Tôi
vùi đầu vào sách vở. Cuối năm học, tôi xuất sắc
vượt qua kỳ thi tú tài rồi đậu hạng nhì trong kỳ thi
tuyển vào Đại học Sư phạm. Đúng vào cái hôm đi xem
kết quả về, mẹ trao cho tôi một phong thư đã bóc và
bảo:
-
Thư của cậu Định, con đọc đi.
Tôi
ngạc nhiên đến sửng sốt. Từ nhiều tháng nay, lao vào
học tập, tôi không còn nhớ đến người con trai đó
nữa. Mẹ dúi phong thư khá dày vào tay tôi. Tôi vào phòng,
thay áo quần rồi ngồi vào ghế, nhìn những hàng chữ
nắn nót ngoài bao thư và thủng thẳng rút ra hai tờ giấy
đầy chữ bên trong.
Đà
lạt, ngày ….
Kính
thưa hai bác,
Thực
là đường đột khi cháu viết thư nầy đến hai bác. Từ
gần hai năm nay, kể từ khi khoác áo nhà binh, trải qua
những ngày tháng khắc khổ ở quân trường, cháu đã
viết nhiều thư cho bạn bè. Cuộc sống ở đây rất khác
với cuộc sống bên ngoài vì mọi hoạt động hằng ngày
đều nằm trong khung khổ của kỷ luật sắt.
Tâm
lý thông thường của con người là khi phải chấp nhận
một nếp sống khác hẳn thì người ta thích viết thư và
gởi đi để nói lên sự thay đổi toàn diện, từ sinh
hoạt đến ý nghĩ thầm kín nhất của mình về cuộc
đời. Sự bộc bạch nầy rất cần thiết cho đến đỗi
nó không còn chỉ là sự vui thích nữa mà trở thành một
nhu cầu thiết yếu, không làm không được, nhất là đối
với những người trẻ hay suy tư mà sự chứng kiến
những thay đổi chính là sự khám phá mới trong cuộc
đời. Cháu là một trong những đứa trẻ như thế. Vì
vậy, cháu đã viết khá nhiều thư, tất cả đều gởi
cho bạn bè và cháu chưa bao giờ nhận được thư hồi
âm.
Cháu
không trách bạn bè vì họ đang duy trì nếp sống bình an
trong một đất nước ngập lửa chiến tranh. Nơi cháu
đang sống chưa phải là chiến tranh, nhưng sự chuẩn bị
lao vào cuộc chiến tràn ngập mọi ngóc ngách của sinh
hoạt hằng ngày. Các sĩ quan thường nói câu: “Si vis
pacem, para bellum”, nghĩa là muốn sống trong hòa bình, cần
phải chuẩn bị chiến tranh. Tụi cháu cũng quen miệng,
nhắc đi nhắc lại câu nầy. Mỗi lần nhắc như thế,
cháu lại thấy vừa xót xa, vừa bừng bừng khí thế làm
trai. Cả một khối nhân dân miền Nam đều mong muốn sống
trong hòa bình, nhưng người cộng sản lại gây ra cuộc
chiến tranh tàn khốc nầy nên bọn thanh niên chúng cháu
phải đem mạng sống mình ra cố giành giật lấy nền hòa
bình mà cộng sản đang giẫm nát.
Đó,
tâm tình bọn cháu là như thế và cháu thèm muốn nói với
những người đang sống yên ổn trong các thành phố rằng
tụi cháu đang hi sinh tuổi trẻ của mình để giữ gìn
sự yên ổn đó cho họ. Nhưng khi cháu có dịp nói điều
đó cho bạn bè thì chẳng ai xúc động. Có người còn
cười cợt bảo rằng cháu nói rặt giọng tuyên truyền
của tâm lý chiến. Thực là đáng buồn. Bạn bè cháu đều
là những người có học và đều ít nhiều hiểu nguyên
nhân của cuộc chiến tranh nầy chính là bản chất xâm
lược và bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, nhưng
ai cũng muốn đứng ngoài cuộc chiến để hưởng thụ
được ngày nào hay ngày đó. Do đó, họ tránh nghe sự
thực trên đây để khỏi bị mặc cảm trốn tránh trách
nhiệm khi đất nước đang tiếp tục bị Đệ Tam quốc
tế xâm lăng.
Vì
lý do đó, phần lớn anh em đồng ngũ của cháu thích viết
thư về gia đình hơn là cho bạn bè. Ở người thân,
chúng cháu dễ nhận sự đồng cảm hơn ở bạn bè. Trong
nhà, khi có một đứa con bị gọi vào quân ngũ là trước
mặt mọi người hiện ra lò lửa chiến tranh hừng hực
cháy, tỏa sức nóng đến đỗi làm rát cả tâm can họ.
Mẹ cháu có lẽ cũng có tâm trạng như thế. Tuy nhiên bà
không có thói quen suy tư. Mẹ cháu bỏ học quá sớm, ở
nhà lo việc đồng áng và sau đó đi lấy chồng. Cha ghẻ
cháu thì từ lâu đã thành dân nhà binh chuyên nghiệp nên
không còn quan tâm đến nỗi lòng của lớp trẻ vừa mới
bước vào guồng máy chiến tranh.
Kể
từ hôm đến nhà bác –nhất là buổi được tiếp
chuyện với bác gái, khi cháu đến xin từ giã để trở
về quân trường – bỗng nhiên cháu ước ao có một phép
mầu nào đó biến cháu thành người thân của gia đình
bác để mỗi khi có nỗi ưu tư nào đó xuất hiện trong
lòng thì cháu có nơi để gởi gắm.
Cháu
mong rằng những điều cháu vừa trình bày có thể biện
minh cho tội đường đột viết lá thư nầy gởi hai bác.
Cháu không dám chờ đợi sự hồi âm của bác nhưng nếu
điều đó xảy ra thì cháu sẽ vui mừng biết bao.
Kính
chúc hai bác và cô Ngọc luôn luôn mạnh khỏe.
Cháu
Nguyễn
văn Định.
Đọc
xong thư, tôi rất cảm động. Tôi ngồi ngẩn ngơ vài
phút rồi xếp thư lại cẩn thận cho vào bao và trao lại
cho mẹ tôi. Tôi nhìn mẹ, mỉm cười, muốn biết cảm
tưởng của mẹ về lá thư nhưng không tiện hỏi. Hiểu
ý, mẹ vào đề ngay:
-
Cậu Định là người tốt, biết suy nghĩ, và có thể
diễn tả ý nghĩ của mình một cách trôi chảy và gây
được xúc động nơi người đọc.
Quả
thực tôi cũng đang xúc động nhưng muốn che giấu lòng
mình nên nói một câu khôi hài:
-
Rất tiếc, khi viết thư, anh Định quên chừa một hàng
trống bên trên có hàng chữ: “Lời
phê của giáo sư”.
Nếu có ô nầy thì mẹ sẽ ghi vào ngay lời phê mà mẹ
vừa nói xong.
Mẹ
vừa cười, vừa đưa tay cốc nhẹ vào đầu tôi:
-
Con nhỏ nầy dám chọc ghẹo cả mẹ nó nữa. Biết suy
nghĩ và có khả năng trình bày như cậu Định mà không
được tiếp tục học Văn khoa là điều thực đáng tiếc.
Tôi
nghĩ đến lời cầu mong ở cuối lá thư nên hỏi mẹ:
-
Theo mẹ thì có nên phúc đáp thư cho anh Định không?
Mẹ
trả lời ngay:
-
Nên chứ. Tâm hồn nó cô đơn và cần nơi nương tựa.
Thấy nó, mẹ cũng thương vì nhớ tới anh Quân của con.
Giọng
mẹ như nghẹn lại. Tôi cũng cảm thấy nước mắt sắp
trào ra khi nhắc đến anh Quân. Mẹ thở dài, nói nho nhỏ
như chỉ để cho mình nghe:
-
Cuộc chiến tranh nầy đang đày đọa hai thế hệ. Không
biết nó còn đày đọa bao nhiêu thế hệ nữa.
Lời
than thở nầy tôi đã nghe nhiều lần từ miệng mẹ và
từ lâu đã hiểu rằng cuộc chiến tranh xâm lược của
cộng sản đã gây quá nhiều đau khổ cho những người
mẹ Việt Nam.
Hôm
sau, mẹ tôi phúc đáp thư cho anh Định. Bà đưa lá thư
đã được dán kín bảo tôi ghé mua tem dán lên rồi bỏ
vào thùng thư trên đường đi học. Bỗng dưng tôi tò mò
muốn biết mẹ viết gì cho anh Định nhưng không dám hỏi.
Tuy nhiên, bà đoán biết ý muốn của tôi. Trong bao nhiêu
năm dạy học bà đã quen đọc được tư tưởng qua cái
nhìn hay cử chỉ của học trò. Tôi, đứa con gái cưng
duy nhất của bà, lại càng khó dấu bất cứ điều gì
trong tâm hồn tôi. Bà bảo:
-
Mẹ chỉ an ủi nó thôi và khuyên nó nên can đảm chấp
nhận thân phận con người.
-
Tại sao mẹ nói chấp nhận thân phận con người mà không
nói chấp nhận bổn phận người con trai trong thời loạn?
Mẹ
lắc đầu:
-
Mẹ tránh đả động đến vấn đề chính kiến với cậu
Định. Lên án hay không lên án cuộc chiến tranh nầy, xem
đó là cuộc chiến tranh giải phóng hay xâm lược, đó là
ý kiến riêng của cậu Định, mẹ không muốn xen vào và
cũng không muốn cậu ấy biết rõ chính kiến của mẹ.
Tôi
hiểu mẹ. Trong bao nhiêu năm sống chung vơi cha tôi, mẹ
rất giữ gìn lời nói và luôn luôn tránh xa những đề
tài về chính trị. Bà là người trí thức có cái nhìn
sáng suốt nơi thời cuộc, nhưng đồng thời cũng là
người vợ hiền và đảm đang, chưa bao giờ làm phật ý
chồng. Ba và mẹ tôi có sự đối nghịch rõ rệt về
chính kiến, nhưng điều đó không làm sứt mẻ tình nghĩa
phu thê và không làm vẫn đục không khí đằm thắm của
gia đình.
Ba
tôi là người tôn sùng cộng sản như người tín đồ
tôn sùng giáo chủ của mình. Mẹ tôi lại là người
không ưa cộng sản, đôi khi bà còn tỏ ý căm thù cộng
sản nữa. Điều đó cũng có lý do.
Quê
quán bên ngoại tôi ở tận tỉnh Thái bình ngoài Bắc.
