Nói
xong, người đàn ông đứng dậy kéo người đàn bà ra
đường. Mấy người hàng xóm xì xào bàn tán một chút
rồi cũng kéo nhau ra về. Ba tôi vẫn ngồi yên tại chỗ.
Ông nhìn tôi một cách buồn bã:
-
Ba không ngờ con lâm phải một nạn lớn như thế nầy.
Lỗi tại ba.
Nhìn
thấy đôi mắt ba rưng rưng, tôi cảm động quá, quỳ
xuống ôm chân ông, khóc òa. Ông nâng tôi dậy, bảo ngồi
trên ghế để bàn bạc công chuyện. Hai cha con bàn lui bàn
tới mà chẳng được gì. Tôi nhìn đồng hồ thấy đã
gần hai giờ chiều. Hai cha con còn chưa ăn cơm trưa. Tôi
đứng dậy thay áo quần, xuống bếp soạn cơm và món
thức ăn nguội lạnh mà ba đã nấu xong trước khi tôi đi
dạy về. Hai cha con ngồi ăn trong im lặng. Nét mặt ba dàu
dàu. So với sáng nay, bây giờ mới qua có mấy tiếng đồng
hồ mà trông ông già đi nhiều tuổi. Tôi thương ông quá
nên cố giữ nét mặt thật trầm tĩnh trong khi lòng tôi
bấn loạn. Đứa con trong bụng cựa quậy như nhắc nhở
tôi phải nhớ đến cái thân phận bi đát của nó, kết
quả của một sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng
của tôi. Tôi nghĩ đến người đàn bà thô lỗ và đanh
đá, bỗng rùng mình nôn ọe. Hơn nửa năm qua, hằng đêm
tôi phải ân ái với chồng bà ta.
Tôi
giật mình vì giọng nói của ba:
-
Để chiều thằng Thành về đây tao hỏi nó cho ra lẽ, để
xem nó tính giải quyết chuyện nầy ra sao.
Ba
ngưng một chút rồi nói tiếp:
Tôi
sững sờ, không tin vào tai mình. Đến nước nầy mà còn
sợ đổ vỡ nữa sao, đến nước này mà ba còn cố níu
kéo cái niềm tin đã tan nát như tương đó sao. Tôi đồng
ý đừng nên to tiếng để tránh làm phiền hàng xóm. Từ
mấy chục năm nay, gia đình tôi được mọi người chung
quanh thương yêu và kính trọng, nay lỡ mang lấy nỗi nhục
thì quyết im lặng chịu đựng. Còn chuyện vợ chồng
giữa Thành và tôi thì đương nhiên chấm dứt rồi kể
từ khi tôi đọc giấy đăng ký kết hôn của anh ta và bà
Hoàng thị Lành. Tôi không cảm thấy luyến tiếc tí nào
khi phải chia tay với con người dối trá đó. Chỉ còn
vấn đề chia tay thế nào cho yên thắm mà thôi.
Nghĩ
như thế nên tôi nói với ba tôi:
-
Con không muốn gặp mặt anh Thành nữa. Con muốn cuộc hôn
nhân xấu xa giữa con và anh ấy chấm dứt ngay từ hôm
nay.
Tôi
sờ vào bụng mình rồi chậm rãi nói với ba:
-
Còn hơn ba tháng nữa đứa bé nầy ra chào đời. Nó là
của riêng con. Nó chỉ có mẹ mà không có cha. Nó chỉ có
ông ngoại mà không có ông nội bà nội.
Ba
nhìn tôi ngơ ngác, dường như ông lẫn đi một lúc. Lát
sau ông mới lắp bắp nói:
-
Con không muốn gặp chồng con, à thằng Thành nữa à.
-
Ba. Anh ấy chưa bao giờ là chồng con. Cuộc hôn nhân gian
dối này chỉ là một tai họa.
Ba
tôi buồn bã:
-
Như vậy cũng phải. Bụng mang dạ chửa mà xúc động
mạnh có hại. Ba sẽ nói chuyện riêng với nó để tìm
giải pháp tốt nhất cho con và cho cháu ngoại của ba.
Tôi
thấy mắt ông rưng rưng nên vội rút khăn lau hai dòng
nước mắt đang chảy dài xuống má tôi. Tôi nói một
cách vội vã:
-
Ba cứ nói chuyện với anh Thành đi. Ba đừng lo cho con.
Với bất cứ hoàn cảnh nào con cũng chịu đựng được.
Tôi
vào phòng nằm vật lên giường. Tiếng nói the thé của
người đàn bà như vẫn vọng vào từ phòng khách. Tôi
nhắm mắt lại nhưng không tài nào xóa bỏ được những
giọng nói ghê rợn, những khuôn mặt đanh ác. Từ một
tháng nay, đứa bé trong bụng không còn hành tôi ói mửa
nữa cho nên tôi thấy sức khỏe tiến triển rất khả
quan. Tôi ăn ngon và dỗ giấc ngủ khá dễ dàng. Hôm nay,
chỉ qua một cơn bão mà sức khỏe tôi cạn kiệt, chân
tay tôi bải hoải run rẩy.
Năm
giờ chiều, tôi chậm chạp ngồi dậy, vào bếp lo bữa
cơm chiều. Vừa nấu cơm, tôi vừa lắng nghe tiếng động
ngoài cổng.
Từ
khi chuyển công tác về Đồng nai, buổi chiều, lúc đường
phố lên đèn, Thành mới trở về. Có khi xe hư, đến hơn
tám giờ anh mới tới nhà. Theo thói quen, cứ đến chập
choạng tối, tôi nhìn ra cửa, mong cái bóng quen thuộc
dừng xe, thò tay vào rút chốt để mở cổng ra. Hôm nay,
tôi có tâm trạng lửng lơ, nửa mong anh về để xem anh
giải quyết công việc ra sao, nửa mong anh đừng về để
tôi khỏi phải thấy mặt và nhất là khỏi phải chung
đụng trong đêm tối với con người đáng khinh bỉ đó.
Cơm
nấu chín. Mọi khi đợi Thành về tôi mới dọn ra, rồi
ba người cùng ăn và chuyện trò vui vẻ. Hôm nay tôi dọn
ra ngay để hai cha con ngồi ăn với nhau. Tôi chừa phần
cho Thành trên bàn rồi dọn dẹp và ngồi vào bàn để
chấm bài. Học sinh vừa thi xong học kỳ hai, tôi có nhiều
xấp bài phải chấm cho xong để nhà trường có thể kết
thúc năm học đúng thời gian do sở Giáo dục quy định.
Đáng lẽ buổi sáng lên lớp thì chiều phải ở lại
trường để chấm bài nhưng vì tôi đang mang thai nên nhà
trường cho mang bài về nhà để chấm.
Vừa
nghe tiếng xe dừng ngoài cổng, tôi biết Thành về nên
đứng dậy đóng cửa buồng, khóa cẩn thận và ngồi vào
bàn, cố tập trung trí óc để tiếp tục chấm bài.
Từ
bên ngoài vọng vào tiếng rì rầm của hai người đàn
ông. Tôi không nghe rõ nhưng hiểu rằng ba và anh Thành
đang dàn xếp công việc.
Đến
hơn mười giờ, tôi mệt mỏi muốn đi nằm thì nghe có
tiếng khua của chốt gài cổng rồi tiếng xe nổ máy xa
dần. Một phút sau, có tiếng gõ nhẹ vào cửa buồng. Tôi
đứng dậy mở cửa ra. Ba tôi quay người lại đi vào cái
bàn giữa phòng khách, ngồi xuống và chỉ cái ghế trống
trước mặt. Khi tôi đã ngồi xuống, ông nói ngay:
-
Ba đă nói chuyện với thằng Thành.
Tôi
ngắt lời:
-
Ảnh đi đâu rồi ba?
-
Nó về Biên hòa và sẽ nghỉ đêm tại công an tỉnh.
Trước khi về, nó tha thiết gặp con ít nhất một lần
để từ biệt. Ba nói với nó là con dứt khoát không muốn
trông thấy mặt nó nữa. Nó đứng dậy xin từ biệt ba,
nét mặt buồn dau dàu, thất thểu dẫn xe ra đường. Nghĩ
cũng tội, đêm nay thui thủi một mình ở cơ quan.
Tôi
nhìn đôi mắt của ba và ngạc nhiên thấy ở đó toát ra
nét hiền lành và chân thật đượm vẻ thê lương làm
cho tôi phải cố gắng lắm để khỏi bật khóc. Ba tôi
thở dài rồi nói tiếp:
-
Thằng Thành nói với ba rằng vợ nó nghe tin nó có vợ
thì nhảy dựng lên kêu gào rồi lập tức nhờ người
quen ra mua vé xe đò với giá cao. Anh ruột thằng Thành sợ
chuyện chẳng lành xảy ra, vội vã đi theo, không kịp xin
phép cơ quan. Vợ nó khóc trong suốt hành trình vất vả
hơn ba ngày đêm từ Cao bằng đến Biên hòa. Sáng nay, vợ
và anh nó vào cơ quan lôi nó ra quán cà phê chửi mắng nó
thậm tệ.
Ông
ngừng một chút rồi tiếp tục, vẫn với cái giọng trầm
trầm đầy vẻ thê lương:
-
Nó bảo rằng nó đoán trước hoàn cảnh nầy thế nào
cũng xảy ra nhưng vì quá yêu con nên nó làm liều. Nó nói
nó có tội quá lớn đối với con và không biết làm thế
nào để đền tội.
Tôi
bực tức ngắt lời ba:
-
Cách đền tội bây giờ, tốt nhất là thu xếp cho xong
chuyện và đừng bao giờ ló mặt đến nhà nầy nữa.
-
Nó cũng nói đến đứa con sắp ra đời và có ý đi vay
một món tiền kha khá để gởi cho con. Ba biết tánh con
nên bảo với nó rằng con sẽ không nhận đâu. Không biết
ba nói như thế có đúng ý con hay không. Thực tình thì ba
cũng nghĩ rằng một món tiền bây giờ đối với con cũng
quý để vài tháng nữa lo việc sinh nở.
Tôi
lắc đầu:
-
Ba từ chối là đúng ý con. Không bao giờ con nhận tiền
để anh ấy có cớ sau nầy lui tới nhà mình thêm phiền
phức cho con. Thế còn cái chuyện giải quyết cho êm thắm
thì anh ấy tính sao?
-
Nó bảo con vợ nó thì quá quắt lắm, vừa tham lam, vừa
hung dữ, nhưng ông Thái, anh ruột nó thì biết điều. Ông
Thái là người có học, hiện là kỹ sư ngành cầu đường
ở Cao bằng. Nó nói sẽ khẩn khoản nhờ anh nó dàn xếp.
Tôi
tức giận, hơi to tiếng:
-
Dàn xếp cái gì?
Tôi
ngừng lại ngay vì biết mình hơi vô phép một cách phi lý
với ba. Tôi chưa kịp xin lỗi thì ba trả lời:
-
Dàn xếp với vợ thằng Thành để cho con với thằng
Thành chia tay êm thắm, mỗi người một ngã và vợ nó
không làm khó dễ nữa. Nó nói gia đình vợ nó thân thế
lắm, vì có nhiều người làm trong chính quyền ở ngoài
đó.
Tôi
không dằn được nên cười khẩy:
-
Vì vậy anh Thành mới cưới mụ vợ xấu xí và hung dữ
để tiến thân.
Ba
thở dài:
-
Thôi con đừng mắng mỏ nó nữa. Ba cũng biết đám dân
ngoài Bắc đều muốn tiến thân theo kiểu bần tiện đó
chứ không riêng gì thằng Thành.
Tôi
ngạc nhiên vì lần đầu tiên nghe ba nói lên ý nghĩ xấu
của mình về những người thuộc phe cách mạng của ba.
