Bước
qua năm 1975, tình hình suy sụp nhanh chóng.
Sau
khi Ban mê thuột, trái tim của cao nguyên, thất thủ ngày
10 tháng 3 năm 1975, ít ai tin rằng Việt Nam Cộng hòa còn
đủ sức chống trả với cuộc tấn công của Việt cộng.
Vô số bộ đội cộng sản, xe tăng, đại bác, hỏa tiễn,
ngang nhiên vượt qua sông Bến hải, tiến vào nuốt chửng
từng thôn làng, từng huyện, từng tỉnh của Việt Nam
Cộng hòa.
Trong
quân đội, lệnh cắm trại một trăm phần trăm được
duy trì tháng nầy qua tháng nọ; anh Định nhiều tuần mới
lén về thăm tôi một lần. Còn vài tháng nữa tôi tốt
nghiệp nhưng hai chúng tôi không còn lòng dạ nào để bàn
về hôn lễ nữa. Hằng đêm tôi thắp nhang trước bàn
thờ anh Quân, mong anh che bớt mũi tên hòn đạn cho người
tôi yêu thương.
Toàn
thể cao nguyên mất, hai tỉnh địa đầu bị tràn ngập.
Lính Cộng hòa rút lui, dẫn theo hàng hàng lớp lớp dân
chúng chạy theo vì sợ cộng sản. Trong lịch sử Trung
hoa, khi Mông cổ đánh bại nhà Tống, Mãn Thanh dẹp được
nhà Minh và cộng sản đè bẹp Quốc dân đảng, người
Tàu cũng từng chạy trốn, nhưng có lẽ không thảm thương
bằng dân chúng Việt Nam chen nhau xuống tàu ở Thuận an
hoặc dắt díu nhau vượt suối băng ngàn trên suốt đoạn
đường gian nan từ cao nguyên về miền duyên hải.
Các
trường trung học ở Sài gòn Gia định vẫn tiếp tục mở
cửa nhưng học trò được nghỉ học để nhường phòng
lớp cho người tị nạn.
Mẹ
tôi suốt ngày mặt mày ủ dột. Ba thì trái lại, hết
sức vui mừng. Chưa bao giờ tôi thấy ông hân hoan đến
như thế. Thấy mẹ buồn rầu, ông vừa khuyến khích, vừa
la rầy. Ông bảo rằng cách mạng sắp đạt thắng lợi
hoàn toàn, rằng miền Nam sắp được giải phóng khỏi
ách Mỹ ngụy, rằng đất nước sắp thống nhất, miền
Nam sắp được hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc như
miền Bắc.
Trong
những ngày cuối tháng tư, mọi hoạt động của thủ đô
đều tê liệt, hãng xưởng ngưng làm việc, cửa hàng
thương mại đóng cửa. Người ta ùn ùn đổ về Tân sơn
nhất, bến tàu, tòa đại sứ Mỹ để hi vọng rời khỏi
quê hương.
Tôi
gần như phát điên, từng ngày từng giờ mong ngóng tin
tức của Định. Những gia đình tôi quen biết, mấy đứa
bạn có cha làm việc trong quân đội, đều đã ra đi. Tôi
xách xe chạy loanh quanh trong thành phố, gõ cửa những căn
nhà im ắng rồi hoảng loạn trở về. Bát hương trên bàn
thờ anh Quân đầy ắp chân nhang, Định vẫn biệt tin.
Ba
tôi cũng không còn đi làm việc nữa. Rảnh rỗi, ông đi
lùng mua được nhiều tờ giấy màu và ban đêm, đóng kín
cửa ngồi cặm cụi cắt dán những lá cờ Mặt trận
Giải phóng, nền đỏ xanh với ngôi sao vàng ở giữa.
Sáng
ngày 30 tháng tư, chiếc xe tăng do Trung cộng chế tạo húc
đổ chiếc cổng dinh độc lập, Việt Nam Cộng hòa biến
mất trên bản đồ thế giới. Khi nghe tin tổng thống
Dương văn Minh, mới nhậm chức mấy hôm trước, tuyên bố
đầu hàng vô điều kiện, ba tôi nhảy dựng lên hoan hô
như một đứa trẻ thơ. Sau đó ba mang cờ mặt trận đi
phân phát cho hàng xóm. Riêng ông cắm một lá cờ trước
xe chạy khắp Sài gòn để xem thành phố bị đổi chủ.
Ba cũng đi đến các nhà bạn bè và hàng xóm giải thích
cho họ rõ tại sao cách mạng thành công và chủ nghĩa xã
hội là gì.
Khi
các cấp chính quyền được thành lập, ba được mời
lên làm việc tại ủy ban. Trông ông thực là hạnh phúc.
Một buổi tối, trong cuộc họp đồng bào trong xóm, ông
được bầu làm tổ trưởng tổ đoàn kết.
Thế
là ba bận rộn với công tác cách mạng; ông đi từ sáng
sớm đến tối mịt, có khi đến gần nửa đêm mới về,
nét mặt bơ phờ vì mệt nhọc nhưng trong đôi mắt ánh
lên niềm hạnh phúc vô biên.
Tôi
không còn nước mắt để khóc. Trong giấc mơ, tôi thấy
Định hiện ra trên đồi thông, bóng dáng nhạt nhòa như
sương khói.
Ngày
2 tháng 5, có một thanh niên đến rung cổng nhà tôi.
Người thanh niên tự giới thiệu tên là Hà, trước đây
mấy ngày còn mang cấp bậc thiếu úy bộ binh. Anh cùng
làm việc với Định tại trung tâm hành quân của bộ tư
lệnh sư đoàn Năm bộ binh. Tôi vừa nghe anh ta giới thiệu
đến đó, hai chân đã sụm xuống. Người thanh niên nhìn
tôi trân trối:
-
Chị là Hồng Ngọc, đúng không?
Tôi
không trả lời anh ta chỉ hét lên cầu cứu:
-
Mẹ ơi. Mẹ ra đây.
Hôm
đó chỉ có mẹ tôi ở nhà. Mẹ tất tả chạy ra mời
thiếu úy Hà vào nhà. Anh ta có vẻ vội vã lắm, nên vừa
bước qua khỏi cửa đã báo tin ngay mà không cần rào
trước đón sau. Anh nói với chúng tôi:
-
Sáng ngày 30 tháng tư, nghe lệnh đầu hàng của tổng
thống truyền qua làn sóng phát thanh, đại tá sư đoàn
Năm điện khẩn về hỏi bộ tư lệnh quân đoàn Ba thì
nơi đây cũng xác nhận điều đó. Đại tá tập họp tất
cả sĩ quan bộ tư lệnh, cho lệnh giải tán. Sau đó đại
tá đứng nghiêm chào lá quốc kỳ lần cuối cùng và rút
súng bắn vào thái dương mình. Toàn thể sĩ quan có mặt
đều khóc rống lên và lo chôn cất đại tá theo lễ nghi
quân cách. Một số sĩ quan cởi bỏ vũ khí ra đón xe về
nhà. Số còn lại ra nút chặn đã lập sẵn từ trước
để ngăn xe tăng địch tiến về thủ đô. Tôi cùng anh
Định ở trong số nầy. Chúng tôi chiến đấu lẻ loi
trong tuyệt vọng, bắn cháy vài xe tăng của kẻ thù nhưng
rồi phòng tuyến cũng phải vỡ trước hỏa lực quá hùng
hậu của địch. Anh Định bị banh xác vì một viên đạn
đại bác trực xạ của xe tăng T54. Tôi cùng vài anh em
khác đành phải bỏ chạy.
Tôi
nghe tới đây thì thấy trời đất tối sầm. Trong màn
sương dày đặc trước mắt, mẹ tôi ôm mặt khóc ngất,
thiếu úy Hà hốt hoảng đưa tay về phía trước. Tôi cố
gắng lết vào được phòng ngủ, nằm vật xuống giường
và không còn nghe, không còn thấy gì nữa.
Mùi
dầu nóng làm tôi tỉnh lại. Tôi mở mắt thấy mẹ ngồi
kế bên xoa bóp chân tay tôi. Mẹ mừng rỡ khi thấy tôi
mở mắt. Tôi muốn nở nụ cười cho mẹ yên lòng, nhưng
nỗi đau đè nặng trên ngực trái làm tôi tê dại. Đâu
đó trong màn sương, chiếc bóng cô độc của Định lại hiện
ra nhạt nhòa. Tôi bật khóc kêu gào tên anh, nhưng hình bóng Định chập chờn tan biến.
Tiếng
mẹ thì thào thê lương:
-
Con, đừng khóc quá làm nó đau lòng, khó mà ra đi.
Tôi
úp mặt xuống gối, nghiến răng cắn chặt một góc bao
vải. Nỗi đau không hề dịu đi nhưng những tiếng khóc
than đã lặng lẽ trôi ngược vào lòng.
Tôi
sống qua hai ngày vật vã, một buổi chiều bỗng buột
miệng hỏi mẹ:
-
Thiếu úy Hà còn ngoài ở ngoài sân không?
Mẹ
nhìn sững tôi giây lát rồi chậm rãi nói:
-
Cậu ấy đã đi từ hai ngày rồi, vì có cái hẹn gấp
với vài người bạn để chuẩn bị ra đi bằng ghe đánh
cá. Cậu ấy nói gia đình mình muốn đi thì sẽ trở lại
lo liệu cho trọn tình bạn với cậu Định.
Nghe
nhắc đến anh Định, nước mắt tôi lại trào ra. Khi ấy,
tôi bắt đầu hiểu rằng, cái chết của Định là sự
thật không trốn tránh được. Tôi nghẹn ngào:
-
Mẹ trả lời thế nào với anh Hà?
-
Dĩ nhiên là mẹ từ chối. Không lẽ hai mẹ con đi rồi
để ba con ở lại sao?
