Chiếc
taxi
chở bé Hoài, mẹ và cô của cháu đến nhà thương Nhi
đồng khi trời vừa sáng. Lan bế con vào nơi nhận bệnh.
Bé được đưa ngay vào phòng cấp cứu vì lại sốt cao.
Hai
giờ sau, bé được đưa lên phòng bệnh nhân ở lầu một.
Theo ngón tay chỉ của cô y tá, Lan đặt bé vào chiếc
giường duy nhất còn trống trong phòng. Bé mở mắt nhìn
mẹ, lờ đờ mệt nhọc. Lan quỳ xuống đất, ngực tựa
vào thành giường, cầm bàn tay nhỏ xíu áp vào môi mình.
Nàng giữ nguyên vị thế nầy một lúc, cho đến khi bé
từ từ nhắm mắt lại và ngủ yên.
Nàng
đứng dậy, cơ thể bải hoải, mắt cay vì thức suốt
đêm rồi. Lan ngồi phịch xuống ghế, rã rời nhưng cảm
thấy thoải mái vì bớt lo lắng. Bây giờ, bình tĩnh lại,
nàng nhìn quanh, thấy căn phòng sáng sủa dưới ánh sáng
của hai bóng đèn dài từ trên trần chiếu xuống, trong
khi bên ngoài, ánh sáng mờ đục vì bầu trời đầy mây.
Phòng có sáu giường với sáu bệnh nhân nhỏ xíu, nhưng
đến hơn mười người lớn đang đứng ngồi lộn xộn.
Vài người thấy Lan nhìn thì gật đầu chào. Lan chào đáp
lễ.
Nàng
nhìn ra bên ngoài qua khung cửa, xuyên qua hành lang rộng.
Bầu trời xám xịt, mây đen vùn vụt bay qua. Mưa lất
phất rơi, gió giật từng cơn làm cho các ngọn cây quằn
quại trong bầu không khí ẩm ướt và ảm đạm. Trận
mưa đã kéo dài suốt đêm cho đến tận bây giờ, khi thì
ào ào nặng hột, khi thì rì rào nho nhỏ. Nàng chép miệng:
-
Sao chị Điệp đi lâu quá, có lẽ nhà thuốc chưa mở
cửa.
Khi
nãy, ở dưới phòng cấp cứu, người ta khám bệnh cho
bé, chích thuốc, rút máu để thử và kê toa. Vị bác sĩ
trực lấy viết gạch dưới tên một món thuốc, trao cho
Điệp và bảo:
-
Cô ra tiệm thuốc ngoài cổng nhà thương, mua thứ nầy;
các món khác ở đây có sẵn.
Điệp
cầm mảnh giấy đi, đến giờ nầy vẫn chưa thấy về.
Lan đứng dậy bước ra cửa nhìn suốt hành lang thì vừa
đúng lúc Điệp xuất hiện ở đầu cầu thang. Điệp tất
tả chạy đến hỏi Lan, mắt còn nguyên nét lo âu:
-
Sao, bé thế nào?
-
Dạ, bé ngủ; bớt sốt rồi.
Điệp
lách qua Lan, bước vào phòng nhìn quanh và nhận ra ngay
giường cháu ở cuối phòng. Chị bước nhanh đến, rồi
cũng như Lan khi nãy, Điệp quỳ xuống mép giường, hai
tay ôm nhẹ cái khăn trắng đang phủ lên mình bé. Hơi thở
bé đều đặn. Nét thanh thoát từ khuôn mặt thực mỹ
miều của bé làm cho bao nhiêu mệt nhọc và lo âu trong
lòng Điệp tan biến. Điệp đứng dậy, kéo Lan ra cửa.
Lan ngạc nhiên rảo bước theo sau. Họ đứng tựa cửa để
tránh cái hành lang sũng nước. Điệp nói nhanh:
-
Ông ngoại cháu ở ngoài cổng.
Lan
sửng sốt:
-
Trời đất!
Điệp
vội vàng nói tiếp:
-
Chị chạy ra cổng để mua thuốc, trong lòng bấn loạn
nên chẳng để ý chung quanh. Tay chị vịn cái bục của
hiệu thuốc, chờ đợi. Bỗng có tiếng nói sau lưng chị:
“Con Hoài ra sao
rồi?”. Chị quay
lại, mặt gần chạm vào cặp mắt mở to thô lố. Chị
giật thót mình, run lên. Nhưng chỉ một giây sau, chị
nhận ra là ông ngoại con Hoài. Ông đi tay không, áo quần
gần như ướt hết, người run run xiêu vẹo. Ông lặp lại
câu hỏi. Chị hoảng quá, trả lời đại:
“-
Khỏe rồi. Sao bác thế nầy?