Tôi dịu giọng:
-
Chia tay thì dễ rồi nhưng còn cái chuyện pháp luật nữa.
-
Chuyện gì? À phải rồi, con muốn nói chuyện thằng Thành
có tới hai cái giấy kết hôn với hai người khác nhau
phải không? Có, nó có nói chuyện đó. Nó nói lúc đó nó
yêu con cho đến đỗi sợ ba không gả con cho nó nên nó
phải tốn tiền quà cáp để làm cái giấy kết hôn với
con. Hồ sơ chính nằm tại phường, tìm cách hủy đi là
xong. Nếu cần thì lo một số tiền. Nó từng là công an
của phường. Tuy không còn công tác ở đây nữa nhưng
vẫn còn người quen và biết chỗ cần hối lộ cho xong
chuyện.
Tôi
nghe lòng nhẹ nhàng như vừa trút được một gánh nặng
ghê gớm. Ba nói tiếp:
-
Ba tin rằng thằng Thành và anh nó rất hiểu biết về cái
chủ nghĩa xã hội nầy nên có thể dàn xếp được. Bây
giờ còn một chuyện gay go nữa.
-
Chuyện gì vậy ba?
-
Chuyện dạy học của con. Con đang theo ngành mô phạm. Nếu
chuyện xấu xa nầy đổ bể, ắt phương hại đến danh
giá của con.
Tôi
mỉm cười:
-
Ba không phải lo cho cái danh giá đó. Từ sau 1975, đạo lý
miền Nam cũng xuống dốc cho giống với miền Bắc xã hội
chủ nghĩa. Ngay trong giáo giới, việc vi phạm đạo đức
giữa trai gái trở thành bình thường. Giáo viên không hôn
thú ăn ở công khai với nhau ngay trong nhà tập thể của
trường.
Ba
hoảng hốt trố mắt nhìn tôi, làm tôi phải nói ngay:
-
Tuy nhiên đối với con thì khác. Việc xấu xa nầy không
phải lỗi tại con, nhưng con cảm thấy mình bị lem luốc
rồi. Cái từ giựt chồng, cướp chồng mà bà Lành đã
hét trong nhà nầy, trước bàn thờ của mẹ …
Tôi
ngừng lại, nuốt nước bọt để dằn cơn xúc động,
rồi nghẹn ngào nói tiếp:
-
Hàng xóm láng giềng đã nghe hết, bóng đen đã phủ lên
tư cách làm người của con rồi. Chắc chắn tâm hồn con
khó được bình an khi con đứng trên bục giảng nhìn
những đôi mắt thơ ngây và trong sáng của các em học
sinh. Con sẽ thành thực trình bày mọi sự với anh hiệu
trưởng và chị thư ký công đoàn. Con sẽ suy nghĩ cẩn
thận để đề nghị với hai vị đó giải pháp ổn thỏa
nhất cho con. Ba không phải lo chuyện đó.
Tôi
ngưng nói, nhìn đồng hồ treo tường thấy đã hơn mười
một giờ đêm nên đứng dậy xin ba tôi cho phép đi nghỉ.
Tôi lo lắng mình sẽ bị mất ngủ thì sáng mai khó lòng
đến trường để dạy học được. Nhưng không, đặt
lưng xuống giường, tôi đánh một giấc đến sáng.
Tôi
thức giậy, lật đật lo bữa điểm tâm rồi ra xe đến
trường. Tôi dạy hết buổi sáng, buổi chiều miệt mài
với những dòng chữ dễ thương của các em học sinh trên
những tờ giấy thi.
Sáng
chúa nhật, hai ngày sau buổi chiều sóng gió, ông Thái,
anh ruột của Thành trở lại nhà tôi. Ông gọi cửa, tôi
ra mở, nhìn hai đầu đường, biết ông ấy đi một mình
nên yên tâm mời ông vào nhà. Tôi báo cho ba tôi ra tiếp
khách, còn tôi lo đi nấu nước pha trà. Khi tôi bưng khay
trà lên thì ông Thái xin tôi ngồi lại để ông thưa
chuyện. Tôi vâng lời. Ông Thái có vẻ đắn đo vài phút
rồi vào đề, giọng nói khá lễ độ:
-
Câu chuyện ăn ở giữa cô giáo đây và chú Thành của
tôi là điều vô cùng rắc rối vì vi phạm pháp luật.
Thím Thành muốn làm to chuyện cho đã cơn giận. Tôi hết
sức khuyên can, cô ấy mới chịu im để cho tôi tính
toán. Nhờ có nhiều nơi quen biết nên tôi có thể giải
quyết được một cách êm thắm nhưng phải tốn một số
tiền trà nước không phải là nhỏ. Tôi nghĩ rằng hai
bên đều có trách nhiệm chung lo số tiền đó.
Ba
tôi hoảng hốt:
-
Xin ông hiểu cho là hiện nay chúng tôi rất nghèo, chỉ
sống nhờ vào lương đi dạy ba cọc ba đồng của con
Ngọc mà thôi.
Ông
Thái đưa hai bàn tay lên, ra hiệu trấn an ba tôi:
-
Tôi hiểu ông và cô đây không có dư tiền mặt. Sau hai
vụ đổi tiền, thường dân, chẳng có ai còn tiền trong
túi. Nhưng vợ chú Thành nhất định ông và cô Ngọc phải
chi ra thì việc mới yên được. Hôm trước nó ngồi đây,
nhìn xuống bếp thấy nhà còn chiếc Honda…
-
Hả?
Ba
tôi gần như nhảy dựng lên. Tôi vội vàng quay sang kéo
tay xin ba ngồi yên rồi khinh bỉ nói với ông Thái:
-
Nếu không có chiếc xe, anh em ông sẽ làm tới cùng, đúng
không?
Người
đàn ông không trả lời cũng không tỏ vẻ gì phủ nhận,
nhưng ánh mắt thèm thuồng liếc nhìn về phía cửa bếp
bảo rằng, ông ta sẽ không ra về nếu chưa lấy được
chiếc xe. Tôi nhìn chằm chằm người đàn ông xa lạ,
bỗng ghê sợ nhận ra, khuôn mặt ông ta giống Thành lắm.
Nét đẹp trai mà ngày nào tôi nhìn thấy nơi Thành bây
giờ hiện rõ trên khuôn mặt lưỡi cày gian tham. Tôi hỏi
lại:
-
Ông đến đây vì chiếc xe hay vì trách nhiệm?
Người
đàn ông cười đe dọa:
-
Cô còn cách nào khác không?
Tôi
lắc đầu khinh bỉ:
-
Không. Chúng tôi còn cách nào khác, chẳng còn sự lựa
chọn nào. Ông lấy chiếc xe đem về quê mà dùng.
Ông
Thái thở hắt ra, đổi giọng thân thiện:
-
Thế là xong chuyện cô nhé. Coi như cô bồi thường thiệt
hại cho chúng tôi vậy.
Tôi
sửng sốt về chữ “bồi thường thiệt hại” mà ông
ấy vừa thốt ra. Việc xấu xa nầy liên can đến ba người
là Thành, bà Lành và tôi. Trong ba người, ai là người
thực sự bị thiệt hại, đáng được bồi thường,
Nhưng thôi, mặc kệ họ muốn nói gì thì nói. Tôi cũng
như hai mươi triệu dân miền Nam đã quen chịu đựng với
cách ăn nói lật lọng của họ rồi.
Ông
Thái lại ngon ngọt lên tiếng:
-
Cô Ngọc này. Còn một vấn đề nữa cần ý kiến cô
Ngọc.
Tôi
bực bội:
-
Còn chuyện gì nữa, ông cứ nói.
-
Chuyện đứa bé sắp ra đời.
Tôi
giật mình:
-
Ông muốn? Ông muốn nói về đứa con của tôi?
Giọng
ông Thái giả lả:
-
Không phải tôi muốn mà đây là ý kiến của vợ chú
Thành.
Tôi
gằn giọng:
-
Thế chị ấy muốn thế nào? Muốn bắt đứa bé nầy về
nuôi khi nó ra đời phải không?
Ông
ta xua tay:
-
Không phải vậy. Không phải vậy. Mà ngược lại, thím
ấy muốn chồng mình không phải có trách nhiệm về đứa
bé nầy.
Tôi
thấy nóng cả mặt:
-
Ông muốn nói đứa bé nầy do tôi chửa hoang chứ không
phải là con anh Thành phải không?
Ông
Thái lại xua tay lia lịa:
-
Không, không. Cô đừng nói thế, tội cho tôi. Vợ chú
Thành không muốn chú ấy có trách nhiệm với đứa bé vì
một khi còn mang trách nhiệm thì còn gặp gỡ cô. Vợ nó
nói rằng cô còn đẹp lắm nên thằng Thành còn dịp gặp
cô thì khó thoát được.
Tôi
cười lạt:
-
Ông yên tâm. Tôi đã quyết định việc đó xong rồi. Kể
từ bây giờ, tôi không còn liên hệ gì với người em
của ông nữa. Dù cho đứa bé nầy có mang phân nửa dòng
máu của anh Thành nhưng khi ra đời, nó hoàn toàn là của
tôi, không dính mớ chút nào đến người đáng lẽ là
cha nó. Tôi cũng không đòi bất cứ trợ cấp nào của
anh Thành để làm chi phí trong việc sinh nở và nuôi nó
khôn lớn. Ông cứ yên tâm. Ông có cần tôi viết giấy
cam đoan không?
Ông
Thái cười nịnh nọt:
-
Không cần, không cần. Lời nói của cô như thế là quá
đủ rồi. Người Miền Nam thì chân thật và thủ tín,
đặc biệt là người miền Nam trí thức như cô. Ở ngoài
Bắc tôi thường nghe như thế, người nào được vào Nam
một chuyến cũng đều nói như thế.
Ông
nói xong thì cười rổn rảng một cách thoải mái. Bây
giờ tôi không hiểu, cái ông cán bộ nầy nói thực bụng
hay nói để lấy lòng tôi, sau khi tôi đã chấp thuận
nhanh chóng mọi điều mà ông đề nghị. Tôi muốn chuyện
vợ chồng giữa tôi và Thành kết thúc trọn vẹn nên nói
với ông Thái:
-
Để cho chị Lành hoàn toàn yên tâm, tôi đề nghị ông
vận động cho anh Thành chuyển công tác về Bắc, tốt
hơn cả là về Cao bằng để chị Lành quản lý anh ấy
cho chặt chẽ.
-
Vâng, vâng. Cô nói đúng. Tôi biết cái tính mê gái của
chú ấy. Nó tuy thuộc thành phần bần cố nông nhưng lại
nhiễm tính tình bay bướm lãng mạn của bọn tiểu tư
sản. Nó lại có bộ mã điển trai nên đi đâu cũng lăng
nhăng đèo bồng. Cô nói đúng, phải để vợ nó quản lý
chặt chẽ mới không lo chuyện bê bối xảy ra.
Ông
Thái cầm ly nước lên uống một hớp rồi nói tiếp:
-
Ngay ngày mai, tôi sẽ buộc chú Thành xin chuyển công tác
về Cao bằng để gần gũi vợ con và phụng dưỡng cha mẹ
già. Nó gốc ở Cao bằng, nay xin trở lại quê nhà thì
không khó lắm đâu. Nhưng... Cũng đáng tiếc, đáng tiếc.
Giọng
ông Thái nhỏ dần rồi chuyển qua lối tự sự:
-
Nói thế nào với nó đây? Bây giờ hàng triệu người
đang đùng đùng tìm cách thuyên chuyển vào Nam, chứ có
ai lại xin trở ngược ra Bắc. Ai lại trở ngược ra
ngoài đấy bao giờ. Bậy, bậy. Mà thím Lành...
