm phở
Tàu bay tại ngã tư
Phú nhuận và đã chỉ rõ ngày giờ cũng địa điểm kết
nạp. Thầy dặn Sinh đúng ba giờ chiều thứ hai đến với
một bộ áo quần cũ kỹ, lôi thôi như một dân lao động
đến quán nhậu. Sinh cũng cần mượn một xe đạp đến
dựng bên ngoài để, nếu cần, bà chủ quán giấu dễ
dàng ở sau bếp. Tất cả mọi điều đó được dặn dò
trong thời gian ăn xong tô phở.
Chiều
thứ hai, Sinh có một buổi thực tập vật lý nhưng cậu
bỏ vì cậu nghĩ rằng buổi lễ kết nạp đoàn chỉ có
một lần trong đời người. Đêm chủ nhật, Sinh muốn
ngủ sớm để ngày mai tươi tỉnh, mà không ngủ được
nhiều vì cứ nôn nao nghĩ đến lễ kết nạp ngày mai.
Buổi
sáng thứ hai, Sinh ở nhà, mang sách vở ra học cầm chừng.
Cậu đã mượn được chiếc xe đạp của chị Hằng với
lý do là xe gắn máy của cậu bị hư. Đến hai giờ
chiều, cậu thay áo quần. Cậu đã lục bao đồ phế
thải, lôi ra cái quần hơi ngắn mà Sinh đã loại từ
lâu. Cái áo sơ mi thì vừa nhưng rất cũ và trông dơ dáy
vì áo nầy đã bị dùng làm giẻ lau bàn từ ít lâu nay.
Không còn áo cũ nên Sinh đã giặt lại, theo đúng chỉ
thị của thầy Văn. Cái áo nầy bỏ ngoài quần càng tăng
thêm vẻ phong trần. Thay đồ xong, đứng trước gương,
Sinh cũng phải bật cười. Cậu sinh viên đẹp trai đã
trở thành một anh công nhân lem luốc.
Cậu
khóa cửa cẩn thận, leo lên xe và đạp về Sài gòn.
Địa
điểm bí mật ở gần trường Đại học Khoa học, nên
cách đây hai ngày, trên đường đi học về, Sinh đã đi
qua và quan sát. Nhờ đó, hôm nay Sinh vững bụng và không
phải lo kiếm nhà nữa. Cậu đến nơi trước giờ hẹn
năm phút. Quán nhậu trống trơn không có người khách nào
cả. Bà chủ quán ngồi ngáp sau quầy. Sinh dựng xe đạp
trước quán, cẩn thận khóa bánh trước rồi bước vào.
Cậu lịch sự chào người đàn bà rồi đến ngồi ở
bàn trong cùng để tránh nắng chiều. Bà chủ đứng dậy
đến bàn Sinh ngồi, mỉm cười, hỏi:
-
Cậu dùng khô mực không?
-
Không, tôi thích lòng bò và phải là thứ thật mềm.
Đó
là mật khẩu mà thầy Văn đã cho cậu. Cậu thấy thích
thú khi thốt xong câu mật khẩu nầy. Cậu có cảm tưởng
mình đang đóng mọt vai trinh thám ly kỳ. Bà chủ nheo mắt
với cậu và nói to:
-
Nhà vệ sinh trong kia, cậu cứ tự nhiên.
Sinh
bước vào bếp theo ngón tay trỏ của bà. Cánh cửa gỗ
hé mở, Sinh bước nhanh vào và leo lên chiếc cầu thang
thẳng đứng. Vừa ló đầu lên khỏi cầu thang, cậu đã
thấy thầy Văn cùng một người nữa đang rì rầm nói
chuyện. Gian phòng khá trống trải. Phía trước là một
bàn chữ nhật loại rẻ tiền, với bốn ghế dựa bốn
bên. Phía sau là một chiếc giường khá rộng, có chiếc
chiếu trải thẳng lên vạt gỗ. Cửa sổ và một cửa đi
đều treo màn xanh nên trong phòng mát dịu, trong khi bên
ngoài đang nắng gắt. Thầy Văn và người kia đang ngồi
trên nền gạch bông sạch bóng. Sinh thấy anh ta có vẻ
quen quen. Không khó khăn lắm, Sinh nhận ra đó là anh giáo
sư dạy các lớp sáu của trường trung học tư thục mà
Sinh theo học trước đây. Anh giáo sư nầy trông có vẻ
ốm yếu, khoảng hai mươi hai tuổi, mang mắt kiếng cận
thị khá nặng. Hình như anh ta dạy môn sử địa.