“-
Tao…, à tui đi xích lô đến đây hồi sáng, xin cái thằng
kia kìa mà nó không cho vô.
“Ông
đưa tay chỉ về phía cổng nhà thương rồi nói tiếp:
“-
Tui năn nỉ, nó cũng không cho vô. Nó nói trưa mười một
giờ mới được vô. Nó nói tui về đi, còn sớm lắm. Về
sao được, phải thấy mặt con nhỏ cái đã.
“Ông
nhìn vào bệnh viện, giọng phân trần:
“-
Tui muốn vô ngay để biết con nhỏ thế nào nhưng mà nhà
thương to như vầy, vô cũng không tìm được con nhỏ.
Lan
sốt ruột, ngắt lời chị:
-
Chị Điệp, ba em bây giờ ở đâu rồi?
-
Chị muốn an ủi ông nên nói với ông rằng con Hoài đã
được khám bệnh xong và đang được săn sóc, không còn
gì đáng lo. Ông cụ nhất định đòi vào thăm cháu, nhưng
chị không chịu vì áo quần ông ướt cả mà người thì
run bần bật vì lạnh.
Lan
lo lắng ngắt lời:
-
Rồi sao nữa chị? Ba em đâu rồi?
-
Chị nhận thuốc, trả tiền xong, kéo ông cụ đến chiếc
taxi,
ấn ông vào, dù ông giãy nảy lên phản đối. Chị cho
bác tài xế địa chỉ, đưa trả tiền trước rồi hối
xe đi nhanh về nhà.
Điệp
thở dài:
-
Ông cụ bị bệnh mất. Tội nghiệp!
Lan
nghe chị kể xong, lòng thắt lại, nước mắt chực trào
ra. Nàng nói lí nhí:
-
Cám ơn chị. Em lo quá. Con Hoài đau, rồi bây giờ tới
ông ngoại nó!
-
Khổ! Thôi, em vào với cháu đi, chị về xem ông cụ và
nhà cửa ra sao. Không biết sáng nay anh Quang đi dạy có
nhớ tạt qua trường nộp đơn xin nghỉ cho chị hay không.
Còn mấy bữa nữa là hết năm học, chị không thể nghỉ
nhiều để phụ với em lo cho cháu được.
Điệp
bỗng mỉm cười khi nhớ đến chồng:
-
Cái ông tướng đó, khi bàn cãi lý thuyết thì hùng hồn
trông oai phong lẫm liệt. Thế mà khuya và sáng nay, cứ
đứng xớ rớ, sai đâu làm đó, trông thực là tội
nghiệp.
Điệp
trở vào phòng đến hôn bé, bước ra cửa rồi dừng lại,
trở vào, nói với Lan:
-
Em ở trong nầy một mình, sợ lo không xuể. Để chị xem
có nhờ được ai không. Dì Ba Nở thì tốt nhất, nhưng
không được đâu. Khi em mới sinh, dì ấy đã giúp không
công cả tháng trời, bỏ cả công ăn việc làm. Thôi về
nhà rồi hẳn tính. Chị về đây.
Lan
im lặng nghe chị độc diễn một hơi dài, rồi nhìn lưng
chị biến mất sau khung cửa.
Điệp
đi một lát thì bác sĩ vào khám cho Hoài. Vẫn là vị bác
sĩ trẻ trực ở phòng cấp cứu, có cô y tá với vẻ
liếng thoắng và dễ mến đi theo. Lan đọc được tên
Huệ thêu trên áo của cô y tá.
Khám
xong, bác sĩ ghi chép rồi nhìn Lan, giọng dịu dàng:
-
Thử máu cho cháu rồi. Không có gì nghiêm trọng. Nhiễm
siêu vi không xác định được loài. Chuyện tầm thường
ở trẻ em thôi. Cháu sẽ tiếp tục sốt một hai ngày rồi
khỏe trở lại; nhưng cần theo dõi tiếp. Nếu không có
gì khác xảy ra thì nằm đây ba ngày là về được.
Lan
nhỏ nhẹ cám ơn bác sĩ và cô y tá khi hai người bước
sang giường kế bên.