Ông
ta lắc đầu trầm ngâm, ra vẻ cân nhắc với suy nghĩ nầy
lắm. Bộ dạng thấp thỏm suy tư của ông ta ngầm tố
cáo, trong số người đang đùng đùng xin vào Nam có cả
ông ta. Ý nghĩ này làm tôi ngao ngán, miền Nam có thêm
triệu người như ông Thái thì còn gì để mà ăn. Tôi
lên tiếng đuổi khéo:
-
Thưa ông, về phía tôi, mọi chuyện đã xong xuôi.
Ông
Thái tỉnh cơn mơ quay nhìn tôi nở nụ cười tươi rói,
rồi quay sang cha tôi nói trơn tru:
-
Báo cáo với bác. Mọi việc đã giải quyết ổn thỏa.
Chuyện cuối cùng là chuyện chuyển nhượng chiếc xe.
Tôi
thấy khó chịu vô cùng, người đàn ông này đã tính
toán rất kỹ lưỡng.
-
Được, ông chờ tôi một chút.
Tôi
bước vào phòng ngủ, mở hộc tủ đựng giấy tờ, lấy
ra thẻ chủ quyền. Sau năm 1975, người ta buộc làm lại
giấy chủ quyền thay thế giấy của chế độ cũ. Vì anh
Quân đã qua đời nên tôi đứng tên cho chiếc Honda 67 của
anh tôi.
Tôi
trở lại phòng khách trao giấy chủ quyền lại cho ông
Thái:
-
Đây, ông cầm lấy. Thế là xong cả rồi phải không?
Ông
Thái xem xét cả hai mặt tấm thẻ, rồi ngon ngọt nói:
-
Quý hóa quá. Cô Ngọc ạ. Xin cô làm ơn cho trót. Cô cho
tôi tờ sang nhượng.
-
Được, tôi làm ngay. Làm giấy bán hay giấy cho?
-
Thế nào cũng được, miễn có chữ ký của cô là tốt
rồi.
-
Có cần ngày mai đưa ra chính quyền thị thực chữ ký
không?
Ông
Thái lắc đầu:
-
Chả cần. Tôi quen biết nhiều ở công an địa phương,
đem về đó là họ đổi thẻ chủ quyền ngay. Vả lại,
chú Thành một khi về đó cũng công tác ở ngành công an
mà.
Tôi
lấy lại thẻ chủ quyền vào buồng, ngồi viết tờ sang
nhượng, xong trao cả thẻ và giấy cho ông Thái. Ông đọc
kỹ tờ sang nhượng và gật đầu tỏ dấu hài lòng:
-
Thế là tốt lắm. Bây giờ tôi xin kiếu từ về báo cáo
lại với vợ chồng chú Thành. Cám ơn ông, cám ơn cô
Ngọc. Nếu có dịp ra Bắc, mời ông và cô lên Cao bằng
ghé nhà để chúng tôi hướng dẫn đi thăm hang Pắc bó.
Tôi
mỉa mai:
-
Ông mời tôi lên Cao bằng chơi, không sợ tôi lại quyến
rũ em ông à?
Ông
Thái có vẻ bẽn lẽn:
-
Ừ nhỉ, thế cũng phải. Thôi xin tạm biệt ông và cô
Ngọc.
Tôi
không muốn trả lời ông ta, nên quay sang ba tôi:
-
Ba mang xe ra “thân tặng” ông Thái đi.
Ba
tôi thẩn thờ dẫn chiếc xe Honda 67 ra trao cho ông Thái,
nói nho nhỏ:
-
Chiếc xe còn tốt lắm. Mỗi hai ba tháng tôi cho một tí
xăng vào đạp cho nổ máy. Ông có thể cởi xe về nhà
được nhưng phải ghé đầu đường, chỗ có dựng viên
gạch, đổ nửa lít xăng.
Ông
Thái nhận xe hân hoan không giấu được. Cả khuôn mặt
ông như nở tung ra như cái bánh bao. Tôi đưa ông ta ra
khỏi nhà. Khi tôi quay lại định đóng cổng thì thấy ba
tôi đã theo ra đến giàn hoa giấy. Ông đứng yên như pho
tượng, cặp mắt thẫn thờ nhìn theo chiếc xe xa dần.
Tôi hiểu, đó là chiếc xe của anh Quân. Chiếc xe vừa bị
người ta dẫn đi. Trong bao năm trời nó là di vật thiêng
liêng để nhớ về người con trai duy nhất của ông. Tôi
thấy ba tôi già xọm đi. Có lẽ, giờ nầy ba tôi nhớ
đến anh Quân không như là người nối tiếp hình ảnh
hào hùng, đam mê lý tưởng cộng sản trong thời trai trẻ
của mình. Ba tôi nhớ đến anh Quân, đơn thuần là núm
ruột của mình đã đột ngột biến mất khỏi thế gian
nầy.
Tôi
bước đến cầm tay ba dẫn vào nhà. Tôi dịu dàng nói
với ông:
-
Thôi ba đừng buồn nữa. Thế cũng may cho mình, họ đến
chỉ cốt lấy chiếc xe. Bây giờ cha con mình có thể sống
một cách bình yên.
Ba
đưa tay vuốt tóc tôi, giọng nghẹn ngào:
-
Tội nghiệp con gái của ba.
Lần
đầu tiên, tôi nghe ba nói với con gái bằng giọng cảm
thông và yêu thương như vậy. Tôi buông tay ông, đi nhanh
xuống bếp, để mặc cho nước mắt trào ra mờ mịt cả
đường lối.
Sáng
hôm sau, thức dậy, tôi thấy thơ thới và có cảm tưởng
mình như con thuyền mong manh vừa vượt qua sóng gió để
đi vào vùng biển bình an. Tôi sửa soạn đến trường và
dặn ba tôi ở nhà ăn cơm một mình, chiều tối tôi mới
về. Bài thi học kỳ hai của học sinh tôi đã chấm xong
hết. Nhà trường cho học sinh nghỉ một tuần để giáo
viên hoàn tất hồ sơ sổ sách, ký học bạ cho học sinh.
Trong tuần lễ đó tôi phải làm việc suốt ngày tại
trường. Trọn tuần tôi không nghe ai hỏi tôi về chuyện
xấu xa vừa xảy ra trong gia đình tôi. Có lẽ có người
đã hay biết nhưng họ không nói ra vì nể tôi hoặc vì
đang bận rộn việc kết thúc năm học cho học sinh.
Mọi
việc hoàn tất đúng thời hạn ấn định. Sau buổi lễ
bế giảng năm học và phát thưởng, tôi xin gặp anh hiệu
trưởng và chị thư ký công đoàn. Cả hai người đều
là người miền Nam. Tôi trình bày cặn kẽ việc đã xảy
ra trong gia đình tôi. Hai người nói lời chia buồn về
việc ly tan giữa tôi và Thành. Ngày đám cưới của tôi
năm ngoái, hai người đều có tham dự và có lời chúc
mừng trăm năm hạnh phúc. Tôi hỏi xin ý kiến của hai vị
để giải quyết chuyện dạy học của tôi sắp tới. Chị
thư ký công đoàn nói:
-
Bây giờ phía bên vợ anh Thành chấp thuận không làm to
chuyện và đã dàn xếp êm xuôi. Việc lộn xộn trở
thành sự kiện riêng tư trong gia đình chị, có liên can
gì đến công tác của chị đâu.
Tôi
rầu rĩ phân tích:
-
Nhưng việc nầy, trước sau gì cũng đổ bể và nhiều
người biết, em không bị kết án về pháp luật thì cũng
bị lên án về đạo đức.
Anh
hiệu trưởng lắc đầu:
-
Chị chẳng vi phạm đạo đức, cũng chẳng có lỗi gì
cả. Không ai lên án chị đâu. Ngay cả khi có kẻ xấu
miệng lên án chị hay thưa gởi gì đi nữa thì chi bộ,
ban giám hiệu, công đoàn và cả hội đồng giáo dục đủ
sức che chở cho chị. Mọi thầy cô và học sinh ở đây
đều thương yêu và kính trọng chị. Chúng tôi sẽ bảo
vệ chị chống lại mọi sự kết án.
Tôi
buồn rầu đáp lời:
-
Cám ơn các anh chị. Anh chị có thể bảo vệ cái nghề
cầm phấn của em nhưng cái danh giá người phụ nữ của
em tan nát rồi, làm sao còn bảo vệ được. Em dạy môn
văn, thường vận dụng việc phân tích tác giả và tác
phẩm để đưa vào những lời dạy về đạo lý, đặc
biệt về tình yêu và hôn nhân, vì học sinh ở đây đang
trải qua tuổi dậy thì. Bây giờ, danh giá bị tan nát
rồi, em làm sao đủ tư cách dạy dỗ học sinh được.
Dứt khoát em phải bỏ nghề. Em biết anh chị thương mến
tôi, nhưng thôi, đừng thuyết phục em tiếp tục đứng
lớp nữa.
-
Nhưng chị là giáo viên giỏi của trường. Chúng tôi đã
có kế hoạch mời chị đăng ký phấn đấu thành chiến
sĩ thi đua.
-
Em cám ơn nhà trường và công đoàn, nhưng em đã dứt
khoát chia tay bục giảng rồi. Xin các anh chị đứng
thuyết phục em nữa.
Chị
thư ký công đoàn nhìn tôi, nói giọng buồn bã:
-
Chị không còn muốn dạy học sinh nữa thì thôi. Nghỉ
dạy rồi thì chị làm gì để sống. Tôi biết chị và
bác trai sống rất kham khổ, nay mai lại thêm đứa con
nữa. Lương giáo viên thì tệ nhưng dù sao cũng tiếp tục
sống tằn tiện được. Nay chị xin bỏ việc thì có thu
nhập ở đâu không?
Tôi
chán nản đến mức đổ liều:
-
Không có thu nhập ở đâu cả. Nhưng trời sinh voi, sinh
cỏ.
Chị
thư ký công đoàn nhìn xuống bụng tôi:
-
Bao giờ chị sinh con?
-
Khoảng ba tháng nữa.
Anh
hiệu trưởng nói chen vào:
-
Trước mắt, chị có ba tháng hè nghỉ ngơi. Trong ba tháng
nầy, tôi miễn cho chị mọi công tác kể cả học bồi
dưỡng và đi gác thi. Sau đó, chị xin nghỉ hộ sản ba
tháng. Vậy là chị có sáu tháng nghỉ ngơi ăn lương để
sinh nở và săn sóc con sơ sinh.
Tôi
nói lời cám ơn. Anh hiệu trưởng nói tiếp:
-
Trong sáu tháng đó, tôi sẽ cố gắng nhờ người quen tìm
cho chị một công tác nào đó. Tốt nhất là ở một cơ
quan nhà nước. Nếu được vậy là chị xin chuyển ngành
chứ không phải nghỉ việc và liên tục ăn lương để
sống, nuôi cha và nuôi con nhỏ.
Suýt
nữa tôi òa lên khóc:
-
Em rất cảm động về lòng tốt của hai anh chị.
-
Không có chi. Giúp đỡ người lâm cảnh hoạn nạn là
chuyện thường.
Sau
buổi nói chuyện với anh hiệu trưởng và chị thư ký
công đoàn, tôi thấy lòng mình thanh thản hơn.
Ba
tháng hè trôi qua một cách bình an.
Một
buổi sáng, khi tôi bắt đầu chuyển bụng thì dì Tư Kỳ
đưa tôi đến nhà bảo sanh. Tôi sinh một bé trai kháu
khỉnh, đặt tên cho cháu là Trình. Khi khai họ mẹ cho
con, tôi thấy tủi thân, nhưng sau đó được yên tâm vì
con tôi không dính dáng gì về pháp lý với cha ruột nó.