Tôi
không hỏi nữa. Chuyện đi hay ở, đối với tôi lúc này
chẳng còn nghĩa lý gì. Cuộc đời tôi đã chết đi một
phần.
Mẹ
cũng thôi không dám nhắc đến Định. Mãi đến mấy ngày
sau, khi thấy tôi lặng lẽ thắp nhang trên bàn thờ, mẹ
mới ngập ngừng bảo:
-
Con đừng đau buồn quá. Cậu ấy đã sống hết cuộc đời
cho lý tưởng.
Tôi
cúi đầu nói nhỏ:
-
Con sẽ mãi mãi đau buồn. Nhưng con cố học cách quên và
cách sống tiếp.
Mẹ
lưỡng lự một chút rồi bảo:
-
Mẹ cần phải nói sớm với con. Theo mẹ thì không nên
cho ba con biết cậu Định đã hi sinh vì Tổ quốc. Với
người khác cũng thế.
Tôi
thấy mệt mỏi hơn là ngạc nhiên:
-
Sao lại giấu hở mẹ? Anh Định chết đâu phải là
chuyện xấu xa.
-
Không, mẹ công nhận đó là sự hi sinh cao cả của một
chiến sĩ. Mẹ nghĩ rằng không nên cho ba con biết vì hai
lý do. Ba con bây giờ tự cho là về phe của cách mạng
nên mẹ sợ ông có thể quen miệng mà xúc phạm đến
linh hồn của nó. Nếu lính Việt cộng chết trên mặt
trận thì họ gọi đó là hi sinh. Nếu lính Cộng hòa chết
thì họ gọi là đền tội. Mẹ thương thằng Định lắm,
không muốn nó bị xúc phạm kiểu hồ đồ như thế.
Mẹ
ngừng nói vì cảm xúc. Tôi buồn bã hỏi:
-
Còn lý do thứ hai?
-
Lý do thứ hai là ba con đang rất hạnh phúc với chiến
thắng của cộng sản. Ba con già rồi. Cứ để cho ông
hưởng hạnh phúc, đừng để cho cái chết của cậu Định
làm sứt mẻ hạnh phúc đó đi.
Tôi
chạnh lòng, gạt nước mắt:
-
Cái chết anh Định chắc gì làm sứt mẻ được hạnh
phúc của ba.
Mẹ
thở dài:
-
Mẹ xin lỗi con. Nói như vậy cũng là không phải với
con. Nhưng tốt hơn hết là đừng nói cho ba biết, cũng
không nên nói cho ai khác biết để khỏi tới tai ba.
Tôi
cay đắng thêm vào:
-
Và tới tai mấy ông cách mạng.
-
Phải, mấy ông cách mạng biết thì cũng phiền.
Mẹ
nhìn vào mắt tôi, lo lắng hỏi:
-
Con thấy trong người thế nào?
-
Con khỏe. Con sẽ cố quên hình bóng của anh Định đi để
sống bình yên với ba mẹ.
Nói
xong tôi bậm môi để khỏi bật ra tiếng khóc. Định đã
vĩnh viễn nằm lại chiến trường, thân xác anh rồi cũng tan
vào cát bụi cỏ cây. Nhưng những kỷ niệm một thời yêu thương
vẫn còn đầy ắp ở đây, làm sao để mà quên. Quên đi
lần đầu tiên gặp mặt khi Định tìm đến báo tin cái
chết của anh Quân? Quên đi những lá thư tình diễm lệ
mà anh đã gởi cho tôi? Quên đi nụ hôn đầu tiên dưới
gốc thông già và trên đồi Đà lạt? Quên đi, quên đi,
quên đi tất cả những gì mà mối tình đầu vô cùng
thắm thiết đã từng lay động cả tâm hồn tôi.
Mẹ
đến bàn thờ rút ba cây nhang, chấp tay trước ngực thì
thầm một lúc khá lâu. Tôi biết đó là những lời khấn
dành riêng cho linh hồn Định. Tôi không cầm lòng được
nữa, lại ôm mặt khóc nức nở. Định ơi, người yêu thương của em.
*
*
*
Vài
tháng sau ngày “giải phóng miền Nam”, người ta tổ
chức thi ra trường cho các lớp cuối năm thứ tư đại
học Sư phạm. Tơi đậu khá cao nên được cho về dạy
tại một trường cấp ba tại huyện Thủ đức. Mẹ tôi
được giữ lại dạy tại trường cũ sau một khóa bồi
dưỡng về chính trị và chuyên môn. Mẹ tiếp tục dạy
môn quốc văn, bây giờ gọi tắt là môn văn. Tôi để ý
thấy mẹ kém vui và trong bữa cơm không hề nói chuyện
dạy học như mẹ thường làm trước ngày “giải phóng”.
Có lần quá buồn bực, mẹ đã tâm sự với tôi:
-
Mẹ đã được đào tạo kỹ trong chế độ cũ và trong
mười mấy năm mẹ đã dạy với tất cả tâm hồn mẹ.
Nay với chương trình từ ngoài Bắc đưa vào, mẹ không
còn thấy hứng thú mỗi khi đứng trên bục giảng nữa.
Mẹ mong con thích nghi được với hoàn cảnh mới để
không rơi vào tình trạng chán nản của mẹ.
Tôi
vâng dạ chứ biết nói gì hơn. Cũng may, tôi chưa hề dạy
học ở chế độ cũ nên khi đứng lớp tôi cũng vui vẻ
chứ không buồn chán như mẹ tôi.
Nhà
tôi khá khang trang, trong một con hẻm rộng rãi, ở gần
chợ Bà chiểu. Hằng ngày tôi đi dạy bằng xe buýt. Tiện
đường nhưng quá khổ vì xe thì ít mà người thì đông,
phải cật lực chen lấn mới lên được xe. Vé xe khá rẻ
nhưng cũng ngốn một phần kha khá vào đồng lương quá
ít ỏi của tôi.
Cuộc
sống dân miền Nam trước đây đã khổ vì chiến tranh
nay hòa bình rồi lại khổ hơn vì cái chủ nghĩa xã hội.
Mọi thứ đều thiếu thốn, nhất là lương thực. Miền
Nam là vựa lúa ở Đông nam Á thế mà bây giờ dân Sài
gòn lại đang ở ngưỡng cửa chết đói vì thiếu gạo
ăn.
Sau
mấy tháng làm việc ở ủy ban, ba tôi bị cho nghỉ việc;
lý do là có cán bộ từ miền Bắc “chi viện vào cho
miền Nam ruột thịt”. Ông vẫn giữ chức vụ tổ trưởng
tổ đoàn kết, nhưng gần như luôn luôn ở nhà và thường
tỏ ra buồn rầu.
Một
buổi sáng, mẹ và tôi đều ở nhà vì không có giờ dạy.
Ba ăn mặc tử tế và nói với mẹ:
-
Anh đi chơi, có thể trưa không về.
Mẹ
có vẻ lo lắng:
-
Anh đi đâu vậy?
-
Buồn quá, anh đến nhà anh Bảo tâm sự cho khuây.
-
Anh mang theo ít gạo đi để ăn trưa ở nhà người ta.
-
Không cần, anh thấy gạo ở nhà mình còn quá ít. Nhà anh
Bảo có trồng khoai mì.
Nói
xong ba đi ra cổng.
Tôi
thấy mẹ xuống bếp ngồi có vẻ trầm ngâm. Tôi lấy
làm lạ. Giờ nầy còn sớm, chưa đến lúc nấu cơm, sao
mẹ ngồi trong bếp thẫn thờ như thế? Tôi đến ngồi
bên mẹ:
-
Hình như có chuyện gì phải không mẹ? Con thấy mẹ lo
lắng.
Mẹ
quay nhìn tôi:
-
Mẹ hơi lo cho ba con.
Tôi
hoảng hốt:
-
Chuyện gì vậy mẹ?
-
Hôm qua mẹ gặp bà Tư Sanh. Con biết bà đó không?
-
Dạ biết. Con nghe nói chồng bà ấy cũng làm ngoài ủy
ban và cũng vừa bị cho nghỉ việc như ba.
Mẹ
gật đầu:
-
Đúng, ông Tư nghỉ việc nhưng xin nghỉ chứ không phải
buộc thôi việc như ba con. Ông Tư xin về quê làm ruộng
để lâu lâu lén đem gạo lên nuôi bà Tư và một bầy
con.
-
Bà Tư Sanh nói chuyện gì với mẹ?
-
Bà bảo ông Tư nói với bà là ba con bị cho nghỉ việc
là may.
Tôi
ngạc nhiên quá sức:
-
Tại sao lại may?
-
Bà Tư nói bí thư và chủ tịch phường đều ghét ba con.
-
Trời đất! Nhiệt tình cách mạng của ba sau ngày “giải
phóng” cao ngất mà.
-
Vậy mới nguy. Ba con có chữ nghĩa nên được cử đi kiểm
kê nhà cửa do những người bỏ trốn đi, ghi hết đồ
đạt quý giá trong nhà và niêm phong. Ba con làm rất cẩn
thận ai cũng khen, rồi xảy ra việc cãi nhau với chủ
tịch; bí thư lại bênh chủ tịch.
-
Lý do gì mà cãi nhau?
-
Hình như có nhà bị phá niêm phong, mất hết đồ đạt,
ba con đòi điều tra nhưng ông chủ tịch nhất định bỏ
qua. Ba con tức giận, có to tiếng trong văn phòng ủy ban.
Rồi đến chuyện phân nhà, ba con lại to tiếng cãi cọ.
-
Ba đòi được cấp nhà hả? Mình có nhà rồi mà.
-
Không ba con đề nghị cấp nhà cho người nghèo nhưng họ
không chấp thuận. Nguy hơn nữa là hình như có người tố
cáo ba con phản động.