Khoảng năm 1930, ông bà ngoại tôi đưa mẹ vào Nam lập
nghiệp, để hai người anh ruột của mẹ ở lại ngoài
Bắc với ông bà cố tôi. Năm 1954, đất nước bị chia
đôi, phân nửa về phía Bắc giao cho cộng sản, hơn một
triệu người đành rời bỏ quê hương vào Nam sinh sống,
trong đó không có hai người cậu của tôi. Mẹ tôi giải
thích là lúc đó hai cậu đã có vợ con, nhà cửa ruộng
đất của ông bà cố để lại nên không muốn ra đi. Vả
lại hiệp định Genève qui định sự chia cắt chỉ có
tính tạm thời và sau hai năm sẽ có tổng tuyển cử
thống nhất đất nước thì hai miền sẽ sum họp lại.
Không ngờ hai miền bị tiếp tục phân chia mãi mãi và
đến 1956, trong đợt cải cách ruộng đất, ông bà cố
tôi bị quy là địa chủ. Ông bà cố đã mất từ lâu
nên hai cậu tôi bị đem ra đấu tố thay. Không bao lâu
sau đợt cải cách ruộng đất đó, hai cậu tôi chết.
Những
điều nầy tới tai mẹ tôi là do một người bà con trốn
được vào Nam qua ngã Lào. Có lẽ từ đó nảy sinh cự
căm thù cộng sản trong lòng mẹ tôi. Tuy nhiên, là người
kín đáo nên rất ít khi bà tỏ lòng căm thù nầy, nhất
là khi có mặt ba tôi. Mẹ lại là người trí thức đúng
nghĩa nên bà rất tôn trọng quyền tự do tư tưởng của
người khác. Bà thường nói với tôi:
-
Trong cuộc chiến nầy, hai bên đều là người Việt Nam
cả. Thiên về bên nầy hay bên kia, đó là quyền của mỗi
người và không thể gọi là theo giặc được.
Qua
lời nói của mẹ, tôi đọc được cả một tấm lòng
bao dung quảng đại.
Ba
tôi thì không được quảng đại như mẹ. Ông hăng hái
bênh vực cộng sản, ông tích cực ca tụng Mặt trận
Giải phóng miền Nam, ông hoan hô những chiến thắng của
quân Giải phóng qua các làn sóng phát thanh của cộng sản.
Dĩ nhiên, cử chỉ nầy của ông chỉ có giữa những
người thân trong gia đình và vài bạn bè đồng tư tưởng
với ông mà thôi.
Những
lúc đó, mẹ thường im lặng cúi đầu, người ngoài thì
tưởng mẹ đang chăm chú nghe và đồng quan điểm với
cha tôi, nhưng tôi hiểu rằng nơi trí óc mẹ xảy ra điều
trái ngược. Đôi khi tôi cũng tỏ sự ái ngại cho sự
chịu đựng của mẹ thì được mẹ an ủi:
-
Cứ để cho ba con nói, đừng cãi lại.
-
Nhưng ba đâu có sự khoan dung về tư tưởng như mẹ. Lúc
nào ba cũng có ý bắt buộc người nghe phải đồng quan
điểm với mình, nghĩa là phải ca tụng cộng sản và tỏ
lòng căm thù đối với chính cái chế độ mà mình đang
sống. Con lấy làm lạ là mẹ có thể ngồi hàng giờ
nghe ba nói những điều trái với quan điểm của mình.
Mẹ
nghiêm mặt, nói với tôi:
-
Con không được phê phán ba con như thế. Lòng thù hận
của ba con có lý do nên mẹ chấp nhận điều đó. Vả
lại, theo mẹ, không nên để cho quan điểm chính trị phá
vỡ sự yên ấm của gia đình chúng ta.
Mẹ
tôi thực là người đàn bà mà tôi cảm phục hơn bất
cứ người nào trên thế gian nầy. Có lẽ mẹ muốn
thuyết phục tôi chấp nhận sự căm thù trong lòng cha tôi
nên giải thích thêm:
-
Con biết rằng năm 1945, ba con được tận mắt chứng kiến
giờ phút lịch sử của cuộc cách mạng Mùa thu. Ba con đã
được tham gia vào đoàn người cầm tầm vông vạt nhọn
chống lại xe tăng, đại bác của quân thù để giành độc
lập. Hình ảnh đó không bao giờ phai nhạt trong lòng ba
con; nó làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một tôn
giáo trong tâm khảm của ba con.
Tôi
ngắt lời mẹ:
-
Có, con biết điều đó, con đã nghe ba kể về những ngày
nầy, có đến hàng trăm lần rồi.
Mẹ
không để ý đến lời tôi, tiếp tục câu chuyện về ba
tôi:
-
Sau ngày đó, ba con không được ra Bắc hay lên chiến khu
để tiếp tục con đường cách mạng của mình mà phải
trở về thành làm việc cho kẻ thù, vì trách nhiệm đối
với vợ con. Điều đó có thể đã gây cho ông nhiều
tiếc nuối.
-
Nhưng bù lại, mẹ đã đem đến cho ba những năm vô cùng
hạnh phúc kia mà.
Mẹ
tát yêu vào má tôi:
-
Con nhỏ nay khéo nịnh mẹ. Có lẽ vì thế, ba con không
tham gia vào tổ chức cách mạng trong thành phố mà chỉ
giúp đỡ họ bằng cách cung cấp tin tức đi qua đường
bưu điện mà thôi. Điều đó gây cho ông một mặc cảm
không làm tròn trách nhiệm đối với cách mạng và vì
vậy cảm tình đối với Việt minh trước đây và với
Mặt trận ngày nay càng sâu đậm trong lòng ông. Cảm tình
đó đã được hỗ trợ thêm bằng mối căm hờn mà ông
phải chịu đựng trong những ngày lao tù làm cho cách mạng
khoác áo tôn giáo trong tâm hồn ông.
-
Nhưng con đâu có nghe nói ba bị hành hạ nhiều trong khi
bị bắt đâu.
-
Có chứ, con là con gái cho nên ba con đâu có kể những
chuyện khủng khiếp cho con nghe. Lúc ở bót Catinat, ba con
bị tra tấn đến bầm dập, tuy không bằng những cán bộ
thứ thiệt. Trong Catinat mà mọi người đều công nhận
là địa ngục của trần gian, mọi sự tra tấn dù nhẹ
nhàng nhất cũng là khủng khiếp đối với da thịt của
cơ thể mềm yếu của con người.
-
Ba ở Catinat bao lâu?
-
Khoảng một tháng. Cho đến khi thấy không cần khai thác
gì thêm thì người ta kết thúc hồ sơ và đưa ba con đem
nhốt ở khám Phú lâm.
Tôi
vỗ nhẹ vào tay mẹ:
-
Mẹ, có lần con nghe ba gọi nhà tù đó là khám “thằng
Tây điên”. Thiếu gì tên, sao chọn cái tên gì kỳ cục
vậy.
Mẹ
phì cười:
-
Đó không phải là tên chính thức của khám Phú lâm mà
chỉ là một biệt danh do tù nhân và dân chúng đặt ra
thôi. Sở dĩ có biệt danh nầy vì tên giám đốc trại
giam dạo đó là một sĩ quan người Pháp, tính tình độc
ác và bất thường, y như người điên, người khùng. Ban
ngày, tù được cho ăn uống đầy đủ và được sinh
hoạt bình thường nhưng đêm xuống, điều khủng khiếp
thường xảy ra khi thằng Tây giám đốc nổi cơn điên.
Nó đi với một thằng giám thị hay lính gác xuống trại
giam bắt một người nào đó mà nó ưng ý đem lên văn
phòng đánh đập dã man để giải khuây. Có khi đánh đến
chết rồi đem đi chôn. Có khi, nó xuống trại nữ bắt
đàn bà, con gái lên văn phòng hãm hiếp cho đến khi gần
chết mới lôi về trả lại cho trại.
Tôi
rùng mình vì những lời mẹ kể. Từ trước, tôi có biết
cha tôi ở tù nơi khám Phú lâm nhưng chưa nghe nói đến
những chi tiết khủng khiếp như lời mẹ vừa kể. Như
mẹ đã nói, những điều nầy cha tôi chỉ kể riêng cho
mẹ nghe thôi. Có lẽ cha tôi cũng đã kể cho anh Quân nghe
nên đã truyền cho anh lòng căm thù và góp sức đẩy anh
vào hàng ngũ cách mạng trong phong trào sinh viên học sinh.
Thấy
tôi há hốc miệng ngồi nghe, mẹ cảm thấy hứng thú nên
tiếp tục kể:
-
Ba con bảo rằng lúc bị giam trong khám, ba có quen với một
anh cán bộ thuộc thành phần lãnh đạo bí mật trong tập
thể tù nhân. Ba con phục anh cán bộ nầy lắm. Hai người
mau chóng trở nên thân thiết với nhau. Anh cán bộ hứa
khi ra tù sẽ đưa ba con vào tổ chức cách mạng.
Tôi
giật mình:
-Thế
về sau, ba có vào tổ chức cách mạng thực sự không?
Mẹ
vội vã lắc đầu vì nét hốt hoảng nhìn thấy nơi mặt
tôi:
-
Không. Ít lâu sau, anh cán bộ vượt ngục và bị bắn
chết ngay bên hàng rào kẽm gai. Tội nghiệp nhưng mà cũng
may.
Tôi
ngạc nhiên:
-
Tại sao lại may hả mẹ?
-
Nếu ông cán bộ đó còn sống thế nào ổng cũng đến
rủ rê thì ba con khó lòng từ chối được. Rồi cũng đến
như thằng Quân thôi.
Mẹ
thở dài. Hơi thở dài của mẹ nghe như ướt đẫm nước
mắt. Tôi cầm tay mẹ lắc nhẹ:
-
Trong thời gian ba bị bắt thì mẹ làm gì?
-
Mẹ khổ vô cùng. Lúc đó anh Quân của con mới bốn tuổi
còn con mới bốn tháng trong bụng mẹ. Lúc ba con chưa bị
bắt, mẹ ở nhà săn sóc việc nhà. Thời Pháp thuộc,
công chức như ba con có lương bổng rất khá, đủ cho cả
gia đình sống thong thả. Việc nhà quá rảnh rỗi nên mẹ
bắt đầu học thêm. Mẹ sắp thi tú tài hai thì ba con bị
bắt. Mẹ phải bương chải, vừa lo cái sống cho hai mẹ
con, vừa phải có tiền thăm nuôi ba con.
Giọng
mẹ kể nghe thực cảm động. Tôi mân mê bàn tay của mẹ:
-
Tội nghiệp mẹ. Rồi làm sao mẹ và anh Quân sống được?
-
Cũng nhờ người nầy, người kia giúp đỡ. Mẹ cũng cố
gắng làm nhiều việc kể cả việc kèm cho một đứa trẻ
của một nhà giàu có.
-
Nhờ vậy mẹ yêu nghề dạy học.