Bác
sĩ đi rồi, Lan ngồi trên ghế cảm thấy buồn ngủ nhưng
không dám ngủ. Nàng suy nghĩ và công nhận lời chị Điệp
nói đúng, một mình nàng lo cho con không xuể. Thực ra thì
dường như chẳng có gì ngoài việc ngồi nhìn cháu ngủ
hay bế cháu khi thức dậy. Nhưng ngồi đây thì ai đi mua
đủ thứ vật dụng linh tinh mà Lan không hình dung nổi
trước đây: cái ly cái muỗng cho bé uống nước, cái bô
để bé đái ỉa, cái khăn, cái tã, bình thủy đựng nước
nóng, bình sữa cho bé bú dặm thêm để bổ sung cho nguồn
sữa mẹ không còn đủ cho cơ thể đã khá bụ bẫm của
bé, vân vân.
Lan
đang mơ màng lo lắng trong giấc ngủ chập chờn thì giật
mình khi một bàn tay chạm vào vai . Nàng mở mắt, nhìn
thấy một bà sồn sồn, một tay cầm dĩa cơm, miệng cười
toe toét:
-
Ăn đi cô. Nuôi bệnh có một mình thì làm sao đi ăn cơm
được. Ăn đi, cơm bán dưới quán trong nhà thương, sạch
sẽ, ăn được lắm. Tội nghiệp, cần thứ gì thì qua
bên tui mà lấy. Giường kia kìa; cháu nội tui nằm đó.
Con dâu tui kìa.
Bà
chỉ tay vào một bà mẹ rất trẻ, ngồi ở đầu giường
đối diện, kế bên một bé trai độ hai tuổi đang ngủ
thiêm thiếp. Bà quay nhìn cái tủ nhỏ trống trơn kế bên
giường bé Hoài:
-
Người nhà chưa vô hả? Nhớ qua bên tui lấy đồ về
dùng, đừng có ngại.
Bà
ngó quanh, thấy có nhiều cặp mắt đang nhìn nên nói
tiếp, giọng có vẻ chống chế:
-
Mà ở đây, cô muốn dùng đồ của ai cũng được. Vô
đây thì đều là bà con cả.
Bà
trao dĩa cơm cho Lan, quay lưng lặp lại câu nói:
-
Bà con với nhau hết trơn hết trọi hà.
Lan
cầm dĩa cơm, cảm động vô cùng. Từ bao lâu nay, nàng
sống khép kín bên ông cha già kỳ quặc. Gần đây, cái
không gian của cuộc đời nàng chỉ mới nới rộng qua
nhà chị Điệp, thế thôi. Nàng chưa ý thức được một
không gian rộng rãi hơn, trong đó có cuộc đời đáng yêu
như thế nầy. Lòng nàng chợt nỗi lên một mối hoài cảm
đầy xót xa. Cuộc đời dễ thương biết bao. Tại sao
người ta cứ mãi mê cầm súng bắn vào nhau? Tại sao
người ta bắn vào quả tim mẹ nàng để cha nàng trở
thành lão già điên dại? Tại sao người ta nhắm bắn vào
chồng nàng để cho bé Hoài không bao giờ biết mặt người
cha thân yêu của nó?
Lan
bậm môi, cố ngăn dòng nước mắt. Nàng nhìn dĩa cơm, lo
lắng không ăn hết thì buồn lòng người mới quen. Tuy
nhiên, nàng quên rằng đã nhịn đói đúng hai mươi bốn
giờ rồi, nên khi nuốt xong muỗng cơm đầu tiên, cái đói
thức dậy, Lan ăn hết dĩa cơm một cách ngon lành.
Xế
trưa, Điệp bước vào phòng, theo sau là dì Ba Nở và cô
Chín, người mà trước đây Điệp có mời đến ăn đầy
tháng bé Hoài. Dì Ba Nở nhào lại bé Hoài. Lan chưa kịp
phản ứng thì dì Ba đã dở khăn, cầm bàn chân mang vớ
của bé hôn chù chụt làm bé giật mình khóc thét lên.
Hôn đã rồi dì mới đứng dậy, giọng oang oang như nói
với mọi người trong phòng:
-
Nghe con nhỏ đi nhà thương, tôi bán đổ, bán tháo gánh
rau cho hết rồi chạy về nhà nó. Thấy cửa khóa, tôi
ngồi trên bực thềm, ruột nóng như lửa đốt. Tôi săn
sóc nó cả tháng trời, bồng ẵm, tắm rửa, hốt cứt,
hốt đái cho nó, quen hơi, quen hám, nên nghe nó đau là tôi
tá hỏa tam tinh.