-
Trời hỡi. Ba con làm gì mà bị tố cáo?
-
Có người báo với ủy ban rằng ba con làm sui với ông
thiếu tá quận trưởng rất ác ôn.
Tôi
choáng váng mặt mày, ôm ngực thở dốc. Mẹ ôm tôi vào
lòng, vỗ về:
-
Thôi bỏ qua đi con. Cũng may là họ cho ba con nghỉ việc.
Thời buổi nầy, họ bắt mình bỏ tù hay giết chết thì
cũng đành chịu thôi. Kể ra ông bí thư và ông chủ tịch
cũng còn nhân đạo lắm. Ba suýt lâm nguy vì lý tưởng
cách mạng quá trong sáng của ba.
-
Hèn chi con thấy ba buồn dàu dàu. Dạo nầy ba không còn
ca tụng cách mạng một cách sôi nổi nữa. Bữa nay ba đi
chơi, chắc là đến tâm sự với bạn bè. Có đáng lo
không mẹ?
-
Có lẽ không sao. Bác Bảo là người tốt, ba con tâm sự
chẳng có hại gì. Chỉ sợ có ai khác nghe thì mới đang
ngại, mẹ hơi lo.
Tôi
giật mình nhớ đến anh Quân, xã hội bây giờ cũng như
mật khu ngày trước, công an điềm chỉ rải khắp nơi,
vì một lời nói bất mãn mà chết bỏ mạng. Hai mẹ con
ngồi tán gẫu một lúc rồi mẹ lôi rổ khoai ra, gọt bỏ
những chỗ sùng, phần còn tốt xắt nhỏ ra nấu chung với
nửa lon gạo.
Mức
sống xã hội càng ngày càng xuống một cách thảm hại.
Gạo không đủ nên luôn luôn phải độn thêm bo bo, khoai,
sắn... Những đứa trẻ mơ ước được ăn bữa cơm
không độn, cha mẹ nghe thương đứt ruột mà không biết
làm sao được. Gia đình tôi không có trẻ con nhưng mẹ
tôi cũng hết sức lo lắng cho bữa ăn có được chất
dinh dưỡng. Trước đây, trong thời chiến tranh, gia đình
tôi, với hai đầu lương của ba và mẹ nên có để dành
được một món tiền kha khá. Bây giờ, qua hai đợt đổi
tiền, món tiền dành dụm bay mất. Mẹ lôi ra món nầy
rồi món kia bán cho con buôn mang ra Bắc.
Vì
lo lắng và buồn phiền thái quá nên sức khỏe mẹ suy
sụp, mỗi ngày một thấy rõ hơn. Cho đến một hôm mẹ
không còn đủ sức đứng trên bục để giảng bài nữa
thì mẹ làm đơn xin nghỉ và đơn được chấp thuận
ngay. Mẹ rời bục giảng, chia tay lý tưởng giáo dục cao
cả của một nhà giáo nhưng lòng mẹ lại bớt đau đớn
hơn. Chương trình giáo dục của Hà nội đưa vào trong
khuôn khổ chính trị đề cao lòng căm thù, bài trừ những
giá trị đạo đức và nhân văn, làm mẹ luôn thấy mình
có lỗi với học sinh.
Việc
ba bị cho nghỉ việc tại ủy ban và mẹ xin nghỉ dạy
làm cho cuộc sống của gia đình tôi thêm khốn đốn. Khi
ba mẹ còn được gọi là công nhân viên nhà nước thì
cũng có được chút ít lương. Đáng kể hơn, đó là hàng
tháng được lãnh vài món gọi là nhu yếu phẩm gồm nửa
ký thịt ôi, một ký đường vàng khè, vài viên thuốc
nhức đầu đau bụng. Những thứ nầy trước 1975, các
gia đình lao động nghèo cũng không thèm nhìn đến. Nhưng
bây giờ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, chúng trở nên
thực quý giá. Gia đình tôi mất hai suất như thế cũng
là một thiệt thòi lớn.
Mẹ
tôi tiếp tục lục đồ cũ ra bán; lúc chẳng còn gì nữa
thì đành bán đến xe gắn máy. Nhà có hai chiếc xe, một
của ba, một của anh Quân. Xe của ba là chiếc Mobilette rẻ
tiền. Xe của anh Quân là chiếc Honda 67 màu đen mắc tiền
hơn nhiều. Trước ngày “giải phóng”, hai chiếc xe nầy
là phương tiện di chuyển tiện lợi, nhưng bây giờ,
không có tiền mua xăng nên cả hai xe nằm ụ trong nhà.
Tuy rất túng thiếu nhưng mẹ chỉ bán chiếc xe Mobilette
của ba và nhất định không bán chiếc Honda 67 của anh
Quân. Đó là di vật của anh tôi nên cả nhà xem như vật
thiêng liêng cần phải giữ gìn cẩn thận.
Tiền
bán chiếc Mobilette được mẹ dùng mua một ít vải may áo
quần cho tôi. Phần còn lại, ba nhất quyết đem gởi quỹ
tín dụng, rồi mất dần hết.
Ba
tôi mất việc, ở nhà suốt ngày, đi ra rồi lại đi vào,
vừa buồn miệng vừa thiếu dinh dưỡng, sinh ra chứng
thèm ăn vặt. Một hôm mẹ luộc nồi khoai, khẩu phần
thay cho gạo. Khoai chín, mẹ gắp vào tô, kèm theo một tán
đường đen thui trong khẩu phần nhu yếu phẩm của tôi
và bảo tôi mang lên mời ba. Ông tỏ vẻ vui thích, cầm
củ khoai cả vỏ ăn với đường với một vẻ đam mê
làm tôi suýt khóc òa.
Dạo
nầy ba không còn ca tụng cách mạng, ca tụng cộng sản
một cách sôi nổi như trước đây. Tuy nhiên ba không hề
lên tiếng oán trách cách mạng. Chắc chắn ba thừa hiểu
chính cái chủ nghĩa xã hội đã lôi kéo miền Nam xuống
tận đáy của sự bần cùng, nhưng ba vẫn kiên trì giữ
cho được nhiệt tình cách mạng mà ông đã đeo đuổi
suốt mấy chục năm trời. Nhiệt tình đó trước đây
được ông xem như báu vật, nó tạo cho ông niềm hãnh
diện là người thực sự yêu nước. Bây giờ nhiệt tình
đo đã giảm đi giá trị rất nhiều, nhưng ông vẫn cố
giữ như một món đồ cổ, cố giữ vì tự ái và cũng
vì tiếc nuối một thời kỳ trai trẻ hào hùng của mình.
Tuy
nhiên, dù cố gìn giữ, nhiệt tình cách mạng đã bắt
đầu có những rạn nứt. Vết nứt đó ngày càng dài ra,
rộng ra, chia cách ông với lý tưởng, đẩy ông lại gần
gũi với vợ con. Cho tới một ngày, ba tôi bỗng nhìn thấy
được sự suy sụp tinh thần và thể xác của mẹ.
Sức
khỏe của mẹ suy giảm rõ rệt. Mẹ thường kêu chóng
mặt nhức đầu và nằm vùi có khi cả nửa ngày mới uể
oải ngồi dậy, bóc một rổ khoai mì để nấu độn với
gạo.
Ba
lo quá, dìu mẹ đến phòng y tế phường. Nhân viên y tế
là người dân tộc miền núi, từ ngoài Bắc điều vào,
hỏi qua loa rồi cho mẹ mấy viên thuốc nhức đầu.
Một
buổi trưa mẹ sờ soạn đến phòng vệ sinh, vừa mở
được cửa thì té xuống, mê man bất tỉnh. Ba đang đọc
sách, nghe tiếng động, bước xuống thì thấy mẹ nằm
sóng soài trên mặt đất nên hét một tiếng thật to. Tôi
giật mình chạy xuống, cũng hét to. Hai cha con khiêng mẹ
lên giường.
Ba
lật đật chạy đến y tế phường để cầu cứu. Nơi
đây cho giấy giới thiệu để đưa mẹ vào nhà thương
Nguyễn văn Học, nay gọi là bệnh viện Nhân dân Gia định.
Trước
năm 1975, bệnh viện nầy có nhiều bác sĩ giỏi, đặc
biệt là vị giám đốc bệnh viện, một thiếu tá quân y
được bộ Quốc phòng biệt phái về cho bộ Y tế. Sau
năm 1975, hầu hết các bác sĩ đều đã bỏ nước ra đi;
bác sĩ giám đốc thì ăn cơm tù trong trại cải tạo. Các
bác sĩ từ chiến khu ra và từ miền Bắc vào “chi viện
cho miền Nam thân yêu” thì khả năng quá kém. Gọi là
bác sĩ nhưng họ chưa qua trường lớp nào, chỉ theo chiến
tranh mà lên cấp bậc, gọi là dân "bông băng thuốc
đỏ". Người bệnh đến khám, ra về bỉu môi nói,
cái loại bác sĩ đó chỉ biết rửa ghẻ và xức thuốc
đỏ mà thôi.
Vì
vậy chẳng ai chẩn đoán mẹ bệnh gì. Cô Ba, em ruột của
ba tôi, trước đây làm trong ngành y tế của chế độ
cũ, nghe tin, từ Bình dương lặn lội về thăm. Cô nhất
quyết mẹ bị bệnh tim mạch, rất nguy cấp. Bà nói hầu
hết bệnh viện ở thành phố đều thiếu những thiết
bị tối tân vì phần lớn, sau ngày “giải phóng” bị
mất cắp hay được chở ra miền Bắc. Nghe nói chỉ có
bệnh viện Vì Dân và Chợ rẫy là còn khá hơn cả.