Mẹ
gật đầu:
-
Phải, mẹ thành công trong việc kèm đứa trẻ đó và ước
ao trở thành cô giáo thực sự. Nhưng con đừng ngắt lời,
để mẹ kể tiếp chuyện của ba con. Thấy mẹ cực khổ
ba con xót xa nên cố giữ hạnh kiểm tốt trong tù, tránh
tham gia vào những cuộc đấu tranh. Nhờ đó, ông chỉ bị
giam chưa đến hai năm thì ra tù. Ba con không được thu
nhận lại vào Bưu điện. Đó vừa là một đòn trừng
phạt, vừa đề phòng ba con lại lấy tin tức cho Việt
minh. Gia đình tiếp tục khốn đốn. Nhiều lúc, ba con
tuyệt vọng, tính tình trở nên nóng nảy. Có lúc ông
mang cả tên những lãnh tụ của Pháp và của chính quyền
quốc gia ra mà chửi rủa. Mẹ phải vỗ về an ủi, ông
mới dịu lại. Hơn một năm sau, ba con xin được một
chân thư ký kế toán trong hãng xuất nhập khẩu Thái
dương, một chi nhánh của cơ sở chính ở Nhật, lương
cũng khá nên đời sống gia đình được nhanh chóng ổn
định.
Tôi
ngắt lời mẹ:
-
Rồi mẹ đi học lại.
-
Đúng rồi, mẹ ham học lắm nhưng vì lấy chồng sớm nên
bỏ học. Đậu tú tài xong, mẹ ghi danh vào đại học Văn
khoa, bốn năm sau thì có cử nhân giáo khoa và xin đi dạy.
Thôi để mẹ nói chuyện tiếp về ba con.
Mẹ
ngừng một chút rồi quay sang nhìn thẳng vào mắt tôi:
-
Con có biết tại sao hôm nay mẹ muốn nói nhiều về ba
cho con nghe hay không?
Tôi
ngạc nhiên nhìn mẹ và lắc đầu. Mẹ mỉm cười rồi
nét mặt trở nên thực nghiêm trang:
-
Một vài tháng nữa, con sẽ trở thành sinh viên đại học,
ra trường con sẽ nhập vào hàng ngũ trí thức của xã
hội Việt Nam cho nên dù muốn dù không, con cũng sẽ phải
tự trang bị cho mình một lập trường chính trị để
khỏi bị nhầm lẫn vì sự tuyên truyền nhiều khi hết
sức tinh vi và xảo quyệt. Điều nầy càng quan trọng hơn
nữa khi con học ngành sư phạm để ra dạy văn chương
nghĩa là dạy cho học sinh biết cách suy tưởng để nhìn
thấy rõ đâu là chân lý, đâu là ngụy ngôn giữa hai phe
trong cuộc chiến tranh tàn khốc nầy.
-
Nhưng điều nầy thì có liên can gì đến tư tưởng của
ba con? Mẹ sợ con cũng sẽ nhiễm phải lòng căm thù như
ba con hay sao?
Nét
mặt mẹ trở nên thực buồn bã:
-
Con sẽ phải đi tìm cho mình một lập trường chính trị
đúng đắn. Mẹ đoán rằng con sẽ nhận ra cuộc chiến
tranh đang nhấn chìm hai miền trong khói lửa không phải
là cuộc chiến tranh giải phóng mà là cuộc chiến tranh
xâm lược nhằm bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Rõ
ràng, lúc đó lập trường của con sẽ đối nghịch với
ba con. Mẹ muốn con thấu hiểu hoàn cảnh đã tạo nên
tâm tình của ba con để giữ được trọn vẹn tấm lòng
thương yêu và kính trọng đối với ba con.
Tôi
cảm động quá, ôm chầm lấy mẹ, dúi mạnh đầu vào
ngực mẹ. Mẹ nâng đầu tôi dậy, tiếp tục câu nói:
-
Cha con là người đức độ, biết thương người, chưa hề
có một lầm lỗi nào đối với vợ con. Cái cảm tình
thái quá của ông đối với cộng sản là một tâm trạng
đáng thương hơn đáng trách. Mẹ sợ con suy nghĩ thiếu
chín chắn để đến đỗi làm buồn lòng ba con. Mẹ còn
mối lo khác nữa.
Bỗng
dưng, mẹ ngừng nói. Tôi không kềm được câu hỏi:
-
Mối lo gì hả mẹ?
Mẹ
lắc đầu mà không trả lời. Nhìn nét mặt đầy nét ưu
tư của mẹ, tôi đoán mẹ có mối lo không nhỏ nhưng tôi
không dám hỏi mẹ lần thứ hai. Mãi nhiều năm sau nầy
tôi mới hiểu lúc đó mẹ nghĩ đến anh Định. Bà đoán
trước tình cảm có thể nảy nở giữa anh Định và tôi.
Lúc đó, liệu sự đối nghịch lập trường chính trị
có phương hại đến tình cảm gia đình mà mẹ ra ra công
gìn giữ trong bao nhiêu năm trời?
*
*
*
Thấm
thoát kỳ nghỉ hè trôi qua, tôi nhập học trường đại
học Sư phạm. Tôi cảm thấy mình lớn hẳn lên khi trở
thành sinh viên đại học. Tôi bước qua cổng trường, đi
trên con đường rợp bóng mát của mấy cây còng cổ thụ,
nghe lòng phơi phới. Tuy nhiên, khi nhìn sang trường đại
học Khoa học kế bên, tôi cảm thấy lòng quặn thắt. Đó
là ngôi trường đại học của anh Quân tôi trước đây.
Anh đã có hai năm lui tới khuôn viên trường nầy, rồi
từ giã nó để chạy vào chiến khu và đã vĩnh viễn nằm
lại ở một nơi xa xôi nào đó trong khu rừng của miền
Đông Nam bộ.
Lúc
còn sống và còn đi học, anh thường mô tả cho tôi nghe
ngôi trường Khoa học của anh và kể cho tôi nghe nếp
sống của sinh viên đại học. Tôi biết anh kể về đại
học để khuyến khích tôi học hành, để được lên đại
học như anh. Ngày nay, ý muốn của anh đã thành sự thực,
thì than ôi, anh không còn nữa để nhìn thấy đứa em gái
thân yêu của anh đang đứng trong sân trường đại học
Sư phạm nhìn sang ngôi trường Khoa học cổ kính mà anh
đã từng lui tới trước đây.
Khoảng
một tháng sau khi tôi vào nhập học, anh Định gởi lá
thư thứ hai về cho gia đình tôi. Thư cũng đến vào lúc
chỉ một mình mẹ ở nhà. Cũng như lần trước, mẹ trao
thư cho tôi và bảo đọc. Lời thư khá cảm động. Định
tỏ ra mừng rỡ khi nhận được thư của mẹ tôi. Cuối
thư, anh xin mẹ được làm bạn với tôi, nghĩa là trực
tiếp viết thư cho tôi. Tôi tự cảm thấy xấu hổ và
hồi hộp khi đọc dòng chữ nầy.
Khi
tôi trao trả phong thư lại thì mẹ cười bảo:
-
Con lớn rồi. Đã là sinh viên đai học nên con có quyền
có bạn trai. Chuyện đề nghị của cậu Định, mẹ để
cho con quyết định.
Lúc
nào mẹ tôi cũng có quyết định nhanh chóng và dứt
khoát. Sự thông minh và kinh nghiệm sống đã cho mẹ khả
năng đó. Vì thế, tôi có thói quen gặp việc gì khó
nghĩ, thì cứ chờ đợi ý kiến của mẹ. Bây giơ, lời
của mẹ bảo tự quyết định làm tôi rất băn khoăn.
Trước đây, tôi học trường nữ trung học Lê văn Duyệt,
lại chỉ có bạn học cùng lớp nên chưa hề có bạn
trai. Lúc anh Quân còn sống, đôi khi gặp cái nhìn chăm
chăm của bạn bè anh ấy thì tôi chui tọt xuống bếp hay
vào buồng đóng cửa lại cẩn thận.
Thấy
tôi im lặng, mẹ mở lời:
-
Nếu con đồng ý, kỳ nay mẹ để con trả lời thư cho
cậu Định.
Thế
là mẹ đã quyết định giùm cho tôi rồi, tôi vui vẻ
nhận lời.
Mãi
ba hôm sau, tôi mới viết xong lá thư dài chưa tới một
trang giấy học trò, sau khi xé bỏ đến ba lần. Khi đọc
lại lần cuối cùng, tôi nói thầm và cười một mình:
-
Nếu bài luận văn mà mình viết thế nầy thì mẹ cho một
điểm trên hai mươi là may.
Tuy
vậy, tôi vẫn cho vào bao thư và dán lại.
Thư
đi được đúng một tuần thì tôi nhận được thư anh
Định. Tôi đang ngồi học, nghe tiếng chuông rung ngoài
cổng. Vài phút sau, mẹ vào, tay cầm một cái thư, trao
cho tôi:
-
Thư của cậu Định đây.
Tôi
giả bộ dửng dưng, mà nghe má mình nóng ran:
-
Mẹ đọc trước đi.
Mẹ
cười tủm tỉm:
-
Thư đề gởi cho con sao bảo mẹ đọc?
Tôi
nhận lấy phong thư, lòng đầy cảm kích. Càng lớn lên
tôi càng thấy rõ mẹ đối xử thực chuẩn mực, vừa âu
yếm, vừa tôn trọng con cái của mình. Hạnh phúc cho ai
có được người mẹ như mẹ tôi để mà thương yêu và
kính phục.
Phong
thư dày cộm. Tôi muốn xem ngay để biết anh Định viết
gì trong đó, nhưng trước mặt mẹ tôi cố làm ra vẻ
khoan thai, để phong thư trên bàn và xếp sách vở cho gọn
gàng. Nhưng khi mẹ vừa bước ra khỏi phòng, tôi lấy
ngay kéo ra, cắt một đường dọc theo biên bao thư, rút
xấp giấy ra đọc vội vàng.
Hồng
Ngọc thân mến,
Trước
hết, anh xin em cho phép anh được xưng hô một cách thân
mật như anh thường mong mỏi kể từ khi mới gặp em.
Chiều
nay, khi vừa đi học chiến thuật ngoài bãi về, anh nhận
được thư em từ tay anh sinh viên sĩ quan trực đại đội.
Anh không biết nói thế nào cho em hiểu nỗi xúc động và
hân hoan của anh khi thấy bốn chữ Hoàng thị Hồng Ngọc
trên đầu phong bì, nơi vị trí người gởi. Thôi anh đành
chỉ biết cám ơn em về những dòng chữ xinh đẹp mà em
dành riêng cho anh.