Dì
quay lại nhìn Hoài. Bé đã nín khóc, mắt hấp háy, nhoẻn
miệng cười. Dì hài lòng, quay lại định tiếp tục bài
“diễn văn”, nhưng Lan không còn kiên nhẫn, vội giành
lời:
-
Dì Ba, ba cháu thế nào rồi?
Nàng
nhìn sang Điệp. Điệp hiểu Lan muốn hỏi nàng, nên trả
lời:
-
Ông cụ về tới nhà thì nằm vật ra giường và bắt đầu
sốt.
Điệp
nhìn người đàn bà đang đứng dựa thành giường, nói
tiếp:
-
Cô Chín đây thấy xe chở ông cụ về, nhìn ông đi xiêu
vẹo thì biết là ông bị bệnh rồi nên vào nhà trông
chừng ông cụ cho đến lúc chị về. Tội nghiệp, đưa
thuốc, ông uống liền, không cần hỏi thuốc gì, y như
trẻ con. Ông cụ bây giờ với ông cụ cách đây vài
tháng là hai người hoàn toàn khác nhau. Ông không hề để
ý mình đang bệnh, chỉ nghĩ đến con Hoài và hỏi đến
nó thôi. Tội nghiệp, chị phải nói láo là con Hoài lành
bệnh rồi nhưng sẵn dịp phải ở lại nhà thương để
người ta chích ngừa cho cháu, lần sau sẽ không bệnh
nữa. Lúc đó ông mới yên tâm, nằm xuống dỗ giấc ngủ.
Tội nghiệp. Chị sợ ông cụ trở bệnh nặng.
Điệp
thở dài:
-
Dầm mưa dãi nắng lúc đi bán thì không sao. Dầm mưa lúc
tâm trạng đang lo cho cháu là sụm liền. Tội nghiệp!
Giọng
nàng bỗng trở nên ngập ngừng:
-
Cũng cần có người ở bên ông.
Sực
nhớ là chưa hỏi đến cháu, Điệp nói tiếp:
-
Bé thế nào? Bác sĩ có khám lại không?
-
Có, bác sĩ vừa đến khám xong, cách đây hơn một giờ.
Bác sĩ bảo cháu bị nhiễm cái gì đó, tiếp tục sốt
hai hôm nữa là hết.
Nàng
lo lắng hỏi chị:
-
Có ai trông chừng ba em được hả chị?
Điệp
tiếp lời:
-
À khoan, lo cho bé Hoài trước đã. Nè!
Điệp
ngồi xuống đất mở cái túi to mà cô Chín khệ nệ mang
vào nhưng Lan không để ý. Điệp lôi ra đủ thứ vật
dụng cần thiết, bày lên đầy chiếc tủ nhỏ. Vừa làm
việc, Điệp vừa phân trần:
-
Dì Ba lo cho đó. Một số lấy ở nhà em, một số của
chị, một số dì Ba lấy đồ nhà và mua thêm. Dì rành
quá, chứ chị không biết mà lo đủ thứ thế nầy.
Được
Điệp khen, dì Ba cao hứng, giọng oang oang:
-
Chớ sao, kinh nghiệm đầy mình mà! Xóm mình, ai đi nhà
thương mà cần người săn sóc cũng chạy đến tôi. Riết
rồi mấy nhà thương tôi quen gần hết.
Nói
xong dì cười ha hả.
Điệp
đã soạn xong vật dụng, xếp cẩn thận vào tủ. Nàng
hỏi Lan:
-
Em đói bụng lắm rồi phải không? Chị có mang bánh vào
đây, ăn đi.
Lan
lắc đầu:
-
Không, em ăn cơm rồi. Dì bên cạnh cho em ăn.
Lan
nhìn chị, mắt rơm rớm:
-
Em lo cho ba em quá. Không có ai ở nhà với ông.
Dì
Ba Nở lên tiếng:
-
Ối, lo gì cô. Để tôi sắp xếp cho. Tôi với chị Chín,
mỗi người lo một phía. Tôi giành ở đây. Con bé Hoài
nầy mến tay mến chân tôi lắm. Hồi trong tháng, nó mà
khóc, tôi ẵm là nín liên. Cái hơi trong người tôi hạp
với con nít. Để rồi coi, tôi săn sóc bằng cách ru nó
ngủ trên tay là con nhỏ hết bệnh, khỏe ngay.
Dì
Ba nhìn cô Chín rồi nói tiếp một cách thoải mái:
-
Đó là phần việc của tôi. Còn săn sóc ông cụ là phần
chị Chín. Nhưng nhớ là đừng săn sóc quá kỹ làm cho
anh Chín nổi máu ghen thì chết nghe chưa.