Thầy
Văn vẫy tay gọi Sinh đến cùng ngồi trên nền gạch với
hai thầy:
-
Tôi xin giới thiệu. Đây là đồng chí Bá, dạy cùng
trường với tôi. Đồng chí đang là đoàn viên Thanh niên
Lao động thuộc cơ sở trường đang dạy. Và đây là
đồng chí Sinh sắp được kết nạp đoàn, như đồng chí
Bá đã biết. Trước hết, chúng ta làm lễ kết nạp để
có thể sớm thủ tiêu hai lá cờ hầu đảm bảo an ninh.
Sau đó là phần học tập nghị quyết về tình hình,
nhiệm vụ mới. Trước khi tiến hành buổi lễ, tôi cũng
xin báo cáo điều nầy. Đáng lẽ trước khi được kết
nạp, đồng chí Sinh phải học tập điều lệ đoàn.
Nhưng tôi không mượn được cuốn điều lệ. Có lẽ cả
Thành đoàn cũng không có cuốn điều lệ nào bằng giấy
trắng mực đen. Tôi có nhận xét đồng chí Sinh về phẩm
chất đạo đức cách mạng và ý thức bổn phận người
yêu nước thì đạt yêu cầu của bản điều lệ nên
lãnh đạo chấp thuận cho đồng chí Sinh thông qua khâu
học tập điều lệ. Khi có dịp sẽ nghiên cứu sau.
Nói
xong, thầy lôi trong cặp ra một quyển tập có bao bìa,
phía trước có dán miếng giấy trắng làm nhãn với ba
chữ thật to: “Sổ soạn bài”. Tấm giấy bao được
dán thẳng vào bìa cuốn tập. Thầy xé bỏ và rút ra hai
tờ giấy xếp làm đôi. Thầy mở ra và vuốt cho thẳng.
Đó là hai lá cờ, mỗi lá to gần bằng một tờ giấy
đôi trong vở học trò. Một lá cờ nước nền đỏ sao
vàng và một lá cờ Mặt trận, nửa xanh nửa đỏ với
ngôi sao vàng ở giữa. Cả hai đều được dán bằng giấy
màu.
Thầy
đến giường, khum xuống lôi từ gầm giường một tấm
ván ép mỏng rồi móc trong cặp ra một hộp nhỏ đựng
đinh rệp. Thầy đặt tấm ván xuống nền nhà, trải hai
lá cờ lên, sắp ngay ngắn và ấn đinh vào tám góc. Thầy
nhìn lên vách; tấm vách tường trơn tru không có một cây
đinh nào cả. Bá hiểu ý thầy, bưng hai chiếc ghế dựa
đến sát vách, chồng lên nhau. Thầy mỉm cười, trân
trọng đặt hai lá cờ lên chiếc ghế bên trên.
Sinh
hồi hộp nhìn thầy làm việc. Hai lá cờ bé tí, đặt ở
nơi không trang trọng lắm, nhưng gây cho Sinh sự xúc động
mãnh liệt. Nó có vẻ gì rất thiêng liêng, hơn hẳn nhưng
lá cờ bay phất phới trên những trụ cao mà người ta có
đủ thì giờ chuẩn bị kỹ lưỡng. Sinh thầm nghĩ cuộc
đời cậu từ nay gắn liền với hai lá cờ nầy. Một
niềm cảm khái dâng lên trong lòng cậu, rạt rào, ào ạt
như ngọn sóng thủy triều.
Cả
ba đều đứng nghiêm. Sinh đứng giữa, hai bên là hai
thầy. Thầy Văn nói nhỏ nhưng giọng không kém phần dõng
dạc:
-
Buổi lễ kết nạp hôm nay gồm có các phần sau đây:
Chào cờ, mặc niệm, công bố quyết định của Thành
đoàn, tuyên thệ, đại diện Thành đoàn và chi bộ đảng
chấp nhận lời tuyên thệ, chào cờ bế mạc. Riêng phần
tuyên thệ thì các đồng chí lưu ý điểm sau đây. Tôi
đọc lời tuyên thệ, đồng chí Sinh chỉ cần đưa tay
lên ngực, bàn tay áp vào tim rồi đưa thẳng về trước,
lặp lại ba lần tiếng xin
thề. Nhớ nói nhỏ
đủ nghe thôi.
Thầy
ngưng nói, nhìn thẳng vào hai lá cờ, thân mình khẽ giật
một cái và trở nên cứng đờ. Sinh và Bá cũng làm theo
như thế. Thầy hô nho nhỏ:
-
Nghiêm. Hướng về cờ nước và cờ Mặt trận, chào cờ….
chào. Một phút mặc niệm Hồ Chủ tịch và các chiến sĩ
cộng sản đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Vài
giây sau, thầy tiếp:
-
Thay mặt Thành đoàn, tôi công bố quyết định kết nạp
đồng chí Nguyễn văn Sinh, sinh ngày hai, tháng chín, năm
một ngàn chín trăm năm mươi hai, vào Đoàn Thanh niên Lao
động, đội hậu bị của đảng Lao động Viêt Nam.