Giờ
nầy các bạn anh đã ra sân chơi, người thì đánh bóng
bàn, bóng chuyền, người thì xuống câu lạc bộ để
đánh bi da hay tán chuyện gẫu bên ly nước ngọt. Căn
phòng hoàn toàn vắng vẻ vì chỉ một mình anh đang ngồi
trên giường, lưng tựa vào vách và viết thư cho em.
Có
quá nhiều chuyện anh muốn kể cho em nghe nhưng lúng ta
lúng túng mãi không biết bắt đầu từ đâu. Anh cứ cảm
thấy đầu óc mình lâng lâng như bay bỗng trong một không
gian tràn đầy hạnh phúc êm đềm. Dù em chỉ là người
bạn gái mới quen biết và chưa thể gọi là thân mật
được nhưng anh bỗng có cảm tưởng rằng kể từ hôm
nay anh được phép từ giã tâm tình cô đơn đã đeo đẳng
anh kể từ khi anh bắt đầu biết nhìn cuộc đời chung
quanh mình.
Buồn
lắm những ngày sống với tâm tình cô đơn!
Anh
còn nhớ, cách nay hai năm, ngày vác bao hành trang xuống
xe, đứng trước cổng trường Võ bị nầy. Mọi người,
ai cũng có người thân đi theo; cha mẹ, em trai, em gái, tíu
tít chia tay, với biết bao lời dặn dò thân thiết, với
biết bao ánh mắt trìu mến. Chỉ riêng anh lặng lẽ đứng
một mình cách khá xa nhìn khung cảnh thân yêu đó, rồi
quay ngược lại nhìn rừng thông xanh um trải rộng bao phủ
khắp thung lũng phía trước cổng trường.
Đà
lạt đẹp quá! Đẹp nhất, có lẽ là con đường ngoằn
ngoèo chạy từ hồ Than thở đến cổng trường của anh.
Nhưng
thôi, anh không thể đứng lâu để ngắm nhìn mãi cảnh
đẹp của núi rừng mà phải bước qua cánh cổng thâm
nghiêm để vào trường.
Sĩ
quan và sinh viên sĩ quan các khóa đàn anh tiếp đón tân
khóa sinh thực niềm nở, tận tình hướng dẫn làm thủ
tục nhập học.
Khởi
đầu khóa học là mấy tuần lễ gọi là “huấn nhục”.
Đó là bài học đầu tiên dạy cho các tân khóa sinh biết
tuân lệnh trên vô điều kiện. Trong hoàn cảnh chiến
tranh, đối với người quân nhân, lệnh ban ra là phải
thi hành ngay, không được bàn cãi lôi thôi như trong đời
sống dân sự. Trong huấn lệnh đầu tiên, thiếu tá
trưởng khối Quân huấn đã nghiêm sắc mặt nói với các
anh trong hội trường:
-
Kể từ giây phút bước qua cái cổng của trường Võ bị
Quốc gia, lập tức các bạn đã trở thành người quân
nhân, người chiến sĩ Cộng hòa. Các bạn phải trút bỏ
cái thói quen tự do phóng túng của đời sống dân sự để
nhận lấy cuộc sống kỷ luật, kỷ luật sắt của nhà
binh. Ở đây chỉ có sự tuân lệnh, không có sự thắc
mắc hay khiếu nại gì cả. Ở đây không có sự bình
đẳng thông thường mà các bạn đã được hưởng ngoài
đời. Ở đây cấp bậc phải được tuyệt đối tôn
trọng. Bất cứ lúc nào các bạn cũng phải chào những
người cấp bậc cao hơn mình; đó là các sĩ quan, các
sinh viên sĩ quan thuộc khóa đàn anh của các bạn….
Buổi
ra mắt kết thúc, bọn tân khóa sinh các anh được các
huynh trưởng đưa về nhận chỗ ở. Vừa đi, chúng anh
vừa nhìn quanh với một niềm hãnh diện to lớn về ngôi
trường mới của mình.
Trường
Võ bị nằm trọn trên một ngọn đồi, gồm nhiều nhà
lầu sắp thành hai dãy song song hai bên một sân dài trồng
cây kiểng rất đẹp. Theo lời anh huynh trưởng giải
thích, đây là khu trường mới được xây cất khoảng
hơn mười lăm năm trước. Khu trường cũ gồm những dãy
nhà tôn nay gọi là F1,
F2,
F3,
vân vân, bây giờ vẫn còn và được sử dụng để làm
nhà kho, văn phòng tiếp vận, quân cảnh, an ninh quân đội,
chỗ ở của các sĩ quan độc thân, vân vân. Hai trường
cũ và mới cách nhau một ngọn đồi dùng làm vũ đình
trường để làm bãi tập ngoài trời cho sinh viên sĩ quan
và làm lễ mãn khóa hằng năm cho các tân sĩ quan.
Hồng
Ngọc em,
Chiều
hôm qua anh đã mô tả vài nét trường Võ bị Đà lạt
cho em nghe. Anh muốn nói thực nhiều về ngôi trường của
anh, nơi đã đào tạo những người con thân yêu của Tổ
quốc mà một số đã đền xong nợ nước và vĩnh viễn
nằm yên trong lòng đất mẹ. Anh cũng muốn nói cho em nghe
thực nhiều về cuộc sống mới của anh, em có hiểu tại
sao không?
Bởi
vì anh không bao giờ quên được sự thay đổi nêp sống
của mình cách nay hai năm khi anh bước chân qua chiếc cổng
đồ sộ của ngôi trường Võ bị của anh hiện nay. Có
lẽ trong đời người, không có gì gây ấn tượng mạnh
bằng sự thay đổi từ nếp sống dân sự sang nếp sống
nhà binh.
Anh
chưa nói hết lời thì đến giờ cơm. Sau giờ cơm thì
bạn bè níu kéo đi câu lạc bộ, không thể nào từ chối
được. Buổi sáng, sau hiệu lệnh báo thức, phải ra sân
tập thể dục rồi đi ăn sáng, rồi nhanh chóng dọn phòng
cho gọn gàng và ra bãi tập chiến thuật.
Thì
giờ của sinh viên sĩ quan eo hẹp như thế nên anh không
thể nào viết liên tục cho em được. Trưa nay, anh bỏ
ngủ để viết tiếp cho em. Anh ngồi dưới đất, tựa
lưng vào chân giường, tập giấy kê lên đùi. Cả phòng
ai cũng xuống nằm dưới đất, không dám leo lên giường.
Sáng nào, các anh cũng trải tấm drap giường thực phẳng,
bốn cạnh được vuốt ngay như thước kẻ, mặt giường
không được có một vệt nhăn nào. Sau khi ra khỏi phòng
để đi học thì lập tức sĩ quan vào khám thực tỉ mỉ,
giường nào không phẳng thì chủ nhân của nó sẽ khốn
đốn vì lệnh phạt vào buổi chiều. Vì thế, buổi trưa
tất cả đều phải hạ thổ để giữ cho cái tấm drap
giường được nguyên vẹn.
Nếp
sinh hoạt trong quân trường thực lạ lùng phải không em.
Lạ lùng hơn nữa là sự biến chuyển trong tận bề sâu
tâm hồn chúng anh. Không còn những gương mặt âu sầu bi
quan của giới trẻ trong một đất nước ngập tràn khói
lửa chiến tranh. Tất cả những con người ở đây đều
vui vẻ yêu đời, cười đùa thoải mái, dù ai cũng biết
rằng không bao lâu nữa sẽ rời chốn bình an để lăn
thân vào chốn da ngựa bọc thây.
Chiến
tranh là một lò lửa bạo tàn, ai cũng nguyền rủa, nhưng
ở đây, những người sắp bước vào lò lửa đó, những
thanh niên thân thể cường tráng, tâm hồn trong sáng, lại
không một lời phiền trách, thản nhiên chấp nhận thân
phận của mình. Hình ảnh nầy chắc chắn phải lảm cho
quả tim của các triết gia rớm máu.
Thôi,
chuyện chiến tranh buồn lắm, anh không muốn nói tiếp,
sợ làm vẫn đục tâm hồn của một người con gái vô
cùng đáng quý. Anh muốn kể cho em nghe một chuyện gì vui
vui có thể làm nở nụ cười xinh đẹp của em.
Chuyện
vui gì đây? À, chuyện vui nầy cũng tạm được.
Cách
nay gần hai năm, lúc còn trong giai đoạn tân khóa sinh, vào
một buổi chiều rất lạnh, từ câu lạc bộ trở về,
anh cúi mặt đi co ro để tránh bớt gió lạnh đang ào ào
thổi trên đồi. Thình lình, anh nghe giọng quát khá to:
-
Nầy anh kia.
Anh
giật mình ngẩng lên, nhìn thấy một huynh trưởng mang
alpha hai gạch đi ngược chiều và dừng lại. Huynh trưởng
nói tiếp:
-
Anh đơn vị nào, trình diện xem.
Anh
đứng chụm chân chào, xưng tên, số quân, trung đội, đại
đội, tiểu đoàn của mình. Huynh trưởng gằn giọng:
-
Tại sao, khi nãy đi ngang qua tôi anh không chào?
Nghe
huynh trưởng cật vấn, anh ngớ người ra. Anh biết rằng
theo quân kỷ thì phải chào huynh trưởng, nhưng vì thói
quen, đàn em thường chỉ chào sĩ quan mà rất ít khi chào
huynh trưởng. Anh chẳng biết nói sao thì huynh trưởng ban
lệnh:
-
Khuya nay, đúng mười một giờ ba mươi phút, anh phải đến
gặp tôi để nhận lệnh phạt.
Huynh
trưởng cho biết tên, số phòng, số giường rồi bỏ đi.
Anh rất lo lắng, không biết lệnh phạt thế nào vào đêm
khuya như thế nên không dám ngủ, đợi đúng mười một
giờ hai mươi lăm phút thì đến tận giường huynh trưởng
để trình diện. Huynh trưởng vùng dậy nhưng vẫn trùm
mền ngồi trong giường ban lệnh ra:
-
Bây giờ, anh phải ra phòng trực trước cổng, xin gặp
trung úy Thành và yêu cầu trung úy cho rờ vào cái rốn
rồi vào đây báo cáo cho tôi biết.
Anh
không tin vào tai của mình nên đứng yên. Huynh trưởng
phải nhắc lại lệnh phạt lần thứ hai mà anh cứ đứng
ngẩn người vì cái lệnh phạt kỳ cục đó. Vài giây
sau, anh chào huynh trưởng rồi bước ra khỏi phòng. Trời
đầy sao lấp lánh, gió lộng rít từng cơn, không khí
lạnh hơn những đêm trước nhiều. Anh cố bước nhanh ra
cổng.
Trung
úy Thành đang ngủ say, nghe sinh viên trực gọi thì hoảng
hốt, tưởng xảy ra việc nghiêm trọng trong đêm khuya.