Lập
tức, ba tôi xin cho mẹ xuất viện, thuê ngay một xe lam ba
bánh chở mẹ đến bệnh viện Vì dân ở tận ngã tư Bảy
hiền. Nơi đây không nhận vì mẹ tôi không phải là cán
bộ cao cấp. Chở đến bệnh viện Chợ rẫy cũng không
được nhận vì “trái tuyến”. Thế là đành chở mẹ
về nhà. Đêm đó mẹ trút hơi thở cuối cùng. Ba ôm thây
mẹ khóc nức nở, còn tôi thì ngất đi tỉnh lại nhiều
lần. Cô Ba lãnh trách nhiệm lo mọi việc. Cô rất lúng
túng vì tiền bạc dự trữ trong nhà cạn queo. Thế mà
mọi thứ đều phải chi tiền, nặng nhất là tiền mua
cái hòm, lại phải có giấy giới thiệu mới mua được.
Không riêng cái hòm, mọi thứ khác, từ vải liệm, vải
sô làm khăn tang, thậm chí đến bó nhang, cây đèn cầy
đều phải có giấy giới thiệu thì cửa hàng quốc doanh
mới bán.
Trong
lúc rối rắm, may thay, có “quới nhơn” xuất hiện!
Đó
là ông trung úy công an tên là Nguyễn văn Thành được Hà
nội đưa vào làm phó công an phường vùng cư trú của
gia đình tôi. Ông ta sốt sắng đi quyên tiền những nhà
chung quanh, lấy mọi thứ giấy giới thiệu cần thiết,
mua đất chôn, thuê nhà đòn khâm liệm rồi hôm sau chở
mẹ tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Lúc
quan tài còn quàng tại nhà, có rất nhiều người đến
viếng mẹ tôi. Tôi cũng được an ủi vì đó là bằng
chứng gia đình tôi được nhiều người quí mến. Tuy
nhiên, vì bận rộn vì đau buồn quá mà tôi sinh ra đuối
sức lú lẫn. Con cái của mẹ chỉ có một mình tôi nên
tôi phải chịu đựng suốt ngày. Nào là tiếp khách, nào
là lạy trả, nào là đứng nghe những lời phân ưu. Có
lúc tôi đi vào bếp, tưởng như mẹ vẫn còn đứng đó.
Suýt nữa thì tôi hỏi, mẹ đã ăn gì chưa. Lúc sau nầy
mẹ ốm yếu xanh xao quá, cơm độn khoai mà không bữa nào
no. Khi thay áo liệm mẹ, tôi mới biết mẹ hao gầy suy
sụp ra sao.
Những
người phu nhà đòn cũng không quá vất vả trong đám
tang. Quan tài mẹ bằng ván mỏng tanh. Thân thể mẹ cũng
nhẹ nhàng như đứa trẻ lên mười. Nhưng mẹ nằm đó,
tình thương dài như sông nặng như núi.
Mẹ
đã ra đi, vĩnh viễn thoát khỏi xã hội đen tối nầy,
vĩnh viễn từ bỏ cuộc đối đầu ý thức hệ trong cái
gia đình nhỏ bé của mẹ. Giờ đây, chỉ còn tôi ở
lại, tình yêu thương bất tận dành cho mẹ sẽ giúp tôi
chu toàn chữ hiếu với ba.
Ba lập thêm một bàn thờ
thứ ba để thờ mẹ, chung với anh Quân. Hai bàn thờ trên
cao là để thờ Phật và thờ ông bà tổ tiên. Ông lấy
cuốn album của gia đình từ trước 1975, lựa một tấm
hình của mẹ đứng riêng một mình. Tấm hình chụp lúc
mẹ còn trẻ. Mẹ đẹp lắm, mắt nhìn thẳng, miệng
cười chúm chiếm, tay vịn một cành cây. Mỗi đêm, trước
khi đi ngủ, tôi đều đốt một cây nhang trên bàn thờ
mẹ. Tôi nghĩ đến mẹ, đến anh Quân, đến Định, những
người thân yêu đã bỏ tôi mà ra đi.
Thông
thường, tôi chỉ đốt nhang nơi bàn thờ mẹ, rất ít
khi đốt nhang nơi hai bàn thờ kia. Thế mà chiều nào trên
bàn thờ Phật cũng có một cây nhang với sợi khói ẻo
lả bay lên trần nhà. Đó là cây nhang của ba đốt hằng
ngày.
Lúc
trước, ba không để ý đến bàn thờ Phật nầy, chỉ có
mẹ đốt nhang và đánh một tiếng chuông buổi chiều.
Nay mẹ mất rồi thì ba thay mẹ làm công việc đó. Trong
ánh sáng buồn bã của buổi hoàng hôn, tôi thường đứng
im nhìn người cha đang bước vào tuổi già, đã từng có
thời trai trẻ say mê lý thuyết vô thần của Các Mác,
thành kính đốt cây nhang trên bàn thờ Phật rồi gõ một
tiếng chuông. Tiếng chuông ngân nga để tiễn ánh tà
dương, tôi nghe mà hai dòng lệ cứ chực trào ra khỏi
khóe mắt.
Ngay
sau ngày lo xong tang lễ cho mẹ tôi, trung úy Thành, công an
phường, đến thăm ba tôi. Tôi nấu nước, pha trà bưng
lên. Trong những ngày tang khó, tôi chỉ loáng thoáng thấy
ông trung úy công an lăng xăng lo công việc. Bây giờ ông
ngồi yên nói chuyện với ba, tôi có dịp nhìn ông rõ
hơn.
Đó
là một thanh niên khá đẹp trai, khoảng hơn ba mươi tuổi.
Anh ta nói giọng Bắc nhưng dễ nghe hơn những ông quê ở
Nghệ an Hà tĩnh rất thường gặp sau ngày 30 tháng tư.
Khi tôi pha nước trà và mang dĩa bánh cốm của ngày tang
lễ lên mời, tôi để ý ông trung úy, miệng thì nói
chuyện rôm rả với ba tôi mà mắt cứ liếc nhìn tôi.
Tôi
không lạ gì cái kiểu nhìn nầy của những người đàn
ông. Năm nay tôi đã hai mươi bảy tuổi, bạn đồng
nghiệp, ai cũng khen tôi còn trẻ đẹp. Một bạn gái nói
thẳng rằng nhiều người lấy làm lạ là với sắc đẹp
của tôi mà ở tuổi gần “tam thập nhi lập”, tôi vẫn
còn độc thân.
Khi
nghe bạn nói, tôi cố cười bất cần nhưng cảm thấy
xót xa trong lòng. Nếu không có ngày định mệnh 30-4, tôi
đã có chồng và đã có con để săn sóc và bồng bế.
Tôi nhớ đến người tình đã khuất bóng, nhớ mơ ước
hòa bình, dự tính cho tương lai của anh. Ở cõi bên kia
chắc anh không hề hối tiếc sự hi sinh của mình, chỉ
có người ở lại là phải cúi đầu đi tiếp.
Tôi
không ưa trung úy Thành và cũng chẳng mảy may xúc động
trước cái nhìn say đắm của anh ta. Nhưng đó là người
bằng quyền lực và khả năng của mình đã giúp đỡ gia
đình tôi trong lúc tang gia bối rối.
Dù
rằng, sự giúp đỡ của anh ta hoàn toàn không vô tư.
Ba
ngày sau tang lễ, trung úy Thành đến chơi. Hôm đó tôi
pha nước xong rồi vào buồng may vá, nhưng qua cánh cửa
phòng để mở, tôi vẫn nghe hai người đàn ông nói
chuyện. Ông trung úy tự giới thiệu là người tỉnh Cao
bằng, ông bà cha mẹ thuộc thành phần bần cố nông nên
lý lịch rất tốt, nhờ đó được nhận vào ngành công
an. Năm 1976, đảng đưa ông vào công tác tại công an
thành Hồ Chí Minh và vừa được cử về săn sóc an ninh
của khu vực nầy. Ba tôi hỏi về gia đình thì ông ấy
bảo còn cha mẹ già ở quê, nhờ ơn đảng gia đình cũng
sung túc. Cha tôi hỏi về vợ con thì ông nói một cách lễ
phép:
-
Chả giấu gì chú, cháu vẫn còn độc thân. Cháu muốn
lúc nào có sự nghiệp vững vàng mới lập gia đình.
-
Nhưng được làm sĩ quan công an cũng là đạt được sự
nghiệp rồi đó chớ.
Ông
trung úy cười, hơi lớn tiếng nhắn vào buồng tôi:
-
Vâng, chú dạy như thế là phải lắm. Cháu cũng nghĩ bây
giờ nên lập gia đình đi là vừa. Lần lữa thêm nữa,
sau nầy cha già con muộn cũng bất tiện.
*
*
*
Đời
sống ở miền Nam càng ngày càng xuống dốc. Ngay trong
thời còn thực dân cai trị, Sài gòn đã được mệnh
danh là hòn ngọc Viễn đông, văn minh nhất Đông nam Á.
Bây giờ, người ta cố cải tạo để xây dựng chủ
nghĩa nên hòn ngọc đang trở thành hòn sỏi, nay mai sẽ
còn tệ hơn hòn sỏi nữa. Mọi người kể cả giới trí
thức, nhào đi tìm thức ăn như một bầy thú hoang. Trong
bữa ăn, người ta không còn chú ý đến tiêu chuẩn dinh
dưỡng, miễn sao có cái nhét vào mà dạ dày chấp nhận
là tốt rồi.
Cuộc
sống nhà giáo cũng rất thảm thương. Thuở đau đớn cắt
bỏ tà áo dài, ngượng ngịu bước lên bục giảng với
cái áo vải ú bèo nhèo, đã là chuyện của ngày mới
"được giải phóng". Thầy cô giáo thời đại xã
hội chủ nghĩa lao vào công cuộc kiếm ăn, giành giựt
nhau từng món hàng nhu yếu phẩm ngay trong văn phòng, bưng
từng thau bánh rổ khoai đến ngồi trước cổng trường
chầu chực học sinh mua.