Vài
giây sau, thầy nói tiếp:
-
Mời đồng chí đoàn viên Nguyễn văn Sinh làm lễ tuyên
thệ.
Thầy
đằng hắng cho giọng trong trẻo hơn:
-
Thề tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với chủ
nghĩa xã hội.
Sinh
nghẹn ngào đưa tay lên quả tim:
-
Xin thề, xin thề, xin thề.
Thầy
tiếp tục:
-
Thề hy sinh tất cả, kể cả tính mạng cho Mặt trận,
cho công cuộc giải phóng miền Nam.
-
Xin thề, xin thề, xin thề.
-
Tôi thay mặt Thành đoàn chấp nhận lời thề của đồng
chí Sinh. Lễ kết nạp chấm dứt. Chào cờ bế mạc.
Nghiêm. Chào cờ…. chào. Xong.
Thầy
Văn vội vã bước đến gỡ hai lá cờ, xếp nhỏ lại
nhét vào túi quần và xuống cầu thang. Sinh hiểu ngay là
thầy xuống bếp đốt bỏ đi.
Vài
phút sau, thầy trở lên mang theo một bình trà, ba cái ly
nhỏ và một gói kẹo đậu phộng. Thầy bảo hai đoàn
viên ngồi vào bàn. Thầy rót ba ly nước trà, mở gói kẹo
và vui vẻ nói:
-
Tôi muốn buổi lễ kết nạp diễn ra ở chiến khu để
đồng chí Sinh biết được căn cứ địa của cách mạng
và để tăng thêm sự trang trọng của buổi lễ. Tuy
nhiên, Thành đoàn cho biết, hiệp định Paris
vừa mới có hiệu lực nên địch có thể tung nhiều gián
điệp vào khu giải phóng. Chúng có thể nhận diện chúng
ta và đợi ta về thì chúng cho vào rọ. Thôi, các đồng
chí hãy thưởng thức một chút hương vị của chiến khu
đi.
Sinh
ngạc nhiên:
-
Trà và kẹo nầy đem ở chiến khu ra à?
Thầy
cười:
-
Đặc sản của chiến khu là mìn và bàn chông. Mấy thứ
nầy trong chiến khu cũng mua từ chợ vào. Có điều gần
như bất cứ cuộc họp nào cũng kết thúc như thế nầy.
Cho nên, sau lễ kết nạp vừa qua, ăn miếng kẹo đậu
phộng, uống ngụm trà rồi nhắm mắt lại là thấy mình
đang ở chiến khu.
Sinh
pha trò:
-
Thầy dạy lý hóa mà cũng lãng mạn ghê.
Thầy
chỉnh liền:
-
Ậy, cái thứ lãng mạn là tối kỵ với giai cấp vô sản
đó. Nhưng lâu lâu thả hồn về chiến khu thì cũng không
sao.
Cả
ba cười vui vẻ.
Thầy
Văn bắt đầu vào đề của buổi học tập:
-
Trước khi học nghị quyết của Thành đoàn, tôi xin thông
báo quyết định của chi bộ. Kể từ hôm nay, trường
Trung học Trần quốc Tuấn có riêng một chi đoàn gồm ba
người là tôi và hai đồng chí Bá và Sinh. Tôi và đồng
chí Bá đang hoạt động trong cơ sở là nhà trường. Đồng
chí Sinh thì đang học ở Đại học Khoa học nhưng trước
sau gì cũng sẽ về trường để dạy. Trong thời gian chưa
chính thức về trường, đồng chí Sinh vẫn có thể làm
công tác dân vận với bất cứ người quen biết nào của
mình. Ngay trong trường Đại học, nếu phát hiện được
nhân tố tốt thì cũng cứ xúc tiến việc giáo dục và
sau đó có thể giới thiệu cho cơ sở khác. Với chi đoàn
mới hình thành, tôi tạm thời giữ chức bí thư, đợi
khi kết nạp được đoàn viên mới thì sẽ đề cử một
trong hai đồng chí thay tôi. Địa chỉ sinh hoạt của chi
đoàn là nhà đồng chí Sinh. Nhưng tạm thời chúng ta chưa
sử dụng địa điểm đó. Ngày giờ và địa điểm mỗi
buổi sinh hoạt, tôi sẽ thông báo đến các đồng chí
sau.
Thầy
dừng lại cắn một miếng kẹo, uống một ngụm trà để
nhớ chiến khu rồi nói tiếp:
-
Bây giờ đến phần học nghị quyết về tình hình nhiệm
vụ mới. Thỏa hiệp Paris
vừa có hiệu lực cách nay ít lâu không phải là điểm
chấm hết công cuộc giải phóng miền Nam mà chỉ là một
bước ngoặc để đẩy tiến trình giải phóng nhanh hơn.