Trung úy vén mùng, ló mặt ra. Sau khi nghe anh xin rờ cái
rốn theo lệnh phạt của huynh trưởng Thái văn Hy thì
trung úy tức giận, chửi thề rồi nói:
-
Tiên sư cái thằng Hy, khi chiều học chiến thuật ngoài
bãi, nó ngủ gục bị tao bắt được, cho chạy mấy vòng,
bây giờ nó trả thù kiểu nầy đây. Lạnh bỏ mẹ, lại
đang ngủ ngon!
Thấy
trung úy vẫn nằm yên, anh năn nỉ và bảo đây là lệnh
phạt, buộc anh phải thi hành. Trung úy đành phải tung mền
bông, bước xuống giường. Trời lạnh lắm, nhất là đối
với người vừa ra khỏi chỗ ấm áp. Trung úy vừa lầm
bầm chửi thề, vừa cởi áo field jacket, rồi áo trận,
sau đó vén áo len để lộ cái rốn to như quả chanh. Anh
sờ tay lên nhưng tức cười qua nên táy máy bóp nhẹ cái
rốn lồi, làm trung úy nhột, cười sằng sặc và hết
giận. Sau đó trung úy vội vàng mặc lại mấy lớp áo và
chui vào mền bông. Anh đứng chụm chân chào từ giã.
Trung úy khoát tay nói to:
-
Thôi về đi. Nói với thằng Hy ngày mai nó biết tay tao.
Anh
ra khỏi phòng trực, lủi thủi đi trong gió rét, đến báo
cáo với huynh trưởng rồi về phòng ngủ.
Đó,
quân trường rất nhọc mệt nhưng cũng lắm chuyện vui
như thế. Anh nhớ trước đây có một vị tướng về hưu
sau mấy chục năm trong quân ngũ. Khi được hỏi giai đoạn
nào trong cuộc đời binh nghiệp được ông tướng nhớ
thương nhất thì ông tướng trả lời ngay là thời gian
học ở quân trường.
Hồng
Ngọc thân mến,
Hết
giờ nghỉ trưa rồi. Vừa có lệnh tập họp để đi học
văn hóa. Thôi anh xin kết thúc lá thơ nầy. Chiều nay, đi
học về, anh sẽ đem giao cho quân bưu.
Rất
mong thư em.
SVSQ
Nguyễn văn Định
Đọc
xong lá thư, tôi cười khúc khích một mình. Những ngày
sau, thỉnh thoảng cứ tưởng tượng cái ông sĩ quan buộc
phải cởi áo đứa cái rốn ra cho anh chàng sinh viên sĩ
quan bóp nhẹ một cái thì tôi lại không nhịn cười
được.
Một
tuần sau, tôi viết lá thư thứ hai cho anh Định. Những
dòng chữ còn rất đắn đo nên thư chỉ đầy một trang
giấy học trò mà tôi mất hai buổi chiều mới xong. Tôi
đọc lại thư tôi viết, sao thấy nó khô queo, quá nghiêm
trang chứ không nhẹ nhàng và tự nhiên như thư của anh
Định. Tôi nghĩ rằng thư tôi viết khô khan như thế, có
lẽ người đọc chán lắm. Nhưng không, trong thư hồi âm,
anh Định bảo rằng hết sức hạnh phúc khi đọc thư
tôi. Anh nói chỉ cần nhìn thấy tên Hồng Ngọc ngoài bao
thư và nét chữ xinh xắn của tôi, anh đã thấy bầu trời
đột nhiên rực sáng, cuộc đời đột nhiên thơm ngát
hương hoa. Anh bảo ước mơ suốt đời được sống trong
bầu trời đó, trong cuộc đời đó.
Lời
thư thật tha thiết. Tôi cảm thấy một lời tỏ tình
chính thức của anh đối với tôi có lẽ cũng gần kề.
Ý nghĩ đó làm cho tôi cảm thấy tim mình rung động một
cách êm đềm.
Quả
thực, điều đó đã xảy ra vào năm thứ hai đại học
Sư phạm của tôi. Trong một lá thư, anh đã viết:
“Bây
giờ thì anh phải nói với em sự thực trong lòng anh, sự
thực mà anh nghĩ rằng em đã đoán biết từ lâu. Từ khi
gặp em, cách nay hai năm, anh đã bị tiếng sét ái tình
đánh trúng. Tiếng sét thực kỳ lạ, đánh trúng anh mà
không làm cho anh ngã gục, trái lại nâng anh lên trong một
không gian xanh bát ngát làm cho anh choáng ngợp trong một
tình cảm vừa thắm thiết lại vừa lo âu. Kể từ đó,
nơi chốn quân trường, chỗ nào cũng có bóng dáng em.
Trong hội trường, ngoài bãi tập, ở phòng ăn, chỗ phòng
ngủ, nơi nào, lúc nào anh cũng tưởng tưởng thấy gương
mặt xinh đẹp của em nhìn anh mỉm cười. Kể cả những
giờ phút căng thẳng như trượt vun vút trên dây tử thần
hay nhoài người leo lên chinh phục đỉnh Lang-biang, hình
bóng em cũng không bao giờ rời khỏi con tim và khối óc
của anh.
Tình
yêu nơi anh đối với em đã quá sâu đậm mất rồi. Anh
lo lắng không biết tình yêu đó có được đáp ứng hay
không. Anh nhớ đã từng đọc ở đâu đó lời một triết
gia bảo rằng yêu hạnh phúc hơn được yêu. Đối với
anh, yêu mà không được yêu thì chưa thể gọi là hạnh
phúc trọn vẹn được. Vì vậy, sau khi gởi lá thư nầy
đi, anh sẽ mong từng ngày, từng giờ, thư hồi âm của
em để biết mình có được may mắn hưởng hạnh phúc
trọn vẹn hay không….”.
Lá
thư làm tôi xúc động ngẩn ngơ. Suốt cả buổi chiều
tôi trốn trong phòng, gần như lên cơn sốt. Tôi đọc đi
đọc lại nhiều lần lá thư của anh, mà vẫn không biết
trả lời làm sao. Thực tình, gần một năm nay, tôi tiên
đoán có ngày nhận được lời tỏ tình nhưng đến khi
nhận được thì tôi xúc động một cách dị thường,
đầu óc cứ như lơ lơ lửng lửng trên chín tầng mây.
Tôi
đưa lá thư cho mẹ. Từ trước tới nay, mẹ không đọc
những lá thư trực tiếp gởi cho tôi, nhưng lần nay, có
lẽ thấy sự biến đổi khác thường trên mặt tôi nên
mẹ nhận ngay lá thư và đọc ngấu nghiến. Đọc xong, mẹ
nhìn tôi, mỉm cười:
-
Trông bộ mặt con, mẹ tưởng trong thư có gì quan trọng
và đáng lo. Té ra đây là chuyện hết sức bình thường.
Người con trai tỏ tình với người con gái, chuyện nầy
có lẽ đã xảy ra từ ngàn vạn năm nay trên trái đất
rồi.
Tôi
nhìn mẹ, lắp bắp:
-
Bây giờ con phải làm sao đây hả mẹ?
Mẹ
cười:
-
Lòng con bảo làm thế nào thì con làm thế đó.
Tôi
vẫn còn bối rối:
-
Mẹ nói gì con không hiểu.
-
Con nghe mẹ nói đây. Con lớn rồi chứ đâu phải trẻ
con nữa. Con đã gặp cậu Định tính đến nay đã hơn
hai năm rồi. Nếu con có lòng yêu thương cậu Định thì
cứ nói thật tình yêu của con. Nếu con không yêu mà chỉ
quý mến thôi thì cũng cứ nói thật và đề nghị với
cậu Định giới hạn tình cảm ở chỗ bạn bè mà thôi.
Trong sự đối xử với nhau, sự thành thật là tốt nhất.
Mẹ
ngừng một chút, nhìn tôi một cách nghiêm nghị và nói
tiếp:
-
Mẹ có cảm tưởng là con chưa ý thức được mình đã
trưởng thành. Sinh viên đại học năm thứ hai rồi mà.
Con đã đến tuổi có quyền tự do trong yêu đương. Mẹ
chỉ khuyên con phải rất cẩn thận và giữ gìn đúng lễ
nghĩa trong tình yêu. Khi nào quyết định đi đến hôn
nhân thì mới phải hỏi đến cha mẹ.
Một
lần nữa, tôi lại thấy mẹ đúng là mẫu mực một nhà
mô phạm. Tôi nhìn mẹ, nũng nịu:
-
Nhưng lúc nào còn sống với mẹ thì con muốn hỏi mẹ về
mọi việc. Mẹ…, mẹ thấy anh Định có xứng đáng làm
con rể của mẹ không?
Nói
xong tôi úp mặt vào cánh tay của mẹ. Mẹ nâng tôi lên
và cười:
-
Theo mẹ, cậu Định chẳng có điểm nào đáng chê trách.
-
Nhưng con sẽ tốt nghiệp đại học, còn anh ấy đã thi
rớt và bỏ học nửa chừng.
Mẹ
nhìn tôi, khẻ nhíu mày:
-
Đúng, cả hai khóa trong một niên khóa, Định đều rớt
chứng chỉ “luận lý siêu hình” của cử nhân triết
học. Nhưng mẹ đã nói với con rồi, cậu ấy rớt không
phải ngu dốt hay lêu lổng chơi bời mà trí não cứ mãi
bận rộn với những tin tức về chiến sự, óc tưởng
tượng cứ mãi lang thang trên những miền quê quằn quại
trong khói lửa. Bình thản để học triết và thi đậu
trong hoàn cảnh bi đát của đất nước thì chưa chắc là
đáng khen, ngược lại quá ưu tư vì thời cuộc mà phải
thi rớt như cậu Định chưa chắc là đáng chê.
Mẹ
ngưng một chút rồi nói tiếp:
-
Mẹ đã nói với con là mẹ quý cậu Định nhưng không
phải vì thế mà mẹ có nhận định kém trung thực về
cậu ấy đâu. Thanh niên thời loạn phải vào quân đội
để bảo vệ Tổ quốc là điều đáng khen. Khi mẹ dạy
các con tác phẩm Chinh phụ ngâm của bà Đoàn thị Điểm,
cứ đến hai câu: Chàng
tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc
đao cung, là mẹ
không dằn được cảm xúc khi nghĩ đến những đứa học
trò của mẹ đã xếp bút nghiên để ra chiến trường.
Làm sao mẹ không thương yêu, khen ngợi lẫn kính phục
những đứa trẻ đó được.
-
Nhưng con nghe có người nói trong gia đình, nếu người vợ
học cao hơn chồng thì người chồng thường tự ti mặc
cảm, từ đó khó có hạnh phúc hoàn toàn.