Trong nhà bắt đầu có tiếng khóc trẻ thơ, tạo nên bầu
không khí ấm cúng. Ba tôi lo đi chợ, nấu cơm, lau nhà,
quét dọn. Dì Tư Kỳ và chị Tâm nhà kế bên giúp việc
giặt giũ và tắm rửa cho em bé trong vòng một tháng. Sau
đó, tôi tự lo lấy công việc.
Rất
đông đồng nghiệp của tôi lần lượt đến thăm, tặng
áo quần, khăn lông, vải trải giường cho em bé và thức
ăn cho tôi. Một số nữ sinh cũng từ Thủ đức về Sài
gòn thăm tôi. Sau nỗi bất hạnh to lớn, tôi bắt cảm
nhận một chút hạnh phúc của cuộc đời và tình yêu
thương của những tấm lòng nhân hậu quanh mình.
Một
hôm chị thư ký công đoàn đến thăm và báo tin đã tìm
được cho tôi một chân công nhân viên tại trường Mầm
non. Đó là một nhà trẻ kiêm mẫu giáo. Tôi lật đật
viết đơn xin chuyển ngành. Đích thân anh hiệu trưởng
lo mọi việc nên lá đơn được chấp nhận nhanh chóng.
Khi
hết hạn nghỉ hộ sản, tôi đến trình diện nhiệm sở
mới. Chị giám đốc tiếp đón tôi một cách niềm nở.
Chị nói với tôi:
-
Tôi xem hồ sơ và biết chị đã tốt nghiệp đại học
Sư phạm. Rất tiếc ở đây tôi chỉ thiếu một người
lo việc ăn uống cho các cháu mẫu giáo. Công việc nầy
không cần người có bằng cấp, thế mà học lực của
chị quá cao, nhất là chị đã được đào tạo trong chế
độ cũ tại Sài gòn. Chị hãy suy nghĩ lại đi.
Tôi
vội vã đáp lời:
-
Thưa bà giám đốc, nguyện vọng tôi hiện nay là được
làm việc tại đây, xin bà hãy thu nhận tôi vào làm nhân
viên cho nhà trẻ và mẫu giáo nầy, với bất cứ vai trò
gì cũng được.
-
Được, chị đã nói như thế thì tôi chấp thuận nguyện
vọng của chị dù tôi vẫn tiếc cho tài năng của chị.
Tôi
nói lời kiếu từ và xin ngày mai đến nhận việc. Bà
giám đốc giữ tôi lại để tâm sự:
-
Tôi vừa gặp chuyện hơi bực mình với một nhân viên.
Thấy chị nói giọng Nam thì tôi cũng thích.
Tôi
không hiểu bà giám đốc muốn nói gì nên im lặng lắng
nghe bà giám đốc nói tiếp:
-
Hầu hết các trưởng cơ quan hiện nay đều thích nhận
nhân viên người miền Nam. Chúng tôi thích người miền
Nam vì họ được đào tạo chuyên môn trong chế độ cũ
nên kiến thức và tay nghề bảo đảm. Hơn nữa, người
miền Nam thì chân thật, khiêm tốn và có tinh thần trách
nhiệm cao.
Thấy
bà giám đốc có dáng vẻ cởi mở và thân thiện nên tôi
nói:
-
Thưa bà, tôi vừa sinh cháu bé được ba tháng. Nhà tôi
chẳng có ai săn sóc, tôi có thể đem cháu đến đây mỗi
ngày được không?
Bà
giám đốc nói với giọng sốt sắng:
-
Được lắm chứ. Chị đem đến đây gửi cho cô phụ
trách nhóm tuổi sơ sinh. Con của công nhân viên ở đây
được gởi miễn phí. Cháu còn bú sữa mẹ không?
-
Dạ còn.
-
Tốt lắm. Chị cứ làm việc mình và đến giờ thì đến
cho cháu bú.
Một
lần nữa, tôi cám ơn bà giám đốc và ra về. Nghĩ đến
chuyện không phải xa con, tôi nghe lòng mình vui phơi phới.
Từ
đó, mỗi ngày, sáng sớm, hai mẹ con cùng đến nhà trẻ
mẫu giáo rồi chiều cùng về nhà. Bác Sáu xích lô ở
cùng xóm tình nguyện đưa rước mẹ con trong vòng sáu
tháng, với món tiền thù lao hàng tháng rất thấp. Sau sáu
tháng, cháu bé đã được chín tháng, có thể ngồi vững
vàng thì tôi sẽ mua xe đạp chở cháu ở cái yên nhỏ
phía trước hoặc phía sau. Mọi người trong xóm đều
thương tôi và sẵn sàng giúp đỡ khi cần. Tôi cảm thấy
mỗi ngày nỗi bất hạnh rút lui một xa dần nhường chỗ
cho hạnh phúc nhè nhẹ đến với tâm hồn tôi.
Bé
Trình, con tôi rất xinh. Hôm đầu tiên tôi đi làm, đem
cháu đến nhà trẻ, ai cũng trầm trồ khen ngợi.
Một
hôm, cháu bú xong nằm ngủ, bỗng nhoẻn miệng cười. Tôi
nhìn cháu và đột nhiên thấy nó giống anh Định, người
yêu xưa cũ của tôi. Tôi tự hổ thẹn vì nó là con của
trung úy công an Thành chứ đâu phải của thiếu úy bộ
binh Định. Tuy hổ thẹn nhưng từ trong chỗ sâu kín của
tấm lòng, tôi vẫn mong con trai tôi giống Định hơn là
giống Thành.
Công
việc ở nhiệm sở mới của tôi cũng khá dễ chịu. Tôi
có nhiệm vụ cân cho đủ trọng lượng các loại thức
ăn sống do nhà thầu đem đến hằng ngày, kiểm tra vệ
sinh nhà bếp và dùng xe đẩy, đưa thức ăn nấu chín về
các phòng của các lớp mẫu giáo.
Bé
Trình được cô phụ trách săn sóc có vẻ cẩn thận hơn
các bé khác. Cứ mỗi ba giờ tôi ghé lại ôm cháu vào
lòng để cho bú. Cứ mỗi lần tôi cho cháu bú, cô phụ
trách lại khen cháu ngoan làm cho tôi vui sướng vô cùng.
Mọi người ở đây đều có cảm tình với tôi giống
như cảm tình mà các đồng nghiệp ở trường cấp ba đã
dành cho tôi trước đây.
Công
việc của tôi khá nhàn nhã, tôi có nhiều thì giờ rảnh
rỗi nên thường đến phụ giúp các cô mẫu giáo. Bọn
trẻ rất mến tôi làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.
Chúng gọi tôi là “má Ngọc”. Mỗi khi tôi đến lớp
là chúng reo to: “má Ngọc, má Ngọc” rồi giành nhau
chạy đến ôm tôi. Bọn trẻ làm tôi cảm động và hạnh
phúc vô cùng.
Mỗi
ngày, hai mẹ con ra đi từ sáng sớm. Ba tôi mở cổng và
đứng đó nhìn hai mẹ con tôi lên xe xích lô, nhìn theo xe
lăn bánh và có lẽ ba chỉ vào nhà khi chiếc xe khuất
bóng sau ngã ba. Buổi chiều khi xe chở mẹ con quẹo vào
trong hẻm thì tôi đã thấy ba đứng chờ trước cổng.
Có lần bước xuống xe, tôi hỏi ba chờ lâu chưa thì ông
chỉ mỉm cười mà không trả lời.
Khi
xe ngừng, ông vội vã đưa tay đón cháu, hôn chùn chụt
và bế cháu vào nhà.
Tôi
thường thấy trên bàn và trong giường ngủ của ba một
cuốn sách đọc dang dở. Tôi nhìn và biết ngay đó là
sách của mẹ để lại. Mẹ có một tủ sách, hầu hết
là sách khảo luận văn chương, sách triết học và tiểu
thuyết của các tác giả nổi tiếng ở Việt Nam và thế
giới. Tôi biết, suốt ngày cô độc trong căn nhà trống
vắng, ba làm bạn với những cuốn sách đó, vừa để
tìm vui, vừa để nhớ người vợ hiền đang thảnh thơi
trên miền tiên cảnh.
Cuộc
đời phẳng lặn làm cho thời gian qua nhanh. Ngày lại
ngày, tôi vui với công việc ở nhà trẻ mẫu giáo, vui
với cảnh ông bế cháu và ru ngủ tại nhà.
Cháu
Trình khỏe mạnh mau lớn. Lúc cháu được mười một
tháng, cô phụ trách cho cháu vịn vách tường để tập
đi. Ở nhà, một buổi chiều, thấy cháu đứng chựng và
bước được hai bước, ông nhảy lên vỗ tay reo mừng.
Rồi ba tôi nhảy nhót múa may làm trò hề. Thằng Trình
khoái chí cười khanh khách. Tôi nhìn và ngây ngất trước
cảnh đáng yêu nầy.
Khi
bé Trình lên ba tuổi, cháu được vào lớp mẫu giáo đầu
tiên gọi là “lớp mầm” của nhà trường. Hằng ngày
tôi có dịp gần gũi cháu nhiều hơn vì tôi vẫn giữ
chân phụ trách các bữa ăn cho các lớp mẫu giáo.
Ở
nhà trẻ, tôi vẫn vui với các trẻ nhỏ, đầu óc thoải
mái với công việc, nhưng khi về nhà tôi bắt đầu lo
lắng cho sức khỏe của ba tôi. Càng ngày ba càng biếng
ăn và ốm đi rõ rệt. Ban đêm, ba thường húng hắn ho.
Lúc có mặt tôi, ba lấy tay bụm miệng, nhăn mặt cố nén
cơn ho nhưng ít khi nén được. Mỗi lần như thế, ba lại
lấy tay ôm ngực.
Tôi
lo quá, nhưng hỏi thì ba lại bảo không sao, chỉ là chứng
ho cảm của người già khi trái gió trở trời.
Một
hôm, tôi đưa bé Trình đến trường rồi xin nghỉ một
buổi sáng, đưa ba đến y tế phường. Người ta khám
xong cũng nói ba bị ho cảm, cho mấy viên thuốc ho là
xong. Ba uống hết những viên thuốc nầy mà bệnh không
thuyên giảm, trái lại có phần tăng lên.
Tôi
khổ quá chẳng biết tính sao, chạy đến hỏi ý kiến bà
Tư Sanh vì nghe nói trước 1975 bà ấy là y tá. Bà bảo có
thể ba bị lao. Bây giờ, người ta ăn uống thiếu thốn,
nên bệnh lao hoành hành trở lại. Tôi lại xin nghỉ nửa
ngày đưa ba đến bệnh viện đa khoa để khám lao. Người
ta kết luận không có vi trùng lao.
Bệnh
của ba tôi càng ngày một nặng thêm nhưng ông vẫn cố
tỏ ra khỏe mạnh để tôi an lòng. Nhưng tôi an lòng sao
được. Mỗi buổi chiều đạp xe chở con về, trông thấy
ông đứng xiêu xiêu trước cổng, nước mắt tôi chực
trào ra.
Một
hôm, tôi về không thấy ông đứng đón, tôi vội vã thò
tay mở cổng, dẫn xe vào nhà, thấy ba nằm nghiêng trên
giường, hai tay ôm ngực. Thấy tôi vào, ba cố ngồi dậy,
ho một tràng dài rồi nói một cách mệt nhọc:
-
Khi nãy ba ra đón cháu mà mệt quá nên phải vào nằm.
Ba
lại ho rồi lo lắng nói tiếp:
-
Hôm nay con đi làm có mệt không? Cháu Trình có ăn được
không?