Cái
đói ám ảnh từng ngày từng giờ, mà công việc ở
trường lại mỗi ngày một nhiều hơn. Ngoài giờ dạy,
giáo viên còn phải hội họp, làm công tác đoàn thể,
dẫn học sinh đi mít tinh, lao động xã hội chủ nghĩa,
vân vân và vân vân. Chúa nhật cũng không được nghỉ vì
phải dẫn học sinh đến sân bắn ở đồi Long thạnh mỹ
để trồng khoai cứu đói.
Tôi
cố dành ba buổi chiều trong tuần, theo bạn đồng nghiệp
thu gom hàng nhu yếu phẩm và hàng lạc xoong trước "giải
phóng" mang ra chợ trời bán. Công việc vừa vất vả
vừa nguy hiểm, vì cứ vài ngày công an mang xe tới hốt.
Hàng hóa tiền bạc bị trấn lột đã đành, mạng người
cũng không biết có giữ nổi không. Tôi liều mình đứng
vào hàng ngũ gian thương, buôn lậu được đúng bốn
tháng, chạy trốn công an hơn bốn mươi lần. Đến lần
thứ bốn mươi mốt thì tôi bị bắt.
Thường
thì, công an tới đầu đường đã nghe tiếng huyên náo,
khi đó tôi ôm giỏ hàng chạy xuống cuối đường. Hôm
nào công an vây cuối đường thì tôi đâm hẻm nhỏ chạy
về nhà. Lần này, họ bố ráp có chiến dịch, đường
lớn đường nhỏ đều có xe và đội quản lý thị
trường ém quân. Tôi vừa lớ ngớ chạy trong hẻm nhỏ
ra, liền bị hai người đàn ông xông đến níu chặt.
Một
tên giằng cái bao vải trên tay tôi. Một tên hung tợn ghì
tóc tôi.
-
Con này, cho mày về đồn ăn đòn.
Tôi
sợ đến nổi không có sức vùng vẫy, chỉ cúi đầu lấy
hai tay che kín mặt. Hai tên đàn ông ôm chặt tôi, thọc
tay vô áo tôi, cười hô hố. Tôi hét lên, vùng vẫy dữ
dội. Nhiều tiếng la thất thanh cũng vang lên náo loạn
khắp cả đoạn đường. Tôi lại hét lên đấm đá cào
cấu. Mấy bàn tay thô lỗ túm tóc tôi, đẩy tôi lên xe.
Tôi gần như ngất xỉu giữa đám đông xa lạ. Trong cơn
hoảng sợ và tủi nhục, tôi không còn biết xe chở mình
về đâu.
Khi
người ta lôi tôi ra khỏi xe, đẩy vào đồn công an tôi
mới lờ mờ tỉnh ra. Trong căn phòng rộng đã có nhiều
phụ nữ ngồi lổm nhổm dưới đất. Tôi cúi đầu tìm
cho mình một chỗ trống phía sau bàn giấy. Qua một hồi
định vị, tôi mới len lén nhìn quanh. Đa phần là phụ
nữ trẻ khoảng độ tuổi của tôi, một số ít là các
bà ngoài bốn mươi. Khuôn mặt người nào cũng xanh xao sợ
hãi. Ánh mắt tôi dừng lại ở cuối phòng, thảng thốt
nhận ra người quen, hai chị giáo viên khoa hóa và khoa
toán trong trường tôi cũng bị chiến dịch cải tạo
thương nghiệp tóm cổ. Mắt chúng tôi giao nhau nhưng không
ai dám tỏ vẻ nhận người quen. Tôi bắt chước họ, thu
mình thực nhỏ nép vào vách tường.
Mãi
đến chiều tối, đám phụ nữ gian thương mới được
phép ký vào biên bản, sau khi nghe một bài giảng về tội
ác làm lũng đoạn thị trường, phá hoại kinh tế xã
hội, quấy rối trật tự an ninh... Chúng tôi được thả
về với hai bàn tay trắng. Lẽ ra phải thấy mình may mắn,
vì thân thể sinh mạng vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng tôi vừa
bước ra khỏi đồn công an đã ôm mặt khóc tức tưởi.
Hàng hóa của tôi mất sạch, đó là tất cả vốn liếng
gom góp dành dụm sau bốn tháng chạy chợ.
Khi
tôi kiệt quệ lê bước về đến nhà, trời đã về đêm.
Ba tôi vẫn còn chong đèn ngồi đợi. Tôi núp dưới giàn
bông giấy nhìn bóng dáng ba hao gầy bên ngọn đèn dầu
tù mù, lòng buồn rười rượi. Chắc ba tôi lo lắng cả
buổi chiều không biết tôi trôi nổi ở đâu. Tôi đâu
dám nói cho ba biết là tôi đi bán chợ trời.
Trời
về đêm hơi se lạnh, áo tôi bị đứt hai hột nút lúc
giằng co, bây giờ tôi mới nhận ra. Tôi ứa nước mắt
tủi hổ kéo kín vạt áo, rón rén bước vào nhà.
Lấy
hết sức lực, tôi cất to giọng vui vẻ:
-
Thưa ba, con mới về. Ba ăn gì chưa?
Ba
tôi đứng bật dậy, nhìn tôi sững sờ:
-
Trời ơi. Con về rồi sao. Làm ba lo từ chiều tới giờ,
định chạy qua đồn công an hỏi.
Tôi
hoảng quá, chỉ thốt ra được một tiếng:
-
Dạ?
-
Trung úy Thành mới ghé đây báo tin.
Tôi
giật mình:
-
Dạ. Tin gì?
-
Tin con bị bắt.
Suýt
nữa thì tôi té xuống thềm nhà:
-
Sao ông Thành biết?
-
Thì trung úy Thành ký giấy thả con ra mà.
Đầu
óc tôi lùng bùng, không sao nắm hết mọi chuyện. Hóa ra
nhờ sự can thiệp của Thành mà tôi được ra về. Nhưng
còn hai cô giáo kia, và gần ba mươi người đàn bà khác
trong phòng? Họ cũng ra về cùng lượt với tôi mà. Hay
Thành là người nhân đức, can thiệp thả tất cả đám
phụ nữ chân yếu tay mềm ra.
Suốt
đêm đó tôi không ngủ được. Nỗi ám ảnh sợ hãi trở
thành cơn ác mộng giữa đêm khuya. Tôi lại thấy mình bị
bắt, bị những bàn tay thô bạo sờ mó, đẩy lên xe.
Ngày
hôm sau, Thành đến thăm. Anh ta không nói ngay chuyện hôm
qua, chỉ hỏi:
-
Ngọc đã khỏe lại chưa?
Lần
đầu tiên tôi thấy anh ta dễ mến. Nhưng tôi chỉ gật
đầu, lí nhí cảm ơn và đi xuống bếp. Không phải tôi
ngại ngùng tình cảm của Thành, nhưng nỗi nhục nhã của
người phạm tội làm tôi mặc cảm.
Những
ngày sau đó, tôi tránh mặt Thành. Nhưng những món quà
Thành mang đến đều đặn lại luôn nhắc nhở sự hiện
diện của anh ta trong căn nhà này. Khi
thì vài lạng thịt, ống kem đánh răng, khi thì một
gói cá khô, một ký đường cát trắng tinh... càng đói
khổ thì càng thèm ăn. Đó là bản năng sinh tồn của mọi
động vật, trong đó có con người. Tôi ứa nước mắt
nhìn ba ngồi háo hức bên bàn ăn. Ngày trước ba vốn là
người khảnh ăn, mẹ luôn lo lắng phải nấu món này món
nọ cho vừa miệng ba. Bây giờ ba sung sướng khi mỗi buổi
chiều bên mâm cơm độn có thêm lát thịt kho mặn. Mà là
thịt của ông trung úy công an cứu trợ.
Ba
gác đũa, không quên đánh thêm một đòn cân não.
-
Anh Thành nói, con đừng ra chợ trời mà nguy hiểm. Không
phải lúc nào anh ấy cũng có mặt ở phường để giải
quyết công việc.
Tôi
cúi đầu vâng dạ. Bây giờ có để đống vàng ngoài đó
tôi cũng không dám mò ra.
Ba
gật gù nói tiếp:
-
Anh Thành là cán bộ liêm khiết, không dư dả gì mà giúp
đỡ gia đình mình tận tình như thế này, thật là người
tốt.
Tôi
biết, khẩu phần lương thực của Thành không nhiều.
Nhìn nước da tai tái, khuôn mặt xanh xao của anh ta, và
nhất là cái cách hút thuốc đến cháy đầu ngón tay;
Thành quả thật không dư dả gì.
Tôi
là giáo viên, hàng tháng cũng có được một khẩu phần
thịt, gọi là khẩu phần chất đạm được tính vào
lương tháng. Cái khẩu phần chất đạm đó là nửa ký
thịt ôi, dai như giẻ rách, hoặc là cá đã ươn sình.
Bà
“cấp dưỡng” giải thích:
-
Thức ăn nằm trong khẩu phần nhu yếu phẩm được thương
nghiệp cấp phát hằng tháng. Khi mọi người “cấp
dưỡng” của tất cả cơ quan đã tề tựu đông đủ,
thương nghiệp luôn luôn phát cho tất cả các nơi trước
và sau cùng mới đến các trường học. Vì vậy mình đành
phải lãnh những thứ mà các nhà máy và xí nghiệp chê
và bỏ lại.