Mẹ
tát nhẹ vào má tôi:
-
Đừng nói bậy. Ba con bằng cấp có bằng mẹ đâu, và
gia đình mình không hạnh phúc à? Hơn nữa, cậu Định có
bỏ học đâu. Định đã chọn trường Võ bị Đà lạt
là đáp ứng hai mục tiêu của người con trai, thứ nhất
là khoác chiến y, thứ hai là tiếp tục học hành trong
bốn năm liên tiếp rồi ra trường hẳn hòi. Trong bốn
năm đó, sinh viên Võ bị học chương trình đại học và
khi ra trường được chính thức công nhận là có kiến
thức ngang với kỹ sư công nghệ.
Tôi
ngạc nhiên:
-
Sao mẹ biết rõ quá vậy?
-
Trường mình có đến bốn giáo sư nam là sĩ quan của bộ
Quốc phòng biệt phái cho bộ Giáo dục. Từ hôm biết cậu
Định vào học trường Võ bị, bỗng nhiên mẹ muốn tìm
hiểu ngôi trường quân sự nầy nên đã hỏi thăm mấy
ông giáo sư biệt phái đó. Có thầy Minh trước đã dạy
văn hóa ở trường Võ bị nên biết rất rõ và đã giải
thích mọi thắc mắc của mẹ.
-
Nhưng ra trường thì họ đi đánh nhau, kiến thức đại
học đó có nghĩa lý gì?
-
Chiến tranh có lúc phải chấm dứt, họ sẽ trở về dùng
kiến thức của mình để góp phần xây dựng lại quê
hương. Thôi nói chuyện bao nhiêu đó đủ rồi. Con đi tắm
đi, ba sắp về rồi đó.
Mẹ
nói xong quay sang bếp chăm chú vào công việc nấu ăn. Tôi
tắm xong, nghe lòng phơi phới.
Tôi
biết mình đã yêu anh Định, không rõ tự lúc nào. Bây
giờ được mẹ tỏ ý đồng tình, bảo tôi không vui sao
được.
Những
lá thư tiếp tục đan nhau trên bầu trời Sài gòn Đà
lạt. Lời thơ của tôi bây giờ không còn kiểu e ấp của
con gái mới lớn lên nữa mà là những lời nhớ nhung
nồng nàn thành thực, của một tình yêu gởi gắm cho một
tình yêu.
Mùa
hè năm đó, mẹ và tôi quyết định đi du lịch ở Đà
lạt. Ba không đi vì phải làm việc liên tục chứ không
có mùa hè như hai mẹ con. Nhiều ngày trước đó, tôi
viết thư báo tin cho anh Định biết. Chắc chắn, anh mong
ngày mong đêm được gặp tôi tại xứ sở thơ mộng đó.
Mẹ
và tôi lên ở nhờ nhà của hai vợ chồng bạn của mẹ,
đang là giáo sư trường trung học Trần Hưng Đạo. Nhà
là một biệt thự nho nhỏ ở kế trường, nằm trên bờ
hồ. Trong lá thư gởi cho anh Định vài ngày trước khi
đi, tôi đã nói rõ địa chỉ.
Chúng
tôi đến Đà lạt vào ngày thứ sáu. Suốt ngày thứ bảy,
hai mẹ con dạo chơi trên bờ hồ Xuân hương, thác Prenn
rồi thác Cam ly. Tôi đoán hôm sau chúa nhật, hầu hết
sinh viên sĩ quan được đi dạo phố và anh Định sẽ đến
gặp tôi sớm.
Không
ngờ ngay chiều thứ bảy, anh lù lù bước vào khi chúng
tôi đang ăn cơm. Anh mặc bộ quân phục đi phép trông hơi
lạ và bảnh trai hơn khi tôi gặp ở Sài gòn. Nét mặt
anh vô cùng rạng rỡ trong khi tôi sửng sốt buông đũa
nhìn anh trân trân. Anh giải thích rằng đã nhờ ông đại
úy đại đội trưởng xin được cho anh cái phép đặc
biệt để ra gặp gia đình. Ông đại úy biết cha ghẻ
của anh là thiếu tá quận trưởng nên có phần nể nang.
Sau
bữa cơm thì đã về đêm nhưng trời không tối hẳn vì
đêm nay là mười bốn âm lịch, trăng đã lên quá đọt
thông và sáng chói tên bầu trời không một sợi mây. Tôi
xin mẹ ra sân ngắm trăng với Định. Mẹ mỉm cười gật
đầu.
Vừa
ra khỏi nhà, anh vội vã nắm tay tôi. Tôi rùng mình vì
lần đầu tiên, tay tôi nằm gọn trong tay một người con
trai. Tôi mặc cho anh dẫn tôi ra khỏi sân nhà, đi vòng bờ
hồ, qua một chiếc cầu nho nhỏ. Dưới một gốc thông
già, anh dừng lại nắm cả hai bàn tay tôi. Tôi nghe giọng
nói đầy xúc động qua hơi thở:
-
Hồng Ngọc, anh yêu em.
Vòng
tay lực lưỡng của anh siết mạnh làm ngực tôi áp sát
vào tấm thân cường tráng của anh. Thân tôi như mềm
nhũn ra khi anh đưa tay nâng mặt tôi lên và môi anh áp
mạnh vào môi tôi. Tôi đê mê trong một cảm giác bàng
hoàng sung sướng, cái cảm giác mà từ trước đến giờ
tôi không hề tưởng tượng có trên cõi đời nầy.
Rồi
bỗng nhiên, một nỗi lo sợ chen vào. Đêm Đà lạt thì
hoàn toàn vắng lặng, chung quanh không một bóng người.
Nỗi lo sợ có lẽ do bản năng của người trinh nữ được
nuôi dưỡng trong một gia đình gia giáo. Tôi cảm thấy
rằng, nếu Định tiến xa hơn, lôi kéo tôi vào con đường
xác thịt thì trong trạng thái đê mê hiện tại, tôi khó
có đủ sức từ chối sự dâng hiến đời con gái của
mình. Thực tình, ý nghĩ của tôi là như thế.
Nhưng
không, anh rời tôi ra, nắm hai tay tôi thì thào:
-
Hồng Ngọc ơi, anh yêu em suốt đời.
Sau
đó, anh dẫn tôi về trả cho mẹ tôi.
Trên
môi tôi vẫn còn tê dại nụ hôn đầu đời.
Cho
đến bây giờ, sau gần hai mươi năm, khi ngồi viết những
dòng hồi ký nầy, tôi vẫn còn xúc động như chuyện vừa
mới xảy ra ngày hôm qua. Từ trong sâu thẳm của cõi lòng
chai đá, cảm xúc ngày xưa vẫn còn đó nguyên vẹn. Đôi
môi ấm áp của Định, vòng tay vững chãi của anh, ánh
mắt si mê tình đầu và không gian êm đềm dưới bóng
thông già... tất cả sẽ theo tôi đến cuối cuộc đời.
Tất cả chìm đắm trong tiếng gọi mãi mãi yêu thương:
Định ơi.
Sáng
hôm sau, khi cả nhà ăn sáng, Định lại đến. Anh bảo
hôm nay là phép chính thức của tất cả sinh viên sĩ
quan. Anh xin mẹ cho phép anh đưa tôi đi dạo phố. Mẹ
bằng lòng.
Tôi
mặc chiếc áo dài màu xanh da trời, bên ngoài khoác áo
len màu trắng, thoa một ít phấn trên mặt và một lớp
son mỏng trên đôi môi. Mẹ bảo người Sài gòn lên Đà
lạt chưa quen với cái lạnh nên môi thường bị tái.
Khi
tôi vừa bước ra khỏi cửa buồng, Định đang ngồi bỗng
đứng bật dậy, nhìn tôi sững sờ. Đây không phải lần
đầu tiên tôi nhận được ánh mắt ngưỡng mộ từ
những người khác phái. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi
thấy hạnh phúc khi biết người yêu đang chiêm ngưỡng
nhan sắc của mình.
Khi
chúng tôi ra đến đường lộ, trời khá lạnh, dù mặt
trời đã lên khỏi những dãy núi, khắp nơi tràn ngập
ánh sáng của buổi bình minh rực rỡ. Chúng tôi đón xe
ra công trường Hòa bình. Tay trong tay, chúng tôi dạo quanh
chợ Đà lạt, thong thả dạo trên bờ hồ Xuân hương,
qua khỏi vườn Bích câu thì chúng tôi leo lên đồi Cù.
Ngọn
đồi thực vắng vẻ. Dưới chân chúng tôi, cỏ xanh mơn
mởn, hơi dợn sóng khi ngọn gió lạnh thổi qua. Tôi
thoáng rùng mình. Định dừng lại, xoay qua nhẹ nhàng nắm
lấy hai vai tôi. Tôi ngước lên nhìn, bắt gặp đôi mắt
đam mê của anh. Anh đưa hai bàn tay áp vào hai má của
tôi. Tôi nhắm mắt lại. Khi môi anh chạm vào môi tôi,
tôi đưa hai tay ôm chặt lưng anh vì sợ mình bay bổng
khỏi thế gian nầy.
Tôi
không rõ nụ hôn trên đồi vắng nầy kéo dài bao lâu.
Tôi bừng tỉnh, ngạc nhiên thấy mình gục đầu trên vai
anh. Chúng tôi lại hôn nhau mê mải rồi rời nhau ra. Thời
gian không còn nghĩa lý gì nữa, trong thời khắc đó, tâm
hồn chúng tôi đã vĩnh viễn thuộc về nhau.
*
*
*
Tháng
giêng 1973, hiệp định hòa bình Paris được ký kết. Định
thức suốt đêm viết cho tôi một bức thư thực dài kể
nỗi vui sướng trong lòng vì chiến tranh đang chấm dứt,
khói lửa không còn thiêu đốt quê hương thân yêu, xóm
làng điêu tàn sẽ từ từ trỗi dậy, trẻ em vui vẻ đến
trường, lúa sẽ mọc lên xanh mơn mởn trên những cánh
đồng, đêm đêm tiếng hò tiếng hát sẽ vang lên ở tận
những xóm làng xa xôi nhất.
Cảnh
thanh bình trên đất nước đã chịu đựng gần ba mươi
năm chiến tranh được Định ca ngợi bằng tất cả tấm
lòng yêu quê hương, yêu đồng bào. Lời ca ngợi quá sức
đẹp đẽ làm cho tôi xúc động tận tâm can, hai giọt
nước mắt tràn ra, lăn dài xuống má.