Cả
phòng cười ồ, ồn ào như họp chợ. Lan thì hoảng quá,
nhìn cô Chín, sợ cô nổi giận. Nhưng không, cô vẫn cười
hiền lành. Thấy Lan nhìn sững, cô giải thích nho nhỏ:
-
Kệ, cứ để nó nói. Nói bậy nói bạ, chọc thiên hạ
nhưng chẳng ai giận vì ai cũng mến nó, hiền lành tốt
bụng. Quê nó ở dưới Long xuyên. Chồng nó uống rượu
nhiều quá bể gan mà chết. Đúng một tháng sau, đứa con
trai đi tát cá, giẫm phải mìn của du kích gài, chết
luôn. Nó bỏ xứ lên đây một mình, sống với gánh rau
mua đi bán lại hằng ngày. Nó tốt bụng , thấy ai cần
là giúp ngay. Nó hay cuời giỡn và chọc người khác cười,
có thế mới sống đến ngày nay. Chồng con chết sạch
trong vòng một tháng, nếu là người khác thì đã chết
theo rồi. Nó nói với bà con là nó nhận cái xóm nghèo
nầy làm quê hương của nó. Nó thề đoạn tuyệt với
quá khứ thương tâm ở dưới quê và sống với cái hiện
tại vui vẻ ở xóm mình. Tội nghiệp; vì vậy nhiều khi
nó nói giỡn chơi hơi lố, đụng chạm đến người khác,
người ta cũng không để tâm giận nó. Ai cũng biết nó
mang một vết thương lòng quá lớn. Phải để cho nó bịt
kín vết thương ấy bằng cách sống hồn nhiên với những
câu vui đùa, dù có thái quá đi nữa.
Cô
Chín thôi nói; Lan nhìn dì Ba Nở, thấy nét mặt dì bình
thản, tươi cười và hiền hòa. Lan cảm thấy thương cảm
vô cùng.
Nắng
sắp tắt trên ngọn cây. Điệp và cô Chín ra về, để
dì Ba ở lại. Dì đi ăn cơm và mang về cho nàng một dĩa.
Đêm
chầm chậm đến. Chẳng có gì đáng sợ như “bóng
đêm trong bệnh viện”
mà nàng thường tưởng tượng. Cái giường của con nàng
cũng thành trung tâm chú ý và cảm tình của cả phòng, có
lẽ vì nàng xinh đẹp và vì dì Ba vui tính.
Sau
khi bác sĩ đến khám bệnh lần chót cho các trẻ, cô y tá
chích và cho uống thuốc xong, người ta tắt bớt đèn,
chỉ chừa lại một bóng dài. Dì Ba trải chiếu ở đường
đi và treo mùng lên, xong bắt Lan vào ngủ.
Vừa
định chui vô mùng, Lan trông thấy cô y tá Huệ bước vào
phòng và đi thẳng đến chỗ nàng. Lan ngạc nhiên, không
biết có chuyện gì xảy ra. Nàng đứng yên, nhìn cô chờ
đợi.
Như
hiểu ý Lan, cô y tá nói ngay:
-
Chị tên Lan phải không?
-
Dạ phải, sao cô biết?
-
Em xem trong hồ sơ. Khi nãy, theo bác sĩ vào khám bệnh, em
đã để ý đến chị. Trông chị đứng khép nép nhìn bác
sĩ khám cho cháu, ai cũng ưa nhìn chứ không riêng gì em.
Tò mò, em lật hồ sơ cháu bé xem mới biết cha của cháu
đã tử trận, em rất cảm động vì chị còn quá trẻ và
quá đẹp. Đêm nay, em trực, không có ca cấp cứu nào,
ngồi không một mình thì buồn, nên em xuống đây chơi
với chị một chút cho vui, vậy thôi. Ba cháu tử trận
lâu chưa hả chị?
-
Dạ, hơn một năm rồi. Phi cơ bị bắn rớt ở Daktô.
-
Trời, tội nghiệp! Anh ấy là phi công à?
Lan
gật đầu:
-
Dạ phải.
-.Chúng
em ở đây ai cũng kính trọng và mong có dịp tỏ lòng
biết ơn với những chiến sĩ hi sinh mạng sống của mình
cho tổ quốc. Em xin chia buồn trễ với chị.
-
Cám ơn cô.
Cô
y tá đứng nói chuyện với Lan độ mười phút rồi về
phòng trực.
Dì
Ba hối thúc:
-
Cô Lan vô ngủ đi, thức cả đêm, cả ngày rồi. Ngủ
ngay đi, khuya còn dậy cho cháu bú nữa.