Tôi
vội vã nói:
-
Ba nằm nghỉ cho khỏe đi. Con và bé Trình vẫn như mọi
bữa.
Tôi
đỡ ba nằm xuống rồi bước ra ngoài, lòng bấn loạn.
Nhất định nội trong ngày mai phải đưa ba vào nhà
thương. Nhưng ai sẽ ở trong đó với ba? Tôi có thể xin
nghỉ vài hôm, nhà cửa có thể khóa lại rồi gởi cho
hàng xóm dòm chừng, nhưng bé Trình thì gởi cho ai? Tôi
ngồi thừ ra suy nghĩ một lúc và nhớ đến cô Ba, em ruột
duy nhất của ba, nhà ở tỉnh Sông Bé. Chồng của cô là
công nhân cơ khí, cô phải mở quán xép bán tạp hóa tại
nhà để phụ giúp với chồng nuôi bốn đứa con còn ăn
học. Cô khổ, nhờ cậy cô cũng tội nhưng không biết
cách nào khác.
Tạm
có giải pháp rồi, tôi tất tả đi lo buổi cơm chiều.
Thằng Trình thấy ông nằm yên trên giường thì thôi vòi
vĩnh, nó lê la xuống bếp chơi một mình. Khi tôi mời ba
xuống ăn cơm, ba bảo mệt không thể nào ăn được. Hai
mẹ con buồn bã ngồi ăn với nhau.
Tôi
nấu cho ba nồi cháo, nhưng ba chỉ ăn được một chén
lưng rồi đi ngủ.
Buổi
tối, đưa con vào giường tắt đèn nhưng tôi cứ thao
thức lắng nghe hơi thở mệt nhọc của ba và những tràng
ho dài. Đến quá nửa đêm tôi mới ngủ được.
Sáng
hôm sau, tôi dậy sớm vào buồng thấy ba đang ngủ say,
hơi thở đêu đặn. Tôi viết mấy chữ rồi sang nhờ bác
Sáu xích lô lên Thủ dầu một nhắn cô Ba về gấp.
Khi
tôi hâm xong nồi cháo nấu hồi hôm thì ba thức dậy. Tôi
múc cháo cho ba ăn, nói cho ba biết hôm nay tôi và cô Ba
đưa ba đi nhà thương. Ba không nói gì, ôm ngực ho rồi
lắc lư đi vào giường.
Tôi
chở con đến trường, gởi con lại và xin phép về nhà.
Cô Ba đã ngồi sẵn trong buồng nhìn ba và đợi tôi. Hai
cô cháu thuê xe đưa ba vào bệnh viện Nhân dân Gia định.
Người ta cho ba nhập viện và bắt đầu làm công việc
xét nghiệm. Buổi chiều và đêm, cô Ba ở lại bệnh viện
còn tôi lại trường đón cháu về nhà. Hôm sau tôi đưa
cháu đến trường rồi vào ngay bệnh viện. Hết ngày hôm
đó, việc xét nghiệm vẫn chưa xong. Ba được chích thuốc
gì đó; có lẽ là thuốc trợ lực, nhưng bệnh tình ba cứ
nặng thêm, ho nhiều hơn và bắt đầu rên rỉ vì đau và
tức trong ngực, hơi thở rất nặng nhọc.
Ngày
hôm sau là ngày 29 tháng tư, người ta chuẩn bị cho hai lễ
lớn: “giải phóng miền Nam” và quốc tế lao động. Cờ
xí, biểu ngữ rực rỡ khắp nơi, kể cả trường Mầm
non của bé Trình và trong nhà thương nơi ông ngoại cháu
đang nằm. Như hai ngày trước, tôi đưa cháu đến trường
rồi vội vã đạp xe đến nhà thương.
Cô
Ba đứng ngoài hành lang ra hiệu cho tôi biết bác sĩ đang
khám bệnh . Tôi hơi lấy làm lạ vì hôm nay bác sĩ khám
sớm hơn thường lệ.
Tôi
đang đứng dựa bờ hành lang thì vị bác sĩ vừa khám
xong cho ba tôi, xăm xăm đi tới. Sau khi hỏi và biết tôi
là con của người bệnh mà ông vừa khám, ông nói nho
nhỏ:
-
Có kết quả xét nghiệm rồi. Ông bị ung thư phổi vào
thời kỳ cuối cùng, không hi vọng chút nào.
Tôi
nghe nói thì nước mắt trào ra:
-
Tại tôi đưa ba tôi đến đây quá trễ.
Bác
sĩ lắc đầu với vẻ thương hại:
-
Tôi xin nói cho chị biết, với bệnh nầy đem đến đây
sớm hơn cũng chẳng ích lợi gì. Bây giờ chị hãy bình
tĩnh nghe tôi nói đây. Bệnh của ông trầm trọng lắm
rồi. Ông có thể qua đời trong đêm nay hoặc sáng mai.
Người ta đang bận rộn với hai lễ lớn liên tiếp nên
nếu ông qua đời trong bệnh viện thì thủ tục đưa xác
về có thể rắc rối hơn ngày thường.
Tôi
cố cầm nước mắt, cám ơn bác sĩ và cùng với cô Ba
xin cho ba tôi xuất viện. Cô ba theo xe đưa ba về nhà, còn
tôi tất tả chạy qua nhà trẻ đón thằng Trình.
Khi
tôi về đến nhà, ba đã mệt lắm, thở rất khó khăn
nhưng chưa hôn mê. Mắt ba nhìn lờ đờ nhưng rõ ràng đầu
óc còn sáng suốt. Tôi đặt ba vào giường, kéo chiếc
mền mỏng đắp cho ba. Tôi nghĩ từ ngày mai tôi sẽ không
còn trông thấy ba nằm trên giường nầy nữa. Lòng tôi
thản thốt bấn loạn. Tôi vội đi nhanh xuống bếp, gục
mặt lên vách tường mặc cho hai dòng nước mắt tuôn rơi
lả tả.
Khóc
đã rồi, tôi rửa mặt, lau cho khô ráo, vào buồng của
ba tôi, ngồi xuống chiếc ghế dựa và nhìn ba nằm thiêm
thiếp như đang ngủ say. Bỗng nhiên, ông cựa mình và mở
mắt ra nhìn tôi, miệng mấp máy. Tôi vội rời ghế quỳ
xuống bên giường, lắng nghe giọng ba thì thào:
-
Cháu Trình đâu rồi?
-
Con gởi cháu bên nhà dì Tư Kỳ.
-
Đem cháu về đây cho ba.
Ông
cố gắng nói tiếp:
-
Con đừng sợ, ba đã hỏi kỹ bác sĩ, bệnh của ba không
lây cho ai cả.
Tôi
biết rõ điều đó, bệnh ung thư thì không thể lây qua
sự đụng chạm vơi người bệnh. Tôi lật đật sang nhà
cô Ba Kỳ dẫn bé Trình về, đưa vào buồng, đẩy nhẹ
cháu đến sát giường.
Tôi
kéo tấm khăn xuống chân ba. Ông đưa tay nắm lấy bàn
tay bé Trình. Nhìn bàn nhỏ bé mum múp của đứa cháu
trong bàn tay gầy guộc của ông ngoại, tôi cảm động
quá, lại phải cố gắng ngăn nước mắt.
Ông
nhìn mặt cháu, thì thào:
-
Cháu Trình có thương ông không?
Trình
mếu máo:
-
Có. Con thương ông ngoại lắm.
Ba
tôi mỉm cười, Ôi, nụ cười của người biết mình sắp
lìa trần sao mà hiền lành và đầy vẻ đau thương đến
thế!
Ông
thì thào tiếp:
-
Cháu phải ngoan với mẹ cháu. Thôi cháu đi chơi cho ông
nghỉ.
Tôi
biết đó là lời dặn dò cuối cùng của ông ngoại đối
với đứa cháu vô cùng yêu thương của ông.
Thấy
ba tôi nói chuyện được, cô Ba pha một ly sữa, dùng muỗn
đổ vào miệng ba. Ông không thể nuốt được nên sữa
trào ra khỏi miệng. Cô Ba vội vã dùng khăn ướt lau cho
khô rồi ra ngoài.
Tôi
biết phút lâm chung của ba sắp đến rồi nên quyết định
suốt đêm ngồi bên ba, để khi ba lìa bỏ trần thế thì
có tôi đưa tiễn.
Đến
hai giờ khuya, tôi đang ngủ gục trên ghế thì nghe tiếng
gọi:
-
Hồng Ngọc con.
Tôi
giật mình tỉnh giấc, thấy ba nhìn tôi. Mắt ba không lờ
mờ mà sáng quắc một cách lạ thường. Tôi hoảng hốt
nhớ lại có lần người ta bảo trước khi nhắm mắt
vĩnh viễn thì có người nhìn lại trần gian bằng đôi
mắt sáng quắc.
Tôi
đứng bật dậy, cúi xuống gần mặt ba. Ba cố nén cơn
ho, giọng ngắt khoảng nhưng nghe rõ ràng hơn khi chiều:
-
Sao con không đi ngủ?
Tôi
thổn thức:
-
Không, con muốn ngồi gần ba suốt đêm nay.
Ba
hơi mỉm cười. Đột nhiên, tôi nghe ông hỏi với giọng
ngập ngừng:
-
Mấy năm nay con có được tin thằng Định không?
Tôi
ngạc nhiên buộc miệng hỏi:
-
Ba nói ai?
-
Thằng Định lúc trước đi hỏi con làm vợ, … muốn
cưới con mà không thành…. Không biết nó còn sống hay
không.
Tôi
cố ngăn tiếng nấc. Tôi biết ba sắp đi rồi nên không
giấu ba làm gì.
-
Ba ơi. Anh Định chết rồi.
-
Chết lúc nào?
-
Chết ngay ngày 30 tháng tư năm 1975 ở Lai khê, lúc chận
xe tăng của địch tiến về Sài gòn.
-
Vậy à, tử trận… anh hùng.
Ba
nhắm mắt một lúc rồi mở ra:
-
Con có thờ nó hay không?
-
Con không có tấm hình nào của anh Định nhưng con thờ
anh ấy chung với mẹ và anh Quân.
-
Ừ, vậy là phải…. Ba muốn đốt cho nó một cây nhang….
Con đưa ba ra chỗ bàn thờ đi.
Tôi
hoảng hốt:
-
Nhưng ba còn yếu lắm mà; để vài hôm nữa ba mạnh lại
rồi đốt nhang cho anh Định cũng được.
-
Ba biết không còn dịp nữa đâu…. Con ra gọi cô Ba vào
phụ dìu ba đi.
Tôi vội chạy đi đánh thức
cô Ba. Hai cô cháu hai bên, xốc ba ngồi dậy, định dìu
ba ra trước bàn thờ. Tuy nhiên, ba yếu quá, đầu quẹo
sang một bên; chúng tôi sợ quá, vội đặt ba nằm xuống.
Ba nhắm mắt, cố nén cơn ho, giọng thì thào, nhắc lại
ý định của mình:
- Ba muốn đốt nhang cho
thằng Định.
Giọng cô Ba nghẹn ngào:
- Anh nằm đây. Em đi đốt
một cây nhang đưa cho anh cầm và khấn nó rồi em đem cắm
vào bàn thờ giúp cho anh.
Ba gật đầu bằng lòng.
Cô Ba đi ra một phút rồi
bước vào với cây nhang đang cháy trên tay. Bàn tay ba run
run trong tay tôi, nhận lấy cây nhang đưa lên trán trong
vài giây rồi trả lại cho cô Ba đưa ra cắm vào lư nhang
trên bàn thờ. Ba nhắm mắt lại, miệng hơi mỉm cười,
có vẻ hài lòng vì đã trao tặng cây nhang đầu tiên và
cuối cùng cho linh hồn chàng rể hụt của ba.