Hỏi
tại sao có sự bất công như thế thì bà “cấp dưỡng”
trình bày thêm:
-
Thương nghiệp bảo rằng công nhân thuộc giai cấp vô sản
tiền phong của cách mạng, còn thầy cô là giai cấp trí
thức tiểu tư sản, không thể nào sánh với giai cấp vô
sản được.
Lại
có người bảo rằng ngày nay giáo viên cũng là công nhân,
bằng chứng là trường nào cũng có công đoàn và ai cũng
được nhận thẻ công đoàn viên. Bà “cấp dưỡng”
lại tốn nước miếng giải thích nữa:
-
Thương nghiệp bảo rằng công nhân phải là những người
làm ra của cải vật chật. Giáo viên không phải là công
nhân vì không làm ra của cải vật chất.
Đến
đây là hết cãi. Thương nghiệp thuộc lòng quá kỹ bài
học chính trị về giai cấp. Các nhà giáo đáng thương
không dám thắc mắc tiếp, đành phải cam lòng nhận lãnh
những thứ thừa thải. Những thứ thừa thải nầy đều
được tính sòng phẳng vào số lương còm cõi của những
người không làm ra của cải vật chất.
Phường
tôi vừa mở ra hợp tác xã Mây, Tre, Lá. Tôi dọ dẫm đến
đăng ký tham gia, quyết tâm đi đúng đường lối của
nhà nước, tự nguyện đứng vào hàng ngũ những người
làm ra của cải vật chất. Xã viên chỉ học qua một
buổi công việc chằm lá, đan rổ là có thể nhận hàng
về nhà. Tuần đầu tiên, mỗi ngày tôi đều thức đan
rổ đến gần sáng, mười ngón tay tôi rướm máu, hai con
mắt tôi mờ căm. Mười hai cái rổ được tổ hợp ký
giấy ghi nhận công điểm. Tuần thứ hai, tôi cũng nhận
được được giấy ghi nhận. Cuối tháng, tổ hợp phát
cho tôi ba cái rổ, gọi là tiền lương. Tôi ngơ ngác hỏi
lại, họ giải thích, đây là tiền khấu trừ gì đó.
Tôi hỏi lại lần nữa, họ giải thích lòng vòng, tôi
buồn rầu cầm ba cái rổ ra về.
Ở
nhà, tôi cũng không còn thứ gì để bỏ vô rổ.
Chị
Tâm hàng xóm cũng là xã viên hợp tác xã Mây, Tre, Lá.
Trong nhà chị tre lá chất đầy một đống, ngoài sân
cũng phơi ngổn ngang. Tôi sang nhà chị dọ dẫm:
-
Chị Tâm siêng quá. Em cứ thấy chị nhận hàng liên tục.
Chị
Tâm cười toe toét, nói to đến độ tổ hợp nằm tuốt
ngoài đầu đường cũng nghe:
-
Trời. Được đổi đời rồi, phải siêng chứ em. Nhờ
ơn Đảng và nhà nước mà mình có công ăn việc làm.
Tôi
phì cười kéo áo chị, nói nhỏ:
-
Thôi, đủ rồi chị ơi. Họ có trả lương cho chị không?
Không
ngờ chị Tâm thì thầm hỏi ngược lại:
-
Lương gì mà trả?
-
Thì lương đan rổ.
Chị
Tâm kéo tôi vô nhà, lúng ta lúng túng phân trần:
-
Thời buổi này có việc là may rồi. Em cũng biết, anh
Thuận chồng chị là đại úy đi học tập cải tạo. Chị
bị chính quyền xếp vô diện lông bông không nghề ngỗng.
Mấy ông trên quận đe dọa đủ điều, bắt mẹ con chị
đi kinh tế mới, giao nhà cho chính quyền. Nhưng gia đình
chị đi kinh tế mới hết rồi, ai ở đây đi thăm nuôi
anh Thuận. Vả lại, một mẹ ba con nheo nhóc lên rừng lên
rẫy lấy gì ăn. May mà có hợp tác xã Mây, Tre, Lá để
chị thành xã viên, đứng vào hàng ngũ của giai cấp lao
động tiên tiến. Lá lay chất đầy nhà chứ chị có làm
bao nhiêu. Một tuần ba bốn cái rổ, giao cho cho tụi nó
hưởng hết, nhưng mình được yên thân. Ban ngày chị là
con buôn thuốc tây, ban đêm ngồi "xỏ lá".
Tôi
nghe chữ "xỏ lá" của chị mà phì cười. Chị
Tâm cũng cười, nhưng rưng rưng nước mắt:
-
Ừ, đổi đời rồi. Đời này không xỏ lá thì không
sống nổi.
*
*
*
Trung
úy Thành cư ngụ luôn trong trụ sở công an của phường.
Gần như ngày nào anh ta cũng ghé nhà thăm ba tôi vào buổi
chiều lúc cơm nước xong xuôi. Tôi ngồi chấm bài hay
soạn bài trên chiếc bàn trong buồng ngủ, hai ông ngồi
rì rầm nói chuyện ở phòng khách. Càng ngày hai ông càng
tỏ vẻ thân mật với nhau hơn. Ba trông vui vẻ hẳn ra.
Trong vài câu chuyện nói với tôi, ông trở lại ca tụng
cách mạng, ca tụng chủ nghĩa xã hội. Một người tử
tế như trung úy Thành đủ vực dậy một niềm tin đã
rạn nứt đến độ sắp vỡ nát. Thấy cha lấy lại được
nét vui tươi, tôi cũng mừng và thầm có ý cám ơn ông
trung úy.
Vì
ý nghĩ đó nên thỉnh thoảng buông giấy viết, ra khỏi
buồng ngủ, đi ngang qua phòng khách, tôi chào ông trung úy
một cách thân thiện, đôi khi còn dừng lại nói một vài
lời với anh ta.
Dân
chúng ở miền Nam trước đây, nhiều người chia đồng
bào miền Bắc nhập cư vào Nam thành hai loại. Loại thứ
nhất họ gọi là Bắc kỳ cũ vào lập nghiệp trước năm
1954. Loại thứ hai gồm hơn một triệu người bỏ chạy
vào Nam khi cộng sản được chia phân nửa Tổ quốc; loại
nầy có tên là Bắc kỳ 54 hay Bắc kỳ di cư. Nay lại
thêm một loại thứ ba nữa; đó là Bắc kỳ 75, phần
nhiều là cán bộ cùng gia đình được đảng và nhà nước
bố trí công tác ở miền Nam vừa chiếm được sau
30-4-1975. Từ ngày tầng lớp Bắc kỳ 75 xuất hiện, người
Bắc 54 bỗng tự xem mình là người miền Nam, và người
miền Nam cũng hoan hỉ chấp thuận điều đó. Giờ đây,
tiếng chửi "đồ Bắc kỳ" là chỉ nhằm vào dân
Bắc kỳ 75.
Đa
số dân Nam, kể cả Bắc kỳ cũ và Bắc kỳ di cư, đều
ghét loại Bắc kỳ 75. Tôi cũng có tính đó. Tuy
nhiên đối với ông trung úy Thành nầy, tôi lại có một
chút thiện cảm. Chỉ một chút thôi.
Một
hôm, sau khi ông trung úy Thành ra về, ba gọi tôi ra ngồi
đối diện. Vẻ mặt ba rất nghiêm trang. Chưa bao giờ
thấy ba có vẻ mặt như thế nên tôi đoán ba sắp nói
với tôi một chuyện quan trọng. Linh tính báo cho tôi biết
chuyện mà ba sắp nói với tôi có liên can đến trung úy
Thành. Tôi im lặng chờ đợi. Ba mân mê tách nước trà
trong vài phút rồi lên tiếng:
-
Trung úy Thành sắp được lên thượng úy và được đề
cử làm phó phòng gì đó ở công an tỉnh Đồng nai.
Ba
ngừng nói. Tôi biết đó chỉ là phần mở đề nên tiếp
tục im lặng chờ đợi phần thân bài. Ba ngẩng lên nhìn
thẳng vào mắt tôi, nói vội vã:
-
Trung úy Thành có ý muốn xây dựng gia đình với con.
Tôi
ngồi im, ngạc nhiên thấy lòng mình chẳng vui cũng chẳng
buồn, cứ như là nghe chuyện của ai khác. Ở tuổi tôi,
trong hoàn cảnh này, nếu có người muốn lấy tôi làm
vợ, dù không muốn thì cũng phải có chút thích thú, chút
tự hào hay một chút mơ mộng. Nhưng tôi chẳng thấy gì
cả. Hình như ba thất vọng vì vẻ mặt dửng dưng của
tôi. Ba ngập ngừng, xoay xoay ly nước trong tay rồi hỏi
nhỏ:
-
Ý con thế nào?
Cử
chỉ của ba làm tôi xúc động. Chưa bao giờ ba tỏ vẻ
lúng túng thận trọng như vậy. Trong nhà này, xưa nay lời
nói của ba là ý Trời. Vậy mà bây giờ, ba lo lắng thấy
tội. Tôi nhìn mái tóc bạc của ba, dịu dàng hỏi:
-
Còn ý ba thế nào?
Mắt
ba sáng lên:
-
Ba thấy cậu Thành cũng được, lại có tương lai. Thành
phần giai cấp tốt, lại sớm được kết nạp đảng thì
chắc sẽ mau thăng chức. Có tấm chồng như thế để
nương tựa thì rất tốt mà ba cũng vui trong tuổi già.
Tôi
biết, ba tôi nói thật lòng. Lời nói nầy chứng tỏ ông
đã chấm trung úy làm con rể của ông, không còn nghi ngờ
gì nữa. Tôi nói một cách chậm rãi và rõ ràng:
-
Ba đã nói như thế thì con chiều ý ba.
Ba
tôi lo lắng nhíu mày:
-
Chiều ý ba là thế nào?
-
Là đồng ý làm vợ trung úy Thành.