Nàng
ngoan ngoãn vâng lời chui vào mùng, nằm xuống chiếu. Nghĩ
đến người chồng quá cố, Lan vẫn còn nhớ thương
nhưng không đau đớn như trước. Tuấn không còn trên cõi
đời nầy, nhưng anh đã để lại cho vợ và con rất
nhiều cảm tình của biết bao nhiêu người, kể cả cô y
tá chưa hề quen biết trước đây. Một nỗi hân hoan nhẹ
nhàng tràn ngập trong lòng. Giấc ngủ đến mà nụ cười
chưa tan trên đôi môi xinh đẹp của nàng.
Dì
Ba ngồi trên ghế, cạnh giường để canh chừng giấc ngủ
cho Hoài. Nửa đêm, Lan thức dậy để cho con bú, thấy dì
ngồi dưới đất, đầu tựa vào giường mà ngủ. Lần
thứ nhì, Lan thức dậy thì thấy dì nằm chèo queo dưới
giường em bé, như con chó giữ nhà.
Sáng
hôm sau, lúc mười giờ, Điệp vào báo tin cho Lan biết
ông cụ đã hết sốt nhưng còn yếu. Ông đòi vô thăm bé
Hoài nhưng Điệp không cho.
Lan
hỏi chị:
-
Còn cô Chín?
-
Cô ấy làm đúng theo sự phân công của dì Ba, nhưng tối
về nhà mình, sáng lại qua sớm.
Nhớ
lại chuyện dặn dò của dì Ba Nở hôm qua, Lan bật cười,
Điệp hiểu ý cũng cười theo. Điệp ngồi cạnh bé Hoài
một lát rồi về, vì chiều phải đi dạy học.
Ngày
trôi qua êm ả. Đến khám bệnh hai lần trong ngày, vẫn
là vị bác sĩ trẻ hôm qua. Khám xong cho Hoài, bác sĩ gật
đầu hài lòng, vừa ghi chép, vừa nói với Lan:
-
Cháu khá lắm rồi, không có biến chứng gì đáng ngại.
Lan
nói cám ơn, nét mặt hân hoan trông xinh đẹp lạ lùng.
Lan
cũng không phải cho bé uống thuốc. Cô y tá làm việc đó
với hai bàn tay khéo léo, gọn gàng và nhanh chóng.
Sáng
hôm sau nữa, cô y tá vào phòng nói to:
-
Bác sĩ giám đốc đi khám phòng. Cô bác thu xếp mọi thứ
cho gọn gàng. Mỗi giường chỉ có một người ở lại
với bé. Các người khác xuống sân chơi bên dưới hoặc
núp ở hành lang sau cũng được. Nhanh lên.
Nhiều
người lục tục ra khỏi phòng.
Lan
bảo dì Ba:
-
Cháu ở lại với bé, dì xuống dưới uống nước đi.
-
Không, tôi ra núp phía sau. Đi xuống, đi lên mỏi chân
lắm.
Không
bao lâu sau, bác sĩ giám đốc vào phòng, theo sau là bác sĩ
điều trị của phòng và cô y tá Huệ. Qua cặp mắt kiếng
trắng, vị bác sĩ già nhìn bốn góc trần nhà để tìm
một vệt mạng nhện rồi đi thong thả nhìn vào từng
chiếc giường. Đến cuối phòng, ông dừng lại nhìn Lan,
có vẻ chú ý.
Lan
đã quen với cái nhìn như thế nầy. Nàng biết mọi
người, cả nam lẫn nữ, đều để ý đến nét đẹp yêu
kiều của nàng. Bỗng cô y tá Huệ nói:
-
Thưa bác sĩ, đây là cô Lan, vợ của thiếu úy không quân
tử trận.
Vị
bác sĩ già dừng hẳn lại nhìn Lan rồi nhìn sang bé Hoài.
Cô y tá lại lên tiếng:
-
Bé Hoài, quốc gia nghĩa tử!
Đôi
mắt có những vết nhăn nheo chớp chớp sau đôi kính
trắng, ông bác sĩ già nhẹ nhàng gỡ lấy ống nghe của
vị bác sĩ trẻ, ngồi xuống giường lật lưng bé ra để
khám.