Thấy ba nhắm mắt nằm yên,
cô Ba kéo mền lên cho ba rồi đi ra. Tôi cảm thấy rất
mỏi mệt nên ngồi xuống ghế, cố điều hòa hơi thở.
Gần sáng, tôi chợp mắt
được một chút, đến khi thức dậy thì ba tôi không còn
thở nữa. Ba đã ra đi trong im lặng hoàn toàn!
Tôi nhào đến giường úp
mặt vào bàn tay giá lạnh của ba, khóc nức nở.
Đám
tang ba tôi được tiến hành với đầy đủ lễ nghi. Cô
Ba sắp đặt mọi việc. Tôi quá bi thương nên chỉ có
việc nghe lời chỉ bảo của cô mà thôi. Trong hai ngày
quan tài quàng tại nhà, người đi phúng điếu liên tục
ra vào. Hàng xóm, bạn bè cũ ở trường cấp ba, bạn bè
mới ở trường Mầm non, học sinh các lớp tôi làm chủ
nhiệm trước đây đều đến chia buồn. Tôi cảm thấy
được an ủi rất nhiều. Số tiền phúng điếu cũng kha
khá, đủ để trang trải mọi phí tổn. Nhờ đó đời
sống vật chất của hai mẹ con tiếp tục được ổn
định sau khi đưa ba tôi về nơi an nghỉ cuối cùng.
Trong
những ngày tang khó, tôi khóc sưng cả mắt, nhưng nhờ có
đông người nên ít cảm thấy buồn. Xong việc rồi, ai
về nhà nấy, nhà tôi trở nên quá trống vắng, Nhìn cái
bàn trong phòng khách, tôi nhớ ba tôi ngồi uống nước
trà; nhìn cái giường trong buồng, tôi nhớ ba tôi nằm
gác tay lên trán; nhìn vào bếp, tôi nhớ cái lưng khòm
khòm của ba khi cúi xuống thổi lửa; và vô số những
hình ảnh của ba trong căn nhà nầy.
Tôi
được trường Mầm non cho nghỉ mười ngày để lo đám
tang nhưng chưa hết thời hạn, tôi trở lại làm việc
cho vui, ở nhà chỉ có hai mẹ con đi ra đi vào buồn quá.
Công
việc bận rộn với lũ trẻ mẫu giáo làm cho tôi khuây
khỏa, nhưng buổi chiều về đến nhà tôi lại chảy nước
mắt vì nhớ thương ba tôi.
Dần
dà rồi nỗi buồn đau cũng vơi đi. Thời gian là liều
thuốc tiên chữa lành vết thương lòng, người ta đã nói
đúng.
Sắp
tròn một năm sau ngày ba tôi mất, cô Ba đem nhang và một
giỏ trái cây đến rất sớm. Tôi đang chuẩn bị bữa ăn
sáng thì cô gọi cửa.
Bước
vào nhà cô nhìn quanh rồi hỏi với giọng bực tức:
-
Cháu có nhớ hôm nay là ngày giỗ của ba cháu không?
-
Dạ nhớ,
-
Nhớ sao nhà trống trơn vậy nè. Cháu không tính cúng kiến
gì cả sao?
-
Con tính dời lại mười ngày cho đúng vào ngày dương
lịch.
Cô
Ba dậm chân xuống đất:
-
Trời đất, ông nội mẹ ơi! Ai lại đi cúng theo ngày
dương lịch, phải cúng theo ngày âm lịch chớ. Ông bà
mình dạy như vậy, từ xưa nay người Việt Nam mình đều
theo như vậy. Bây giờ tụi bây học theo Tây cái gì cũng
theo dương lịch rồi quên cả gốc gác tổ tiên ông bà
đi. Thôi tao đi về, đừng hòng tao trở lại đây nữa.
Tôi
hoảng hốt, chạy lại nắm tay cô Ba:
-
Thôi con xin lỗi cô Ba. Cô Ba sửa soạn giúp con đi, con
vào trường Mầm non xin phép nghỉ hôm nay rồi chở bé
Trình về ngay. Đây, cô Ba lấy tiền mà đi chợ.
Tôi
định móc bóp thì cô Ba xua tay:
-
Khỏi cần, tao có tiền đây, thôi chở cháu đi nhanh rồi
về đây lo cúng kiến với cô.
Tôi
nắm tay cô:
-
Mà cô hết giận con chưa?
Cô
Ba không trả lời mà cười lỏn lẻn, có vẻ hài lòng
lắm.
Khi
tôi về thì mọi việc đều xong xuôi. Tôi lật đật đi
mời vài nhà hàng xóm rồi lên đèn, đốt nhang cúng vái.
Đến trưa, hai cô cháu dọn dẹp xong thì cô Ba về.
Đúng
mười ngày sau, ngày 30 tháng tư, tôi chính thức làm đám
giỗ. Tôi không dám mời cô Ba và hàng xóm mà mời vài
đồng nghiệp của tôi thôi.
Hôm
nay là ngày lễ lớn, kỷ niệm “giải phóng” miền Nam.
Thành phố rực rỡ với cờ và biểu ngữ. Tất cả công
sở và trường học đều được nghỉ.
Trước
ngày nầy một tháng, sau nhiều đêm thao thức suy nghĩ,
tôi mới đi đến quyết định phá lệ cổ truyền, làm
đám giỗ ba tôi vào ngày mất theo dương lịch. Tôi nhớ
vài giờ trước khi mất, ba tôi đốt cây nhang đầu tiên
và cuối cùng cho anh Định sau khi nghe tôi nói anh đã ra
đi vào ngày định mệnh nầy. Có lẽ giờ nầy hai người
đã sống hòa đồng trên tiên cảnh và ba đã công nhận
anh Định là con rể của mình rồi.
30
tháng tư là ngày định mệnh. Tôi quyết định, kể từ
năm nay, trong ngày định mệnh nầy, có ba cái giỗ cùng
lúc:
Giỗ
thứ nhất dành tưởng nhớ ba tôi, người đã sinh tôi
ra, nuôi cho tôi khôn lớn và chia sẻ vui buồn với tôi
trong suốt nhiều năm sau khi miền Nam sụp đổ.
Giỗ
thứ hai dành tưởng nhớ anh Định, người đã dẫn tôi
vào khu vườn tình yêu diễm lệ, cho tôi biết được sự
rung động của nụ hôn đầu đời.
Giỗ
thứ ba dành tưởng nhớ Việt Nam Cộng hòa, chính thể đã
cung cấp cho tôi tuổi thơ êm đềm, dạy cho tôi kiến
thức nghề nghiệp, lòng ham muốn tự do dân chủ và đạo
lý làm người.
Ngày
định mệnh trở thành ngày kỷ niệm lớn của đời tôi.
Bên ngoài người ta đang làm kỷ niệm một cách “hồ
hởi phấn khởi” thì trong nhà tôi cũng làm kỷ niệm
với nỗi buồn và thương nhớ khôn nguôi.
*
*
*
Năm
học cũ kết thúc rồi năm học mới bắt đầu. Cháu
Trình lên lớp Lá, lớp mẫu giáo lớn nhất trong trường.
Cháu rất ngoan, các cô nuôi dạy trẻ và hàng xóm ai cũng
khen. Tôi rất hãnh diện về cháu. Nghĩ cuộc đời cũng
lạ. Cháu được sinh ra từ nỗi bất hạnh lớn nhất của
tôi, nay lại trở thành nguồn sống vui lớn nhất của
tôi. Lắm khi thấy cháu không có cha, trong khi mỗi buổi
chiều, hầu hết những đứa trẻ khác được cha đón
về, tôi nghe xót xa trong lòng.
Từ
khi chia tay đến nay, tôi không hề gặp và cũng không hề
nghe tin tức anh Thành, cha của con tôi. Tôi đã làm vợ
của anh ấy nhưng thực lòng chưa yêu anh ấy dù đêm đêm
buộc phải ân ái với anh. Nhưng tôi biết anh thực lòng
yêu tôi, chắc chắn yêu hơn cái mụ vợ hung dữ và đanh
đá ở quê nhà. Không yêu anh và như được giải thoát
khi chia tay, nhưng nhớ đến mối tình thắm thiết của
anh đối với tôi, đôi khi tôi cũng ngậm ngùi.
Một
buổi chiều, hai mẹ con về đến cổng, chưa kịp vào nhà
thì dì Tư Kỳ vội vã chạy sang nói:
-
Cô Ngọc ơi, sáng nay có một ông ăn mặc sang trọng đến
tìm cô mà không gặp nên sang nhà tôi hỏi đúng tên cô.
Tôi bảo cô Ngọc đi làm dẫn con nhỏ theo, chiều mới
về. Nghe tôi nói cô có con nhỏ, ông ấy có vẻ chú ý,
hỏi tôi chồng của cô cũng đang đi làm phải không? Tôi
nói cô không có chồng. Ông ấy ngạc nhiên hỏi vậy chớ
con nhỏ đó là con ai. Tôi nói con của cô. Người ta lấy
cô có con rồi bỏ. Ý, mà xin lỗi cô, cái tính của tôi
là có sao nói vậy, cô đừng phiền nghe.
Tôi
thản nhiên:
-
Có gì đâu mà phiền dì Tư. Chuyện đúng như vậy, đầu
trên xóm dưới ai cũng biết mà.
-
Ừa, tôi đâu có biết nói láo, có sao nói vậy mà.
Tôi
gật đầu, cười một cái cho dì Tư yên tâm:
-
Dì Tư nói tôi bị chồng bỏ thì cái ông nào đó có lời
chia buồn với tôi không?
Dì
Tư xua tay lia lịa:
-
Ngược lại là đằng khác, ổng nghe xong mặt mày tươi
rói; nhìn thì tôi biết ông ấy rất “hổ hởi phấn
khởi”.
Tôi
ráng nín cười hỏi tiếp:
-
Mà ông ấy là ai, tên gì?
-
Đây nè, có cái thiệp ông ấy để lại, bảo trao cho cô.
Dì
Tư vội vã móc túi đưa ra một miếng bìa cứng. Đó là
cái carte de visite,
in tiếng Pháp: “Kỹ sư Phan huy Hà, công ty xây dựng
Eiffel, Paris”. Mặt sau có mấy chữ viết tay bằng tiếng
Việt: “Tôi sẽ trở lại thăm vous
vào sáng chúa nhật sắp tới”.
Đọc
xong, tôi cố suy nghĩ và chắc chắn mình không có người
quen nào trên Phan Huy Hà cả. Vậy thì cái ông Hà nầy đến
tìm tôi để làm gì. Hay là ông ta muốn nhờ cậy tôi xin
cho con hay cháu vào nhà trẻ hay mẫu giáo. Thôi thì cứ
chờ đến chúa nhật thì biết. Hôm nay mới thứ sáu, còn
hai ngày nữa.
Tôi
cám ơn dì Tư rồi dắt xe đạp vào, con tôi vẫn còn ngồi
trên yên sau.
Sáng
chúa nhật, tôi quên mất cái hẹn, đang lui cui dọn dẹp
thì có tiếng gọi cửa. Bây giờ tôi mới sực nhớ đến
cái ông Hà nào đó nên vội vàng ra mở cổng. Trước mặt
tôi là một người ăn mặc bảnh bao, khoảng hơn ba mươi
tuổi. Tôi thầm nghĩ: “Đúng là dân Parisien rồi”. Tôi
mở cổng và hỏi:
-
Xin lỗi, ông có phải là….
-
Vâng, tôi là Phan Huy Hà.
-
Xin mời ông vào.
Tới
phòng khách tôi mời ông ngồi ghế và tôi ngồi đối
diện với ông. Ông nhìn tôi chăm chú rồi lên tiếng:
-
Vous
không khác xưa nhiều lắm. Có lẽ chị không nhớ tôi.