Bây
giờ ba lại thở dài:
-
Con lấy chồng chính yếu là cho đời con, chuyện ba vui
tuổi già là rất phụ thuộc, sao lại bảo chiều ý ba.
-
Trước sau gì con cũng phải lấy ai thôi. Lấy người
thuận hòa trong gia đình có khi lại tốt.
Ba
ngước mắt nhìn tôi đăm đăm:
-
Mấy năm nay con có được tin thằng Định không?
Tôi
nghe đau nhói trong lòng nhưng cố giữ nét mặt bình thản,
lặng lẽ lắc đầu.
Ba
lại thở dài:
-
Có lẽ nó trốn ra nước ngoài rồi, không biết sống
chết ra sao. Dù có sống đi nữa thì với tình thế nầy,
con với nó cũng như cách biệt âm dương. Con nên dứt
khoát đi.
Nghe
ba bảo dứt khoát, tôi không hiểu ba muốn︠ tôi dứt
khoát với mối tình đầu hay dứt khoát làm vợ trung úy
Thành. Có lẽ cả hai điều đó. Tôi trả lời nho nhỏ và
hết sức trầm tĩnh:
-
Con dứt khoát rồi.
-
Được rồi, ba sẽ báo cho cậu Thành biết rồi hai đứa
bàn bạc cụ thể với nhau.
Đêm
đó, tôi nằm khóc lặng lẽ, nước mắt ướt đẫm gối.
Vĩnh biệt Định! Vĩnh biệt mối tình đầu yêu thương
say đắm của em!
Hôm
sau, cũng vào buổi tối, trung úy Thành đến. Tôi xuống
bếp nấu nước pha trà, trong khi hai người đàn ông nói
chuyện với nhau. Khi tôi mang nước lên, ba bảo tôi ngồi
bàn công chuyện với trung úy Thành rồi bỏ vào buồng
đóng kín cửa, để mặc trung úy Thành cùng tôi ở phòng
khách.
Thành
có vẻ rất háo hức. Hình như anh đã dự trù hết mọi
việc trong đầu.
-
Tháng sau mình tổ chức lễ cưới nhé.
Tôi
gật đầu.
Thành
cười sung sướng, chồm qua bàn, đưa tay nắm lấy tay
tôi.
-
Đám cưới giản dị để đỡ tốn kém, em ạ.
Tôi
gật đầu.
Thành
qua ghế bên này, ngồi sát vào tôi.
-
Chủ yếu là có sự chứng kiến của một số bạn bè và
họ hàng thân thuộc của em.
Tôi
gật đầu.
Thành
bảo có thể bố mẹ anh không vào được vì đang là mùa
thu hoạch, hợp tác xã không thể cấp phép. Vả lại,
đường đi quá xa xôi và khó khăn nên đến kỳ nghỉ hè
sang năm sẽ đưa tôi về trình diện bố mẹ và bà con.
Tôi
gật đầu.
Thành
đang ở trong một phòng nhỏ của công an phường. Đám
cưới xong, hai vợ chồng sẽ chung sống với ba tôi tại
nhà nầy, để tiện chăm sóc ông. Tôi gật đầu.
Thành
có vẻ rất phấn khởi vì nói gì thì tôi cũng gật đầu.
Thực tình, tôi chẳng suy nghĩ gì cả nên cũng chẳng có
ý kiến gì để phản đối hay bàn cãi.
Thành
đứng dậy, nắm tay tôi kéo ra bên hè nhà tối lờ mờ.
Anh ôm chầm lấy tôi, siết mạnh và hôn tôi. Cái hôn làm
tôi khó chịu hơn là xúc động. Suýt nữa thì tôi xô
Thành ra, nhưng rồi tôi nhắm mắt lại và đứng im. Đến
khi bàn tay của Thành sờ soạn vào các vùng nhạy cảm
của cơ thể tôi thì tôi rùng mình, co rúm người lại.
Trước đây Định đã từng hôn tôi dưới gốc thông già
và trên đồi sân Cù Đà lạt, nhưng lúc đó tay Định
chỉ nhẹ nhàng nắm lấy vai tôi thôi. Thời gian hẹn hò
sau ngày đám hỏi, cũng chỉ là những nụ hôn ngọt ngào
và lời nói yêu thương âu yếm.
Tôi
mệt mỏi bảo:
-
Khuya rồi. Anh về đi.
Từ
đó mỗi lần đến nhà, Thành lại tìm dịp đưa tôi ra
hè để hôn và sờ soạn cơ thể tôi. Có khi tôi từ
chối, có khi tôi chiều theo ý muốn của Thành. Nhưng mỗi
lúc tôi càng nhận ra sự thèm muốn dữ dội của anh
trong cử chỉ vuốt ve.
Có
một hôm Thành đến, tôi quá bận chấm bài của học
sinh cho kịp sự hối thúc của nhà trường thì hai người
đàn ông lại nói chuyện với nhau. Hình như ba tôi đốc
thúc việc làm hôn thú nên hôm sau Thành đưa cho tôi giấy
xin đăng ký kết hôn đã điền sẵn chi tiết và bảo tôi
ký tên vào.
Một
tuần sau, Thành đến với nét mặt rất phấn khởi bảo
giấy đã làm xong và hỏi tôi có muốn cất giữ một bản
hay không. Tôi bảo không cần, anh cứ giữ hết để sau
nầy đi làm khai sinh cho con. Thành nghe tôi nói thì tỏ ra
vô cùng vui sướng.
-
Em là người phụ nữ tuyệt vời.
Tôi
nhã nhặn trả lời:
- Làm cho người khác vui
cũng là một hành vi đạo đức.
Thành hơi sững lại:
- Hay quá. Nhưng sao em nói
thế?
Tôi
cũng giật mình, cảm thấy có cái gì chương chướng
trong lời nói đó.
Đây
là một câu rất tầm thường trong sách luân lý và tôi
đã có dịp nói với học trò. Mấy chữ “làm
cho người khác”
trong câu ấy có ý nghĩa là làm cho người dưng nước lã
chứ không thể là người mà mình hết dạ yêu thương
được. Khi tôi buộc miệng nói với Thành như vậy, tự
trong lòng tôi đã không xem Thành là người mình phải yêu
thương, dù không bao lâu nữa tôi là vợ của anh. Tôi bần
thần hết cả ngày, tự an ủi rằng ăn ở với nhau ít
lâu thì tình yêu sẽ đến.
Hôn
lễ chúng tôi được cử hành khá tươm tất tại nhà,
theo sự sắp đặt của Thành. Trong số khách đến tham
dự, đa số là bạn bè của tôi và hàng xóm quanh đây.
Bạn bè của Thành chỉ vài người còn thân thuộc chẳng
có ai. Bên đoàn thể chính quyền cũng đang bận bịu công
tác ổn định và xây dựng lại thành phố. Tháng trước
Thành đã có giải thích rồi nên tôi không thắc mắc gì
cả. Tiệc cưới khá ồn ào. Đàn bà nâng ly nước chanh,
đàn ông nâng ly rượu đế hân hoan chức mừng hạnh phúc
cho vợ chồng chúng tôi. Trong hoàn cảnh khó khăn hiện
tại, tổ chức được một lễ cưới thế nầy cũng vẻ
vang lắm rồi.
Sau
khi khách khứa ra về, nhân viên phục vụ nhanh chóng dọn
dẹp xong thì đêm tân hôn của chúng tôi bắt đầu.
Suốt
đêm, không ngủ được nhiều, nhưng sáng ra, tôi và Thành
cũng dậy sớm nấu nước pha cà phê. Ba tôi vẫn còn ngủ
say. Thành đưa ghế ngồi sát bên tôi, kéo đầu tôi ngả
vào vai anh và nói nho nhỏ vào tai tôi:
-
Anh không ngờ em còn trinh nên đêm rồi hơi mạnh bạo đối
với em. Anh xin lỗi em.
Nghe
anh nói tôi e thẹn hết sức, chợt cảm thấy hối hận
vì thái độ lạnh nhạt của mình. Anh hôn tôi rồi thì
thầm tiếp vào tai tôi:
-
Anh không ngờ có ngày may mắn và hạnh phúc như hôm nay.
Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa của anh, người đẹp và
tuổi tác như em thì không thể nào giữ vẹn trinh tiết
được. Anh thực là may mắn. Anh cám ơn em.
Tôi
hơi bất ngờ, anh muốn khen tôi hay khen con gái miền Nam
thì thiếu gì cách, sao lại đem chuyện ngoài Bắc lồng
vào đây.
Trước
kia tôi cũng nghe chị đồng nghiệp người Bắc nói về
sự “hủ hóa” của cán bộ ngoài đó. Một người con
gái có chút nhan sắc rất khó thoát khỏi ánh mắt dâm ô
và thủ đoạn đê tiện của bọn cán bộ nắm quyền.
Tôi nghe rồi bỏ qua, nghĩ là chuyện tệ nạn trong chiến
tranh, cách sống lôi thôi trong mấy hợp tác xã vùng nông
thôn. Nay nghe chính miệng Thành nhắc lại thì tôi cảm
thấy khó chịu. Không ngờ, Thành chẳng vô tình khi nói
đến điều nầy.
Ba
tháng sau, tôi biết mình đã mang thai. Những cơn mệt kéo
đến một cách bất thường, không báo trước, còn chuyện
hôi cơm tanh cá, nôn ọe xảy ra hằng ngày. Việc lên lớp
trở nên nặng nhọc đối với tôi nhưng tôi vẫn cố
gắng để học sinh được học, không bị mất giờ dạy
của tôi.
Thành
không vui mừng mà có vẻ trầm ngâm lo âu. Tôi nghĩ, có
con thì kinh tế gia đình eo hẹp hơn, anh lo lắng là phải
Khi
bào thai được hơn năm tháng thì bụng tôi nhô ra rõ rệt.