Cô
y tá trố mắt ngạc nhiên. Cô biết ông là một bác sĩ
tài giỏi, nhưng chưa bao giờ cô thấy ông khám bệnh tại
phòng. Bệnh viện Nhi đồng phải tiếp bệnh nhân của
Thủ đô và các tỉnh lân cận nên thường xuyên vượt
quá khả năng nhận bệnh. Vì vậy, công việc thực là bề
bộn cho một vị giám đốc. Mỗi ngày, ông phải giải
quyết biết bao nhiêu chuyện để công việc bệnh viện
được điều hòa. Mỗi tuần, ông chỉ có thể đi qua các
phòng một lượt để khám xét, hay đúng hơn, để thăm
viếng, chứ đâu có thì giờ đích thân khám bệnh như
hôm nay.
Bé
đang thức chơi, bị lật nghiêng thì cố lật ngửa lại.
Nghe lưng xong, bác sĩ nghe đến ngực. Bé quờ quạng đưa
một bàn nhỏ xíu chụp lấy núm nghe. Cô y tá chồm đến
định dằn tay bé ra, nhưng vị bác sĩ ra hiệu cho cô dừng
lại. Bàn tay cầm núm nghe của ông chìa ngón trỏ ra. Ông
cẩn thận gỡ bàn tay nhỏ xíu của bé ra khỏi núm và
cho cầm vào ngón tay trỏ ấy. Rồi, tay trái ông nhè nhẹ
vén áo bé, tay phải rề ống nghe cùng với bàn tay nhỏ
xíu lên khắp ngực của bé.
Xong,
ông nhẹ nhàng gỡ tay bé ra, đứng dậy đọc qua xấp
giấy mà vị bác sĩ trẻ đang cầm. Ông trả lại xấp
giấy, nhìn Lan mỉm cười:
-
Cô tên Lan hả?
-
Dạ phải.
-
Đúng là hai đóa hoa lan, một đóa đang nở, đóa kia chỉ
mới là một nụ con. Bé hết bệnh rồi đó. Chiều nay cô
có thể bế bé về được rồi.
Ông
quay sang cô y tá:
-
Có làm hồ sơ miễn viện phí cho quốc gia nghĩa tử chưa?
-
Thưa bác sĩ, phòng hành chánh nói không có đủ giấy tờ
chứng minh.
Bác
sĩ thoáng ngạc nhiên, rồi ông gật gù:
-
Trở lại đơn vị cũ xin giấy tờ phiền phức lắm.
Người ta đang chúi đầu vào các bản đồ hành quân mà.
Ông
quay sang cô y tá:
-
Cứ bảo họ làm hồ sơ miễn viện phí đi rồi đưa cho
tôi bút phê. Bên tài vụ có thắc mắc thì bảo lên gặp
tôi.
Ông
quay sang Lan, nhìn một cách buồn bã:
-
Xin chia buồn cùng cô.
Ông
ngập ngừng nói tiếp:
-
Con trai tôi cũng vừa tử trận tuần rồi tại mặt trận
Khe sanh. Nó cũng thiếu úy như chồng cô, nhưng thuộc binh
chủng Dù.
Ông
mỉm cười nhưng nét mặt trông thực thê lương.
Bỗng
một bóng người từ cửa sau vụt hiện ra.
Dì
Ba Nở!
Lan
hoảng hốt đứng chết trân. Dì Ba bước nhanh đến trước
mặt vị bác sĩ giám đốc, giọng oang oang:
-
Bác sĩ miễn tiền cho cô Lan là phải. Chồng cô Lan là
thiếu úy Tuấn, lái máy bay trực thăng bị bắn rớt ở
Daktô. Ở cái xóm nghèo của tôi, ai cũng thương cô và
tìm cách giúp đỡ mẹ con cô. Đó là đạo lý của con
người mà.
Thiệt
hết chỗ nói. Lan run bắn người lên. Thái độ coi trời
bằng vung của dì cộng thêm câu nói không rào trước đón
sau chắc chắn phải làm cho bác sĩ giám đốc nổi giận.
Nhưng, lạ lùng thay, vị bác sĩ già nhìn dì bằng cặp
mắt hiền từ. Ông gật đầu và nói một cách ôn tồn:
-
Phải. Xóm nghèo của bà biết đạo lý, biết giúp đỡ
người mẹ đáng thương ấy, không lẽ cái nhà thương đồ
sộ nầy của chúng tôi không biết làm chuyện đó sao?
Bác
sĩ nói xong quay lưng đi. Dì Ba theo sau, và khi những chiếc
áo trắng khuất ngoài bục cửa, dì chắp tay vái ba cái
thực sâu, trông vừa thành kính, vừa khôi hài như khi dì
vái ông Địa và ông Thần tài ở nhà dì vậy.