Với hiệp định nầy, Mỹ đã chính thức bị đuổi khỏi
miền Nam, cùng với các chư hầu khác là Thái lan, Nam Hàn,
Úc. Mỹ cút rồi, bây giờ phải nhanh chóng đánh cho ngụy
nhào theo lời di chúc thiêng liêng của bác Hồ. Do đó,
chúng ta phải cương quyết ngăn chận sự manh nha và phát
triển tư tưởng cầu an hưởng lạc trong hàng ngũ cán bộ
chúng ta. Đừng bao giờ nghĩ rằng hòa bình đã đến, một
khi chúng ta chưa toàn thắng. Cuộc đấu tranh vũ trang vẫn
tiếp tục, nhưng tạm thời dưới hình thức khác, khó
khăn hơn nhiều.
Thầy
lại ăn kẹo, uống nước trà rồi tiếp:
-
Chúng ta rút kinh nghiệm của hiệp định Genève
năm 1954. Lúc đó,
chúng ta đã để cho cuộc đấu tranh chính trị tiến hành
quá lâu mà không sớm kết hợp với chiến tranh nên địch
có thời giờ củng cố lực lượng, làm chậm trễ công
cuộc giải phóng miền Nam để thống nhất đất nước
trong nhiều năm. Vả lại, lúc đó ta mới giải phóng miền
Bắc, phải lo củng cố chính quyền, đập tan bọn phản
động còn cài lại và hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ
nhân dân, để gấp rút bắt đầu cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Cuộc cách mạng nầy đã giúp ta quản lý tài
nguyên nhân lực, nhờ đó miền Bắc mới trở thành một
hậu phương lớn, để yểm trợ cho tiền tuyến lớn là
miền Nam Việt Nam.
Thầy
ngưng lại để lấy hơi rồi tiếp:
-
Đó là tình hình, bây giờ đến nhiệm vụ mới. Chúng ta
phải gấp rút đẩy mạnh cuộc đấu tranh quân sự một
khi Mỹ và chư hầu rút hết khỏi miền Nam. Đồng thời,
chúng ta cũng đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị để
yểm trợ cho cuộc đấu tranh quân sự. Mục tiêu trước
mắt là gây bất ổn chính trị ở các thành phố lớn để
làm suy yếu tinh thần của quân ngụy ngoài chiến trường.
Chúng ta phải tăng cường sự lãnh đạo trong hàng ngũ
chủ lực là công nhân, thúc đẩy sinh viên học sinh xuống
đường, gây mâu thuẫn giữa hai tôn giáo chính là Phật
giáo và Thiên chúa giáo để chia rẽ hai lực lượng phản
động đó, nhất là gây mâu thuẩn giữa tôn giáo với
nhà cầm quyền, từ đó thúc đẩy tôn giáo chống lại
nhà cầm quyền. Chúng ta cũng vận động giới văn nghệ
sĩ, các nhà văn, nhất là các nhạc sĩ trẻ có tài tham
gia phong trào phản chiến để khuyến khích thanh niên
chống lệnh bắt lính và tổng động viên của địch.
Thầy ngừng lại, ăn kẹo, uống nước trà rồi kết
luận:
-
Tôi vừa mới tóm tắt xong nghị quyết. Thôi đủ rồi.
Còn với chi đoàn thì hai đồng chí cứ tiếp tục nhiệm
vụ của mình. Nếu có gì mới, tôi sẽ chỉ đạo ở các
kỳ sinh hoạt sau. Riêng đồng chí Sinh, tôi thay mặt Thành
đoàn và chi bộ có lời chúc mừng đồng chí đã thực
sự đứng vào hàng ngũ của cách mạng. Tôi cũng xin nhắc
với đồng chí rằng, đoàn là đội hậu bị của đảng.
Điều đó có nghĩa đoàn viên là người bắt đầu trở
thành người cộng sản. Do đó đồng chí Sinh cần phải
tự rèn luyện tư tưởng mình, đặc biệt về vấn đề
đấu tranh giai cấp mà trước đây tôi đã từng giải
thích. Đồng chí phải luôn tâm niệm rằng giai cấp tư
sản là kẻ thù của giai cấp vô sản. Có thế, sau nầy
đồng chí mới xứng đáng thực sự đứng vào đội ngũ
của đảng tiền phong, đại diện chính thức và duy nhất
của giai cấp vô sản . Một lần nữa, tôi chúc mừng sự
vinh quang của đồng chí.
Bài
diễn văn hùng hồn của thầy Sinh kết thúc lễ kết nạp
và học tập nghị quyết, mọi người lần lượt ra về.
*
*
*