Tôi
lắc đầu:
-
Xin lỗi ông.
-
Tôi xin tự giới thiệu. Mười năm trước, tôi là thiếu
úy Phan huy Hà, bạn rất thân của thiếu úy Nguyễn văn
Định, ở bộ Tư lệnh sư đoàn Năm, đóng tại Lai khê.
Tôi
nghe choáng váng mặt mày, gần hụt hơi; cố gắng lắm
mới thì thầm được câu nói:
-
Tôi nhớ rồi. Lúc đó anh đến báo tin anh Định tử trận
vì đạn đại bác của quân thù phải không?
-
Vâng đúng vậy.
Bỗng
dưng quá khứ ào ạt trở về, tôi cố gắng không bật
khóc trước mặt người bạn thân của chồng chưa cưới,
nhưng mắt tôi hoa đi, đầu óc váng vất. Giọng Hà thân
mật:
-
Tôi còn nhớ rõ con đường dẫn vào đây và giàn bông
giấy tím ngát rước cổng nhà chị. Nhà cửa, đường đi
vẫn như xưa, chẳng có gì thay đổi nên tôi tìm được
nhà không mấy khó khăn. Tôi nhớ lúc đó có bác gái ở
nhà.
Tôi
thở dài:
-
Mẹ tôi mất rồi.
-
Tôi xin chia buồn trễ với chị.
-
Cám ơn anh. Anh qua Pháp từ lúc nào?
-
Hai ngày sau khi đến đây báo tin Định qua đời, tôi
xuống ghe đánh cá ra khơi. Lúc đó cộng sản Bắc Việt
đang lo việc chiếm đóng trên bộ nên đường thủy bị
bỏ ngỏ, ghe chở người trốn thoát được dễ dàng. Tôi
được vớt ngoài hải phận quốc tế và được định
cư tại Pháp.
-
Anh về đây lúc nào?
-
Tôi xuống phi trường sáng thứ năm, thứ sáu đến đây
tìm chị và hôm nay mới được gặp.
-
Tôi nghe nói người bỏ trốn bị lên án là phản quốc
nên xin được phép về Việt Nam khó khăn lắm.
-Tôi
nhờ người quen ở hội Việt kiều yêu nước tại Paris,
nhận tôi là hội viên của cái hội quỷ quái đó. Nhờ
vậy, tôi xin được tờ giấy nhập cảnh của tòa đại
sứ Việt cộng.
-
Anh về để thăm gia đình?
-
Vâng, tôi về thăm gia đình mà cũng có mục đích khác
nữa. Do đó, xuống phi trường, lo chỗ ở tại khách sạn
xong thì hôm sau tôi đến đây, chị bận đi làm tôi không
gặp được nên vội vã về nhà cha mẹ tôi.
-
Ông bà ở đâu?
-
Tại Giồng trôm tỉnh Kiến hòa, tức là Bến tre. Ở đó
chơi hai ngày, sáng sớm nay, vội vã về Sài gòn để đến
tìm chị, cứ lo không được gặp. May quá hôm nay được
thấy mặt chị.
Tôi
thực ngạc nhiên và hơi hoang mang khi nghe ông Việt kiều
nầy cứ nhắc đi, nhắc lại chuyện đến tìm gặp tôi.
Có lẽ, anh nầy là bạn thân của Định nên nghĩ rằng
tôi còn giữ kỷ vật nào đó của Định có liên quan đến
anh ta. Nhưng tôi có giữ kỷ vật nào của anh Định đâu
ngoài nỗi thương nhớ.
Đang
suy nghĩ miên man, tôi giật mình vì tiếng nói của Hà:
-
Chị có cho rằng sự thành thực luôn luôn đáng quý
không?
Bỗng
nhiên Hà đổi đề tài làm tôi không hiểu anh muốn nói
gì. Thấy tôi ngơ ngác, Hà lặp lại câu hỏi:
-
Nếu người khác nói ra một sự thực có thể làm phiền
lòng hay không?
Tôi
lắc đầu:
-
Không, sự thực bao giờ cũng đáng quý. Tôi đã tốt
nghiệp đại học Sư phạm Sài gòn và tôi có nhiều năm
dạy văn học. Tôi thường nói với học sinh rằng trong
ba tiêu chuẩn đạo đức thì chân
đứng đầu, sau đó mới tới thiện
và mỹ.
Sự thành thật luôn luôn quý, trong bất cứ trường hợp
nào.
-
Cám ơn chị, tôi sẽ trình bày sự thật ngay hôm nay. Tôi
chỉ lưu lại ở Việt nam đúng mười ngày, nên cái việc
tôi đã ấp ủ cả mười năm nay phải được giải quyết
dứt khoát. Nhưng trước khi trình bày sự thực của tôi
thì tôi cũng xin phép chị cho tôi biết một vài sự thực
của chị trong mười năn vừa qua, xin chị đừng cho tôi
là bất nhã.
-
Không sao, anh đừng ngại. Anh đã là chiến hữu của anh
Định thì tôi tự nghĩ nên thành thực với anh. Anh muốn
biết điều gì xin anh cứ nói.
Hà
ngần ngừ một chút rồi đột ngột hỏi:
-
Chị lấy chồng trong trường hợp nào?
Tôi
hơi ngạc nhiên vì câu hỏi khá sỗ sàng. Tại sao một
người bạn của Định lại muốn biết điều nầy. Ý
nghĩ đó làm tôi rơi vào cảm giác phiền muộn, cứ như
mình có lỗi với người xưa. Tôi im lặng một phút rồi
chậm rãi nói:
-
Tôi bị người ta lừa gạt.
Hà
nhìn tôi, khẽ nhíu mày:
-
Nhưng chị có yêu ông ấy chứ?
-
Không yêu tí nào.
Hà
hỏi lại:
-
Chị không yêu tí nào? Nhưng chị vẫn lấy ông ấy?
Tôi
thở dài, gật đầu. Hình ảnh ốm yếu của ba tôi hiện
ra trước mắt, mỗi buổi chiều ông đứng dưới giàn
bông giấy lo lắng chờ tôi với thằng Trình về. Tôi đưa
tay lên chặm mắt:
-
Tôi lấy anh ta vì hoàn cảnh lúc đó, vì muốn có chỗ
nương tựa, mà tôi lại không suy nghĩ cặn kẽ.
Hà
gật gù:
-
Nhưng tại sao hai người chia tay?
-
Tôi đã nói tôi bị lừa gạt. Anh ta đã có vợ và ba con
ở tại Cao bằng và vào đây công tác. Nhưng anh ta đã
nói dối với cha con tôi là còn độc thân rồi cẩn thận
đi làm hôn thú với tôi nữa. Chị vợ hay tin lặn lội
vào đây đánh ghen. Tôi phải hối lộ mới yên.
-
Hối lộ cái gì?
-
Chiếc Honda của anh ruột tôi để lại trước khi đi vào
chỗ chết. Chị ấy rinh cả chiếc Honda và ông chồng về
Bắc rồi bặt tin luôn đến bây giờ.
Hà
bật cười:
-
Tôi hiểu người Bắc vào đây thì mê xe gắn máy lắm.
Chiếc xe là cả gia tài của họ. Chị có một đứa con
với ông ấy?
Tôi
xoa đầu con tôi đang đứng ở gần:
-
Vâng, cháu Trình đây.
-
Cám ơn chị, tôi hiểu cả rồi.
Tôi
mỉm cười, trong lòng vui vui khi cảm thấy dường như sự
thân mật bắt đầu xuất hiện giữa tôi và người bạn
thân thiết xưa kia của người yêu cũ. Tôi nhìn vào mắt
anh và hỏi:
-
Bây giờ đến sự thực của anh. Anh cho phép tôi hỏi
chứ?
Hà
cười gật đầu:
-
Dĩ nhiên, mình đã thỏa thuận rồi mà. Xin chị cứ hỏi.
-
Kỳ nầy anh về có chị và các theo về không?
-
Không, tôi về một mình. Hiện tại tôi không có vợ con
gì cả.
Tôi
hơi ngạc nhiên nên hỏi tiếp:
-
Từ khi được định cư tới nay, anh vẫn sống độc thân
à?
-
Không. Qua Pháp, tôi đi học lấy được bằng kỹ sư
xong, có việc làm thì tôi cưới vợ. Được một năm,
chúng tôi ly dị mà chưa kịp có con, cũng may.
-
Tại sao anh chị ly dị?
-
Hai đứa không hợp tính nhau, chuyện vợ chồng nhạt
nhẽo, chán phèo.
Tôi
hỏi đùa:
-
Đó là tất cả sự thực mà anh muốn nói phải không?
Hà
vội xua tay:
-
Không phải. Điều mà tôi muốn nói với chị không phải
như thế.
-
Xin anh cứ nói, tôi sẵn sàng nghe.
-
Chị có nhớ buổi sáng ngày 2, tháng năm, 1975 không?
Tôi
nhíu mày suy nghĩ:
-
Tôi không nhớ đó là ngày gì.
-
Ngày tôi đến gặp chị và hai bác để báo tin anh Định
hi sinh. Lúc đó chị đang đau khổ nên không để ý đến
tôi chút nào. Tôi thì ngược lại, tôi bị tiếng sét ái
tình đánh ngay lúc đó.
Tôi
trố mắt nhìn Hà rồi bỗng nhiên bật cười:
-
Tôi nhớ lá thư tỏ tình đầu tiên mà anh Định gởi tôi
cũng nói bị sét đánh ngay lần đầu tiên gặp tôi. Có
lẽ ông chồng mà tôi đã chia tay cũng thế.
Hà
gật đầu:
-
Thanh niên gặp chị bị tiếng sét đánh trúng thì cũng
thường thôi.
Tôi
thấy vui vui:
-
Anh nói đùa thật có duyên. Thế thì có lẽ tiền kiếp
của tôi là thiên lôi, được trời phái xuống trần làm
kiếp con gái đàn bà để đánh mấy ông thanh niên.
Hà
bỗng nghiêm mặt nhìn tôi:
-
Không. Tôi không nói đùa. Tôi đang nói thật.
Tôi
thấy má mình nóng lên:
-
Chẳng lẽ tiếng sét đó vẫn còn chút âm hưởng trong
lòng anh?
-
Mười năm rồi mà tôi vẫn lao đao vì nó. Ngay từ khi
nhận giấy nhập cảnh của tòa đại sứ Việt Nam tại
Paris, tôi cứ cầu mong về đây được gặp chị. Cầu
mong chị chấp thuận cho tôi bảo lãnh chị qua Pháp.
Tôi
sửng sốt nhìn anh, giọng lạc hẳn đi:
-
Chỉ gặp nhau có một lần, làm sao anh dám tin có thể đi
cùng tôi suốt cả cuộc đời?
-
Tôi yêu chị từ trong những ngày tháng làm bạn với
Định. Những buổi chiều trong cư xá sĩ quan ngồi đốt
thuốc nhìn Định đọc thư chị. Đêm đêm, trên tiền
đồn nghe Định kể về chị. Cận kề cái chết nghe Định
nhắc tên chị.
Tôi
run run ngắt lời:
-
Anh Định có nhắc đến tôi trước khi tử trận sao?
Hà
chậm rãi gật đầu:
-
Chuyện này tôi có kể cho mẹ chị rồi. Khi quân xa của
địch kéo vào phòng tuyến, Định còn quay sang tôi dặn
dò lần cuối: "Nếu tao chết, mày về gặp Ngọc, nói
là tao yêu Ngọc".
Tôi
nghe như có ai đâm một nhát vào tim mình. Nỗi đau mười
năm vẫn còn nguyên vẹn đó, dù nét mặt người yêu đã
nhạt mờ trong ký ức. Tôi ôm ngực, mắt nhòa đi.