Tôi lục tìm vải cũ, tự may cho mình một “áo bầu”
rộng thùng thình. Đi dạy tôi vẫn dùng xe buýt. Bây giờ,
khi tôi bước lên xe, thường có người đứng dậy để
nhường ghế cho tôi.
Một
buổi trưa tôi đi dạy về, lúc đến gần nhà thì thấy
trước cổng có vài người đứng lố nhố nhìn vào. Tôi
lo lắng rảo bước, không biết có chuyện gì xảy ra cho
ba tôi. Khi tôi đến trước cổng, dì Tư Kỳ ở kế bên
xông ra nắm tay chận tôi lại:
-
Cô khoan về nhà đã, có chuyện lộn xộn lắm. Cô nên vô
nhà của tôi nghỉ. Để mọi việc dàn xếp xong rồi hẵng
về.
Một
bà khác xáp lại gần gỡ tay dì Tư Kỳ:
-
Cứ để cho cô Ngọc vào dàn xếp mới được. Giữa ban
ngày ban mặt ai dám làm gì mà sợ. Cô Ngọc đang có bầu,
họ hành hung, không lẽ hàng xóm mình đứng yên mà dòm
sao?
Tôi
ngơ ngác để mặc cho hai bà cãi nhau, vội vã chạy về
nhà. Chắc ba tôi có chuyện gì rồi. Khi tôi bước qua
cửa, chưa kịp nhìn rõ tất cả mọi người đang ngồi
trong bóng im thì lập tức, một người đàn bà vạm vỡ
đứng dậy, dang một cánh tay chỉ thẳng vào tôi, rít
lên:
-
A, con Ngọc đấy à? Mày là đứa giựt chồng bà, cướp
chồng bà phải không?
Bà
ta đẩy ghế định xông tới thì một người đàn ông
vội vã chồm sang cầm tay bà ta ấn ngồi xuống ghế.
Nhưng người đàn bà rất khỏe, bà ta vùng vẫy xô lệch
cái bàn nước. Miệng tuông ra những lời chửi bới rất
thô tục và độc ác.
Dì
Tư Kỳ phía sau, lách đám đông xông tới giữ tay tôi:
-
Bà vừa phải thôi nghe. Cô Ngọc là cô giáo, cả quận ai
cũng biết.
Người
đàn bà la lên the thé:
-
Bọn giáo viên chúng mày cũng hủ hóa với hiệu trưởng
cả thôi.
Dì
Tư Kỳ sững lại, dường như dì không hiểu nổi người
đàn bà nói về "bọn giáo viên" nào. Người đàn
ông có vẻ xấu hổ, vội vàng lên tiếng:
-
Thím hãy bình tĩnh, để anh giải quyết công việc với
cô Ngọc. Dù sao người ta cũng là người có học có hành
chứ không phải là thứ đầu đường xó chợ.
Tôi
đứng ngẩn ngơ nhìn, không biết chuyện gì đã xảy ra.
Bây giờ tôi mới thấy rõ, hai bên chiếc bàn của phòng
khách có ba người: mụ đàn bà vừa la lối, có cặp mắt
lườm lườm trông dễ sợ; người đàn ông mặc áo bộ
đội, vừa mới kéo mụ đàn bà ngồi xuống; người thứ
ba là ba tôi với đôi mắt thất thần.
Tôi
nhìn cả ba người, biết có việc hết sức trầm trọng,
nhưng tự nhiên tôi bình tĩnh một cách lạ thường. Người
đàn ông nói với tôi một cách khá lịch sự:
-
Nếu tôi không nhầm thì cô chính là cô Hồng Ngọc, phải
không ạ?
Tôi
lặng lẽ gật đầu.
Ông
chỉ cái ghế trống và nói:
-
Vậy xin mời cô ngồi xuống đây. Báo cáo với cô, tôi
là Nguyễn văn Thái, anh ruột của trung úy Nguyễn văn
Thành.
Ông
chỉ mụ đàn bà:
-
Đây là cô Hoàng thị Lành, vợ chính thức của chú
Thành.
Tôi
há hốc nhìn người đàn ông rồi nhìn người đàn bà.
Người đàn bà nhìn tôi với đôi mắt hung dữ như chực
ăn tươi nuốt sống tôi. Người đàn ông thì nhìn tôi có
vẻ thương hại. Ông nói với giọng cố làm ra vẻ nghiêm
trọng:
-
Tôi biết cô là giáo viên nhưng tôi buộc phải trình bày
sự thực cho cô rõ là cô phạm tội quan hệ bất chính.
Chú Thành đã có vợ chính thức là cô Lành đây. Hai vợ
chồng đã có ba con, một gái hai trai. Chú Thành chuyển
công tác vô Nam; vợ con ở quê nhà đợi chú Thành yên
nơi công tác, được cấp nhà thì vào sống với chú.
Không ngờ chú Thành và cô lại lấy nhau. Đây là tờ
đăng ký kết hôn tức là tờ hôn thú của chú Thành với
cô Lành. Ông nhà đã xem rồi, bây giờ cô hãy xem cho kỹ
để biết lời tôi nói là đúng sự thực.
Ông
chồm tới trước đưa cho tôi một cái bìa đã ố vàng,
tự nãy giờ nằm trên bàn trước mặt ba tôi. Tôi bình
tĩnh nhận lấy, giở bìa ra, đọc tờ giấy bên trong. Đó
quả thực là giấy đăng ký kết hôn của ông Nguyễn văn
Thành và cô Hoàng thị Lành, bên dưới là chữ ký của
chủ tịch ủy ban nhân dân và con dấu đỏ lem luốc.
Tôi
cẩn thận cho tờ hôn thú vào bìa và trao lại cho người
đàn ông. Bụng tôi quặn đau, nhưng tôi cố mỉm cười
và nói với giọng chậm rãi, rõ ràng:
-
Thưa ông, tôi đã xem xong và tôi xin xác nhận đây là sự
thực.
Người
đàn ông nhìn tôi một cách ngạc nhiên. Có lẽ ông tưởng
rằng đọc xong, tôi sẽ nằm lăn giữa nhà mà kêu gào
thảm thiết. Đôi mắt người đàn bà cũng bớt hung dữ
và có một chút nể nang. Tuy nhiên ông vẫn cố lấy giọng
thực rắn rỏi để đánh một đòn cân não:
-
Cô có biết đã làm một việc phạm pháp không?
Tôi
lạnh lùng đáp lại:
-
Thế nào là phạm pháp?
-
Cô đã dụ dỗ người có vợ chính thức. Cô lại dám
đăng ký kết hôn với người đã có hôn thú hẳn hòi.
Đó là vi phạm luật một vợ một chồng. Phạm vào luật
nầy, cô sẽ bị truy tố ra tòa, sẽ bị mất việc và
còn có thể đi tù nữa.
Tôi
biết lão nầy dọa tôi. Tôi nhớ không rõ lắm, theo báo
chí, hình như một bộ luật tố tụng chưa được hình
thành mà chỉ mới được đề nghị đưa ra quốc hội
thôi. Từ trước đến nay, đảng và nhà nước cai trị
miền Bắc bằng nghị quyết chứ làm gì có luật để
truy tố. Vả lại, nếu truy tố thì phải truy tố cái
người dám cấp cái giấy đăng ký kết hôn. Anh Thành
chuyển công tác vào Nam thì hồ sơ cá nhân phải đi theo
chứ. Tuy nhiên, tôi chẳng muốn nói ra điều nầy vì biết
nói ra thì bị quy vào tội nói xấu chính quyền. Mình là
người dân miền Nam, nội cái tội đó đã khó thở rồi,
nay còn phải chịu thêm cái tội phản động nữa là hết
đường sinh sống.
Thấy
tôi im lặng, ông ta lại lớn tiếng theo kiểu muốn đàn
áp cả một đám đông:
-
Bây giờ cô đã thấy được cái lỗi của cô chưa?
Tôi
thở ra một hơi dài, đưa mắt nhìn những người hàng
xóm bên ngoài. Tôi nói cho láng giềng thân thuộc của tôi
nghe:
-
Tôi không biết anh Thành có vợ nên chẳng có lỗi gì cả.
Người
đàn bà chồm lên, rít giọng:
-
Không có lỗi à? Mày giật chồng người khác mà nói
không có lỗi à?
Một
lần nữa, người đàn ông kéo mụ ta ngồi xuống rồi
quay sang tôi:
-
Cô có lỗi vì đã đăng ký kết hôn với người đã có
vợ chính thức. Cô không nhớ chính cô đã ký tên vào
đơn xin đăng ký sao?
-
Vì anh Thành cam đoan với tôi là anh ấy độc thân.
-
Tại sao chuyện quan trọng cả một đời người mà cô
lại dễ tin như thế?
-
Ông ấy mang quân hàm trung úy công an. Cái quân hàm của
các ông không đủ cho dân tin hay sao?
Bên
ngoài sân tiếng cười, tiếng xì xầm nổi lên. Người
đàn ông có vẻ xấu hổ, tằng hắng mấy tiếng rồi nói
tiếp, giọng nói có vẻ bớt kiêu căng:
-
Tin chuyện gì thì được chứ tin chuyện đấy thì không
được. Nhưng thôi, tôi không cãi lý với cô nữa. Cô và
chú Thành đều có tội. Cô phải hiểu rằng chú Thành có
thể được cơ quan che chở, còn cô thì liệu nhà trường
có che chở cho cô được không? Tôi nói như thế chắc cô
hiểu rồi. Cô suy nghĩ đi. Một hai hôm nữa chúng tôi sẽ
đến bàn bạc với cô để tìm một giải pháp ổn thỏa.
Nếu không được thì cô khó tránh khỏi sự trừng phạt
của pháp luật.