Tôi
kéo tay áo lau nước mắt rồi đọc tiếp thư anh:
“…Còn
vài tháng nữa anh sẽ tốt nghiệp, trở thành một sĩ
quan quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đất nước không còn
chiến tranh, những người lính chúng anh, có người sẽ
vẫn tiếp tục cầm súng để bảo vệ hòa bình, có người
sẽ buông súng ra để rảnh tay góp phần kiến thiết quê
hương. Và anh cũng sẽ tạo dựng một mái nhà trong đó
anh sống bên em, rồi một vài đứa con sẽ ra đời, chứng
minh cho tình yêu tuyệt vời của chúng mình…”.
Sau
những ý tưởng lãng mạn thăng hoa đó, Định bàn những
việc có tính thực tiễn. Anh đề nghị sau khi học xong
trường Võ bị, anh sẽ xin mẹ anh và cha ghẻ lên làm lễ
hỏi để anh được phép lui tới thăm viếng tôi mà không
sợ hàng xóm dị nghị. Còn hơn một năm nữa tôi cũng sẽ
tốt nghiệp đại học Sư phạm. Trong thời gian một năm
đó, Định sẽ cố gắng lo cho có một tổ ấm để sau
khi tôi có nhiệm sở xong thì chúng tôi sẽ tổ chức hôn
lễ để nên nghĩa vợ chồng.
Lá
thư của anh làm tôi vui sướng vô ngần. Trước mắt tôi,
tương lai thực sáng rỡ, tràn đầy hạnh phúc.
Tôi
nhớ mẹ đã từng dạy rằng chúng tôi được quyền tự
do trong tình yêu nhưng mọi tính toán về hôn nhân phải
xin ý kiến của cha mẹ. Do đó một lần nữa tôi đưa cả
lá thư của anh Định cho mẹ đọc và chờ đợi nụ cười
vui tươi trên khuôn mặt phúc hậu của mẹ. Nhưng không,
sau khi đọc xong, mẹ im lặng, chậm rãi xếp lá thư lại
cho vào bao, nét mặt có vẻ đăm chiêu, lằn nhăn trên
trán hình như lộ rõ hơn.
Một
bóng mây đen vừa tràn đến che phủ vầng hào quang của
hạnh phúc. Tôi thầm đoán được, cuộc hôn nhân này có
những điều trắc trở. Vài phút sau, mẹ quay sang tôi,
nét bình thản trở lại trên khuôn mặt. Mẹ vuốt tóc
tôi và nói với giọng thực dịu dàng:
-
Cậu Định tính chuyện hôn nhân của hai đứa như thế
cũng được. Mẹ cũng vui lòng cho hai đứa sau nầy thành
vợ thành chồng. Tuy nhiên….
Mẹ
ngừng nói làm nỗi lo lắng của tôi tăng lên. Tôi cầm
tay mẹ lắc nhẹ:
-
Có điều không ổn phải không mẹ?
Mẹ
cười:
-
Ừ, nhưng không sao. Mẹ sẽ giải quyết được.
-
Việc... đó phải không?
-
Ừ, việc chính kiến của ba con.
Tôi
không hoảng hốt, bởi đó là điều ngay từ đầu tôi và
mẹ đã lo sợ. Chỉ vì từ hơn một năm nay, lặn ngụp
trong tình yêu say đắm đầu đời, tôi không còn quan tâm
đến mối căm thù của ba tôi. Nay mẹ nhắc lại tôi càng
biết rõ, mình không thể phủ nhận chính kiến của ba để
mà an nhiên đến với Định. Tôi lo lắng hỏi nhỏ:
-
Ba sẽ phản đối vì anh Định là sĩ quan Cộng hòa phải
không mẹ?
Không
ngờ mẹ lắc đầu:
-
Ba con sẽ không phản đối đâu. Lấy lý do gì mà phản
đối. Nhưng mà có điều nầy mẹ đang suy nghĩ.
Mẹ
lại ngừng nói. Tôi đoán mẹ đang có một tâm sự nặng
nề. Từ trước đến nay, mẹ luôn luôn có tư thái một
giáo sư văn chương, ăn nói lưu loát, diễn tả tư tưởng
một cách rõ ràng dứt khoát, rất ít khi thấy mẹ nói mà
cứ ngập ngừng như thế nầy.
Tôi
cầm tay mẹ, mân mê mấy ngón tay:
-
Mẹ có ý nghĩ thế nào, nói cho con nghe đi. Con trưởng
thành rồi, mẹ luôn luôn nhắc đi nhắc lại điều đó
mà.
-
Được rồi, mẹ nói rõ cho con nghe điều mẹ đang lo
nghĩ. Anh Quân con mất rồi, mẹ chỉ còn một mình con.
Rồi con phải có chồng. Nếu con vu quy về nhà chồng thì
ba mẹ, hai vợ chồng già sống với nhau, chắc phải buồn
bã vô cùng.
Giọng
mẹ trầm hẳn xuống làm tôi rất cảm động. Tôi ngước
lên nhìn mẹ:
-
Nhưng anh Định đâu có thuận với ông cha ghẻ nên đám
cưới xong thì chắc chắn, không có chuyện chúng con về
ở dưới đó. Chúng con sẽ ở đây với ba mẹ, những
đứa con của chúng con sẽ được mẹ săn sóc dạy dỗ.
Mẹ đừng lo, anh Định cũng sẽ thích như thế.
Tôi
thấy đôi mắt của mẹ ánh lên niềm vui nên nói tiếp
một cách sôi nổi:
-
Con sẽ nói với anh Định cố gắng thay thế anh Quân làm
nguồn vui trong tuổi già của ba mẹ.
Mẹ
ngồi thẳng dậy:
-
Mẹ cũng mong được như thế nhưng chỉ ngại cái tình
cảm của ba con đối với chàng rể là sĩ quan xuất thân
từ trường Võ bị, mà Hà nội và Mặt trận Giải phóng
gọi là nơi đào tạo những tay sai đắc lực và cực kỳ
phản động của Mỹ. Ba con bẩm tính hiền lành nhưng
đụng vào vấn đề chính kiến thì ông mất bình tĩnh,
nói không giữ lời, không nể nang ai cả. Con có nhớ lần
đầu tiên, Định đến đây báo tin anh Quân con bị cách
mạng giết, ông nổi giận đuổi cậu Định ra khỏi nhà
không?
Tôi
đáp lời một cách thê lương:
-
Dạ, làm sao con quên được cái hôm khủng khiếp đó.
-
Vì vậy mẹ sợ rằng sau nầy, cậu Định về đây sống
với gia đình mình, khó có thể đem lại cho ba con tình
thương đậm đà mà ba con dành cho anh Quân của con lúc
còn sống. Đôi khi lỡ lời lại xung khắc với nhau. Mẹ
sợ tuổi già của ông không hạnh phúc thì tội nghiệp
lắm.
Tôi
cảm phục tấm lòng thương chồng, thương con của mẹ.
Tôi cố gắng an ủi mẹ:
-
Con sẽ cố gắng thuyết phục anh Định dung hòa vấn đề
chính kiến với ba. Con thấy anh Định có tỏ ra thù ghét
cộng sản lắm đâu. Anh đã từng vào khu sống với họ
trong gần một tháng. Anh đi lính là vì bị bắt buộc đó
thôi. Trái lại anh ấy còn tỏ ra thù ghét ông cha ghẻ
tham nhũng là nhân viên cao cấp của chính phủ quốc gia
nữa.
Mẹ
lắc đầu:
-
Đúng là khi chưa vào lính, nó chỉ thấy đường lối
cộng sản sai nhưng không thù ghét. Thế nhưng, sau hơn ba
năm học ở trường Võ bị, tư tưởng nó biến chuyển
rõ rệt. Mẹ thấy rõ điều đó, mà nó cũng thành thật
xác nhận như thế với mẹ trong lần gặp mẹ cuối cùng.
Bây giờ nó nhất định phải đuổi cộng sản ra khỏi
miền Nam để dân chúng được an cư lạc nghiệp.
-
Có lẽ anh Định đã bị mấy ông tâm lý chiến trường
Võ bị nhồi nhét lòng căm thù cộng sản.
-
Dĩ nhiên, nó đã học những tài liệu của chiến tranh
chính trị, nhưng điều căn bản là tự nó đã nhìn thấy
tội ác của cộng sản khi gây ra cuộc chiến tranh xâm
lược để tàn phá cả miền Nam của nó. Rồi nó nghe các
sĩ quan huấn luyện kể nỗi khổ của chiến trường.
Định là đứa rất thông minh và có lòng yêu nước nên
chắc chắn phải thấm thía điều đó. Trước đây, khi
còn sống an lành trong các thành phố, ý nghĩ đó chưa sâu
sắc; còn bây giờ vào lính rồi, cuộc sống yên vui chấm
dứt, lại sắp phải đem cả sinh mạng mình vào đối đầu
với tội ác đó thì không có lòng căm thù sao được.
Hơn nữa, mai nầy hết học, cầm súng ra chiến trường,
chứng kiến tận mắt nỗi khổ cùng cực của đồng bào
do cuộc chiến tranh xâm lược gây ra thì lòng căm thù còn
dâng cao đến đâu mà biết trước được.
Tôi
hoảng quá ngắt lời mẹ:
-
Nhưng hòa bình đang đến. Người ta kêu gọi hòa hợp hòa
giải dân tộc. Những người đã từng cầm súng tìm cách
giết nhau còn có thể hòa giải với nhau, huống chi ba với
anh Định mới chỉ bất đồng chính kiến mà thôi thì
không “hòa giải hòa hợp” được với nhau sao? Con nghĩ
rằng chiến tranh chấm dứt thì tiêu tan mọi hận thù.
Mẹ
lắc đầu:
-
Lúc đầu, nghe hiệp định hòa bình Paris được ký kết,
mẹ và nhiều người khác đều mừng cho đất nước,
nhưng ba con quả quyết rằng cách mạng chưa thôi sử dụng
bạo lực một khi chưa đuổi được Mỹ và đánh bại
phe quốc gia để giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, rồi chủ nghĩa cộng
sản. Ông bảo thường xuyên bắt nghe các đài phát thanh
Hà nội, Giải phóng, Bắc kinh, Mạc tư khoa. Ông tổng hợp
các bài bình luận chính thức và xác quyết rằng phe cộng
sản sử dụng hội nghị chỉ để tuyên truyền mà thôi
chứ không phải để có hòa bình. Vì quá tha thiết và
vui sướng với hòa bình nên phe quốc gia sẽ suy giảm
tinh thần chiến đấu, lúc đó chiến thắng của cộng
sản sẽ đến nhanh hơn.
-
Theo mẹ thì điều đó có đúng như thế không?
-
Về khả năng nhận định thời cuộc thì mẹ không bằng
ba con. Nghe ông phân tích, mẹ cũng nghi ngờ cái thiện chí
hòa bình của cộng sản. Khi thấy ông vừa nhận định
thời cuộc một cách sắc bén, vừa tỏ ra phấn khởi với
tính hiếu chiến của cộng sản, mẹ rất phiền lòng
nhưng cũng phải cố gắng “hòa hợp hòa giải” với
ổng.