Hai
đứa ngồi yên bên nhau rất lâu, mỗi người theo đuổi
mối suy tư của mình. Cho đến khi thằng Trình chạy đến
nắm áo tôi:
-
Mẹ ơi. Con đói bụng rồi.
Tôi
rưng rưng nước mắt xoa đầu con:
-
Ừ, Trình vô phòng dọn dẹp đồ chơi, rồi mẹ lấy cơm
cho con ăn.
Thằng
Trình hôn lên mu bàn tay tôi một cái "chụt" rồi
vui vẻ chạy vào phòng, miệng hát líu lo. Tôi quay sang
nhìn thẳng vào mắt Hà, chậm rãi nói:
-
Cuộc đời tôi chỉ có một mối tình dành cho anh Định.
Sau khi cuộc hôn nhân không tình yêu đổ vỡ, lòng tôi
rất chán ngán chuyện lập gia đình. Bây giờ, tôi chỉ
muốn sống độc thân để nuôi nấng, dạy dỗ con tôi
cho nên người.
Hà
thở dài, giọng buồn bã:
-
Tôi cũng đoán là mình không có hy vọng gì chiếm được
một chỗ trong trái tim của chị.
Tôi
lắc đầu, nói nhỏ:
-
Nhưng trong trái tim của anh cũng không có chỗ cho tôi.
Hà
nhìn tôi ngỡ ngàng:
-
Chị nói vậy nghĩa là sao?
-
Tôi không nằm trong trái tim của anh. Tôi nằm trong quá
khứ của anh. Một quá khứ đẹp đẽ, dang dở mà anh vô
cùng yêu thương. Có lẽ, vì vậy mà anh trở lại đây,
để tìm lại một phần quá khứ đã mất.
Anh
im lặng, nhìn một lúc ra bầu trời bên ngoài cửa sổ.
Tôi cũng im lặng, thấy lòng nhớ nhung quay quắt những
ngày tháng êm đềm và đẹp đẽ xa xưa. Mãi rồi Hà mới
cất giọng, nói với tôi một cách trìu mến:
-
Chị cho tôi bàn với chị một vấn đề khác. Tôi làm
việc này vì Định, vì lời hứa với bạn tôi.
Tôi
nhìn anh chăm chú:
-
Xin anh cứ nói.
-
Tôi về quê gặp nhiều người nói chán ghét cái chế độ
hiện tại và ước muốn được định cư ở nước
ngoài. Ở giới trí thức thì ước muốn đó càng mãnh
liệt hơn. Họ tưởng nhớ nền tự do đã mất và căm
ghét cái xã hội độc tài đảng trị hiện nay. Chị là
người trí thức lại mang nhiều suy tư, tôi nghĩ chị
cũng có tâm trạng đó. Nếu chị đồng ý, tôi sẽ tìm
cách nào khác đưa chị và cháu bé ra định cư ở nước
ngoài.
Tôi
lắc đầu:
-
Cám ơn anh. Dù tôi thương yêu vô cùng vô tận nếp sống
tự do xưa kia của chế độ Cộng hòa, tôi vẫn không có
ý định bỏ quê hương nầy mà đi đâu. Tôi không nỡ
rời nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
-
Nhưng họ đã chiếm mất quê hương của chị rồi mà.
-
Không, quê hương vẫn còn nguyên vẹn. Họ chỉ đặt nền
cai trị độc tài lên người dân thôi. Tôi nhớ lúc còn
đi học sư phạm, tôi rất thích một câu thơ Đường
trong bài Xuân vọng của Đỗ Phủ.
-
Câu thơ thế nào?
-
Quốc phá sơn hà
tại, nghĩa là nước
mất nhưng sông núi vẫn còn đó.
Hà
nhìn tôi sững sờ rồi lẩm bẩm:
-
Nước mất nhưng sông núi vẫn còn đó. Cảm ơn chị.
Nhiều người ở nước ngoài biết chuyện tôi trở về,
họ lên án tôi rất nặng nề. Bây giờ thì tôi hiểu rõ,
tại vì sao con tim vẫn cứ thôi thúc tôi tìm về quê
hương. Núi sông mình vẫn còn ở đó.
Hà
lại nhìn tôi đăm đăm:
-
Nhưng tôi thật lòng xót xa khi thấy chị đã đau khổ quá
nhiều mà nay vẫn tiếp tục đau khổ trong chế độ khắc
nghiệt nầy.
-
Đúng là tôi đã vô cùng đau khổ, nhưng đời tôi đâu
phải chỉ có đau khổ. Còn có hạnh phúc nữa chứ. Trước
1975, tôi có một tuổi thơ vô cùng hạnh phúc, với gia
đình, với học đường, với tình yêu. Tôi chỉ đau khổ
kể từ 30 tháng tư 1975 trở đi. Cách nay vài năm tôi đã
tìm lại được nguồn hạnh phúc.
Hà
có vẻ ngạc nhiên:
-
Bây giờ chị hạnh phúc thực à?
-
Vâng hạnh phúc thật vì tôi đã khôn ngoan biết giới hạn
tầm nhìn và phạm vi suy tư của mình lại.
-
Thế nào là giới hạn tầm nhìn?
-
Tôi chỉ nhìn con tôi cùng những đứa trẻ trong trường
Mầm non mà tôi đang làm việc. Những đứa trẻ dễ
thương trong trường đều gọi tôi là má Ngọc. Mỗi khi
tôi đến lớp là chúng reo hò mừng rỡ chạy đến ôm
tôi. Thế là hạnh phúc. Tôi biết ngoài xã hội nhân dân
đang rên siết vì bọn tham nhũng, bọn ngu si dốt nát, tàn
ác vô lương đang ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.
Nhưng tôi tránh nhìn những cảnh xấu xa đó nên tôi khỏi
phải đau khổ. Đó là giới hạn tầm nhìn.
Hà
gật gù cười:
-
Còn giới hạn phạm vi suy tư?
-
Tôi chỉ nghĩ đến những việc rất tầm thường, như
đêm nằm nghĩ đến hũ gạo của mình chưa cạn, nghĩ đến
ngày mai có thể mua bó rau muống, một mớ cá kèo về kho
cho con ăn. Vậy là hơn rất nhiều những người đang chết
đói ở các bộ lạc bên Phi châu. Thế là tôi có hạnh
phúc. Tôi tránh suy nghĩ đến tự do, nhất là tự do tư
tưởng, thì tránh được đau khổ.
Hà
dịu dàng bảo:
-
Bây giờ tôi vẫn tiếc vì không lấy được một người
phụ nữ như chị. Trong hoàn cảnh bi đát này mà chị vẫn
lạc quan, vẫn tìm cách đưa ra những lý giải hài hước
và ngoan đồng.
Tôi
lại cười vui với Hà, lâu lắm rồi tôi mới lại cười
vui như vậy:
-
Chắc anh định nói là ngoan cố?
Hà
cũng sảng khoái:
-
Không. Tôi nói ngoan đồng. Ngoan đồng là đứa trẻ bướng
bỉnh. Thôi, bây giờ tôi xin tạm biệt chị. Nói là tạm
biệt cho lịch sự chứ tôi nghĩ rằng mình khó có dịp
trở lại ngôi nhà nầy lần nữa. Trước khi đi, tôi muốn
thưa với chị điều nầy. Ngày trước, tôi và Định là
đôi bạn chí thân. Ở trường Võ bị, tôi và nó cùng
đại đội. Ở bộ tư lệnh sư đoàn Năm, tôi và nó làm
việc và cư ngụ cùng phòng. Tôi và nó thường chia nhau
điếu thuốc trên bãi tập của quân trường, trong chiến
hào của tuyến phòng thủ. Chúng tôi chia nhau cả những
ước mơ về tương lai, về một quê hương hòa bình. Suốt
mười năm nay tôi giữ mãi lời hứa với nó, dù rằng
tôi đã tìm gặp chị để báo tin, nhưng trong lòng tôi
vẫn còn day dứt chưa yên.
Hà
móc bóp lấy ra một xấp tiền, gồm nhiều tờ một trăm
đô la. Anh đặt xấp tiền lên bàn và nói:
-
Xin chị hãy vui lòng giữ lấy để mua quà cho cháu và sắm
sửa thêm vài món trong nhà. Khi nãy, bước vào đây, tôi
thấy cảnh nghèo nàn của chị thì xót xa lắm.
Tôi
trố mắt nhìn món tiền quá lớn trên bàn, nói lắp bắp:
-
Không, không, anh cất đi , tôi không dám nhận đâu.
Hà
lấy cuốn sách dằn lên xấp bạc cho khỏi bị gió thổi
bay:
-
Thôi chị đừng từ chối nữa. Chị hãy vui lòng cho tôi
được đền đáp chút đỉnh tình bạn xưa cũ của tôi
đối với Định. Lẽ ra cuộc đời của nó xứng đáng
nhận được nhiều thứ.
Nói
xong, Hà đứng dậy, ngập ngừng:
-
Chị có thể cho tôi hôn tay chị trước khi từ biệt được
không?
Tôi
đứng dậy, cất tay lên về phía Hà. Anh trịnh trọng
nâng bàn tay tôi lên hôn nhẹ lên chỗ thằng Trình vừa
hôn, rồi thả ra. Anh xoay mình bước ra cửa. Tôi vẫn
đứng yên như trời trồng, nghe tiếng cánh cổng mở ra
rồi đóng lại. Mấy phút sau, tôi bừng tỉnh chạy ra thì
anh đã đi mất rồi. Tôi hớt hải trở vào nhà đi tìm
con tôi. Lúc nãy nó đứng bên tôi than đói bụng, mà tôi
thì ham chuyện trò. Tôi chạy xuống bếp thì thấy nó
đang ngồi dưới đất, vuốt ve con mèo tam thể.
*
*
*
Với
món tiền mà Hà để lại gồm 800 đô la, tôi mua một
chiếc Honda dame cũ nhưng máy còn khá tốt, nhiều món đồ
chơi mà bé Trình mơ ước từ lâu, sắm vài bộ áo quần
cho hai mẹ con. Số tiền còn lại tôi cất kỹ phòng khi
thắt ngặt.
Tới
đây tôi nghĩ rằng chấm dứt tập hồi ký nầy là vừa
vì từ bữa gặp Hà đến nay, đời sống mẹ con tôi bình
lặng chẳng có gì đáng để ghi lại. Cuộc sống của mẹ
con tôi và đa số cư dân ở thành phố càng ngày càng dễ
thở nhờ chủ trương của đảng và nhà nước gọi là
“đổi mới”.
Lúc
đầu tôi không hiểu ý nghĩa thực tiễn của hai chữ
“đổi mới”. Dần dần hiểu ra tôi cứ cười thầm
trong bụng. Sau một thời gian dài bóp nghẹt cổ làm cho
mấy chục triệu dân giãy chết, đảng và nhà nước nới
tay cho dân chúng tự do sản xuất và đi lại kiếm ăn,
hàng hóa được lưu thông, thương gia được phép hành
nghề, vân vân. Những thứ đó thì quá thông thường với
miền Nam dưới chính thể Cộng hòa và cả ở thời kỳ
Pháp thuộc nữa. Thế thì đó là phần nào trở lại cái
xưa cái cũ, sao gọi là đổi mới?
Tôi
còn nhớ, sau năm 1975, người ta rầm rộ tuyên bố chủ
trương “đổi đời”. Lúc đó mới đáng gọi là đổi
đời thực sự; đổi từ cuộc đời bình thường sang
cuộc đời khốn khổ.
CHẤM
DỨT HỒI KÝ.
Sài
gòn, mùa xuân 2009