Tôi
cảm thấy bực mình:
-
Con hiểu mẹ. Ông ngoại là một nhà nho, đã dạy mẹ câu
“tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu”
nên mẹ luôn luôn tự gò ép theo ý tưởng của ba. Con thì
khác, con mong muốn hòa bình và căm ghét chủ trương gây
chiến của cộng sản.
Mẹ
thở dài, giọng trầm hẳn xuống:
-
Con đang thành người trí thức đúng nghĩa, con có đầy
đủ quyền tự do tư tưởng.
Tôi
cầm bàn tay của mẹ áp lên mặt mình, nghe trong lòng dậy
lên cuồn cuộn nỗi thương yêu. Tôi cố gắng lấy giọng
bình thường nói với mẹ:
-
Còn đề nghị của anh Định khi ra trường xin làm đám
hỏi mẹ tính sao?
-
Không những mẹ hoàn toàn đồng ý mà còn vui mừng nữa.
-
Còn ba con?
-
Con đừng lo, để mẹ dàn xếp. Mẹ đã nói rồi. Ba con
không thể vin vào sự bất đồng chính kiến để cản
trở việc hôn nhân của con cái. Còn chuyện tình cảm
giữa hai người đàn ông là chuyện về sau. Mẹ hy vọng
rằng họ là những người có đạo đức thì mọi chuyện
có thể dàn xếp ổn thỏa. Hơn nữa, giữa hai người đó
còn có con làm trung gian. Với bên nầy, con là con gái
cưng, với bên kia, con là vợ hiền. Con sẽ thắt mối dây
tình cảm giữa hai người.
Tôi
vui sướng vì lời nói của mẹ nhưng vẫn còn âu lo:
-
Anh Định bảo rằng chính ông cha ghẻ sẽ làm trưởng
đoàn nhà trai lên đây làm lễ hỏi. Ông ấy vừa là sĩ
quan cao cấp, vừa là quận trưởng.
Mẹ
cười:
-
Ông ấy vừa là ngụy quân, vừa là ngụy quyền theo luận
điệu trong các bài phát thanh của cộng sản mà ba con
nghe được và kể lại với mẹ. Nhưng đó là chuyện
tuyên truyền đáng chán của họ. Còn về việc của mình,
theo lễ nghi cổ truyền, như thế là rất tốt. Ông quận
trưởng thay thế thân phụ của cậu Định, đó là điều
hợp đạo lý. Vả lại, ông lên đây làm lễ xong rồi về
ngay chứ có ở lâu đâu mà sợ đụng độ tư tưởng với
ba con.
Thế
là mẹ giải quyết xong mọi thắc mắc của tôi. Tôi rất
vui mừng và biết ơn mẹ vô cùng. Nhiều đêm sau đó, tôi
nghe trong buồng của ba mẹ vọng ra tiếng bàn cãi lắm
lúc có vẻ lớn giọng. Sáng ra tôi hỏi thì mẹ tươi
cười, nói mọi việc đều tốt đẹp.
Mùa
hè, vào kỳ nghỉ phép ra trường của anh Định, lễ hỏi
được tổ chức thực trang trọng với rất đông khách
mời. Họ ngồi chật cả ba cái sân của nhà tôi và hai
nhà bên cạnh. Từ Vĩnh long, một đoàn xe du lịch sang
trọng đưa nhà trai lên. Ai cũng trầm trồ lễ hỏi to và
trang trọng hơn lễ cưới nữa.
Ông
quận trưởng mặc thường phục, nét mặt hòa nhã nhưng
nghiêm trang. Nhìn ông quận trưởng và ba tôi bắt tay nhau
một cách thân mật, lòng tôi tràn đầy hân hoan, dù biết
cái sự thân mật đó chỉ là bề ngoài. Mẹ của anh Định
là một người đàn bà khá đẹp và phúc hậu, cử chỉ
hơi lúng túng quê mùa. Mấy đứa em Định theo sau vui vẻ
nhộn nhịp. Nhưng tôi không còn dịp nghĩ nhiều đến gia
đình của Định. Chồng tương lai của tôi ở đó, trang
trọng trước bàn thờ gia tiên. Trong làn khói hương trầm,
nước mắt tôi ứa ra vì hạnh phúc.
Sau
lễ hỏi, Định lên trình diện bộ tư lệnh sư đoàn Năm
đóng tại Lai khê, và được bộ tư lệnh giữ lại làm
sĩ quan phụ trách “không trợ” trong phòng hành quân.
Đối với tôi, đó là điều đáng mừng vì hai lý do. Thứ
nhất là khỏi phải cầm súng ra mặt trận, thứ là Lai
khê nằm trên quốc lộ Mười bốn, cách Sài gòn không xa
lắm, đường đi lại khá an ninh.
Anh
về thăm tôi hàng tuần. Mỗi lần về, anh đều mang quà
là những trái cây của miền Đông. Anh niềm nở và rất
lễ phép với ba mẹ. Tôi để ý thái độ của ba, thấy
ông vẫn giữ lịch sự với anh nhưng không mấy thân mật.
Có vẻ như ông bất đắc dĩ phải chấp nhận chàng rể
tương lai, kiên quyết tạo một khoảng cách tình cảm để
giữ trọn chính kiến và lòng căm thù xưa cũ của ông.
Tôi
không vui lắm về điều nầy nhưng tạm thời cứ chấp
nhận sự “hòa hợp hòa giải” trong gia đình.
Quả
như lời nhận xét của ba tôi, ký hiệp định Paris là
phe tự do lọt vào âm mưu đen tối của cộng sản. Mỹ
bỏ miền Nam, quốc hội Mỹ cúp viện trợ quân sự.
Trong khi miền Nam nghiêm túc thi hành các điều khoản của
hiệp định thì miền Bắc vừa lên tiếng tố cáo miền
Nam vi phạm hiệp định, vừa bí mật ồ ạt xâm nhập
vào miền Nam với vô số binh lính và vũ khí tối tân của
Liên xô và Trung cộng. Miền Nam kêu la thì Mỹ và các
nước trên thế giới bịt tai lại, mặc cho miền Nam kêu
la. Người ta đã quá chán ngán chiến tranh Việt Nam rồi
nên không muốn để ý đến số phận của nhân dân miền
Nam nữa.
Trong
khi sức mạnh quân sự của quân Giải phóng tăng lên rõ
rệt nhờ sự bổ sung hết sức dồi dào từ miền Bắc
thì sức chiến đấu của miền Nam càng ngày càng đi
xuống. Súng ống đạn dược không được bổ sung, đạn
đại pháo được dùng một cách dè xẻn. Không quân trước
đây là ưu thế của miền Nam, bây giờ ưu thế đó giảm
sút trầm trọng vì thiếu những cơ phận để thay thế.
Qua
năm 1974, súng nổ rền khắp bốn vùng chiến thuật. Lợi
dụng việc Mỹ và các đồng minh gồm Đại hàn, Úc, Thái
lan, Gia nã đại rút ra khỏi miền Nam, Việt cộng tích
cực mở các chiến dịch tấn công. Trong khi đó, Mỹ luôn
luôn nhắc nhở Việt Nam Cộng hòa tuân thủ hiệp định
Paris nên miền Nam bị trói tay, không thể mở những cuộc
hành quân quy mô, dù chỉ để tự vệ. Mỗi ngày qua, Việt
Nam Cộng hòa càng bị yếu thế, Việt cộng kiểm soát
được những vùng đồng bằng rộng lớn và những vùng
rừng núi bao la.
Cuối
năm 1974, sau cuộc trình bày tình hình đất nước của
tổng thống Nguyễn văn Thiệu với giới trí thức tại
giảng đường của trường đại học Sư phạm Kỹ thuật,
một cuộc mạn đàm thân mật diễn ra giữa các giáo sư
và sinh viên ưu tú. Cử tọa đặc biệt chú ý đến ý
kiến của một giáo sư như sau:
-
Ai trong chúng ta lại không vui mừng khi hiệp định Paris
được ký kết. Không riêng chúng ta mà cả thế giới đều
vui mừng, vì chiến tranh Việt Nam gây nên một sự nhức
nhối trong lương tâm nhân loại. Nhưng bây giờ chúng ta
mới thấy mình lầm. Hiệp định Paris không đem lại hòa
bình mà chỉ là một cách để cộng sản dành ưu thế,
nhanh chóng dùng chiến tranh kết liễu Việt Nam Cộng hòa.
Trong những người lầm to, buồn cười nhất chính là
quốc hội Thụy điển, khi hí hửng tặng giải thưởng
Nobel hòa bình cho hai nhà ngoại giao Mỹ và cộng sản Bắc
Việt. Nhà ngoại giao Mỹ khoái chí bỏ túi nửa triệu đô
la. Ông ấy khoái chí cũng phải vì với biệt tài, ông
đạo diễn cho Mỹ ký hiệp định Paris không cốt đem lại
hòa bình cho Việt Nam mà để chuyển sức mạnh sang giúp
cho dân tộc Do thái chống lại cả khối Ả rập. Còn nhà
ngoại giao Bắc Việt, tuân lệnh đảng, từ chối không
nhận giải, vì đảng có chủ trương hòa bình đâu mà
lãnh giải hòa bình. Đó là sự thành thật rất hiếm có
của người cộng sản. Riêng nhà ngoại giao Bắc Việt
cũng không buồn vì nếu nhận nửa triệu đô la về thì
ông cũng phải giao hết cho nhà nước. Vậy cả hai ông
được đề nghị trao giải Nobel hòa bình chẳng ông nào
hành động vì hòa bình Việt Nam cả.
Vị
giáo sư nói đến đây thì kết thúc bài phát biểu. Một
sinh viên đứng lên xin hỏi:
-
Thưa thầy, quốc hội Thụy điển có biết mình lầm hay
không và sau đó họ có thái độ thế nào?
Vị
giáo sư trả lời:
-
Tôi không biết rõ vì sau đó không có thông tin nào về
quốc hội Thụy điển. Tuy nhiên, theo tôi suy đoán, khi
thấy nhà ngoại giao Bắc Việt từ chối giải Nobel thì
họ bắt đầu hiểu được thực chất của cái hiệp
định đó. Nhưng lỡ tuyên bố rồi thì làm sao nói ngược
lại được. Vả lại, nhà ngoại giao Bắc Việt từ chối
nhận giải thì họ đỡ phải chi một món tiền lớn, cho
nên họ giữ im lặng. Đúng, im lặng là vàng!
Lời
phát biểu nầy làm cho cử tọa phì cười. Những nụ
cười bàng quan vô tư rồi phải trả bằng cái giá quá đắt.