Chiều
hôm đó, bé Hoài được phép xuất viện. Vị bác sĩ trẻ
ân cần dặn dò Lan những điều cần thiết và tiễn hai
mẹ con đến tận cầu thang. Dì Ba ôm bọc đồ to đựng
tất cả đồ dùng lẽo đẽo theo sau. Điệp thì đã đi
trước cách đó năm phút.
Sáng nay, sau khi bác sĩ giám
đốc ra khỏi phòng thì Điệp vào thăm. Nghe nói chiều
nay bé Hoài được xuất viện, Điệp về ngay để lo cơm
trưa cho chồng và xin phép nghỉ dạy buổi chiều để trở
lại nhà thương. Cả ba người lo thu dọn đồ dùng vào
bao và sau đó đến từ giã từng giường. Mới có ba ngày
gặp nhau ở cái môi trường bất đắc dĩ nầy mà trông
họ chia tay nhau thực cảm động.
Xong,
Điệp đi trước xuống văn phòng để làm thủ tục và
nhận giấy xuất viện. Lan bế con chầm chậm ra cổng để
đợi chị. Nàng ngồi tạm trên chiếc ghế của người
gác cổng, dì Ba lót đôi guốc ngồi dưới đất, bên bọc
đồ dùng.
Mười phút sau, Điệp tất
tả đi ra, một tay cầm giấy, một tay ôm một gói to bằng
hai quyển sách nhưng dày đến khoảng hai tấc, bên ngoài
bao giấy bông thực đẹp. Nhìn nét mặt hớn hở của
chị, Lan cố đoán mà không tìm ra câu giải đáp. Điệp
đưa cả giấy tờ và cái gói cho dì Ba, nhận bé Hoài từ
tay Lan, cười bảo:
-
Em xem cái gói đi.
Lan
hồi hộp cầm lấy. Cái gói có cạnh vuông vức chứng tỏ
đó là một cái hộp bên trong lớp giấy bông sặc sỡ,
có thêm một cái nơ hồng rất đẹp. Một mảnh giấy
trắng to bằng bao thuốc lá được dán ở mặt trên, với
hàng chữ đánh máy sắc sảo:
Quà tặng cháu TẠ
THỊ HOÀI
Bác sĩ Giám đốc Bệnh
viện Nhi đồng
Lan
nhìn chị mỉm cười mà nước mắt lưng tròng. Nàng đặt
cái gói lên bụng bé, rồi lấy xuống ôm khư khư trong
tay.
-
Thôi về.
Lan
bước ra cổng theo lệnh chị. Một chiếc taxi
trờ tới, tất cả leo lên. Xe len lỏi qua những dòng
người và xe cộ. Buổi chiều mùa mưa mà trời trong xanh,
nắng nhuộm vàng những đọt cây hai bên đường. Khi xe
dừng lại ở một ngã tư để đợi đèn xanh, Lan bỗng
nghe ở đâu đó bản nhạc quen thuộc:”‘Sài
gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi, Sài gòn ơi”.
Lan mỉm cười, lòng phơi phới.
Xe
dừng lại bên lề, ngay trước cửa nhà. Lan xuống trước,
đỡ lấy con cho Điệp bước xuống sau. Từ băng trước,
dì Ba cố lôi cái bọc trong xe ra.
Lão
Tư Thủ vội đi đến. Ông đã ngồi đợi không biết tự
lúc nào. Ông đưa cả hai tay ra. Lan đặt con lên tay ông.
Thấy tay cha hơi run, Lan phụ đỡ bên dưới và dìu ông
cháu qua đường.
Vào
nhà, Lan thấy mọi vật đều tươm tất, chiếc nôi của
bé cũng đã được trải khăn trắng sạch sẽ, mùng vén
lên gọn gàng. Lan thầm cám ơn chị Điệp và cô Chín.
Nàng
đặt bé vào nôi. Bé tiếp tục ngủ ngon lành, sắc mặt
hồng hào khỏe mạnh. Nàng nhìn cha và cảm thấy xót xa.
Mới có ba ngày mà ông lão trông gầy xọp lại. Nàng rưng
rưng hỏi cha:
-
Ba có ăn được không?
-
Được… À mà không. Nhớ con nhỏ quá.
Nói
xong, ông bước lại nhìn bé Hoài trong nôi bằng cặp mắt
say mê.
Lan
nhìn quanh nhà, như người đi xa một thời gian khá lâu
mới trở về nhìn lại chỗ ở thân yêu. Nàng để ý
thấy ở bàn thờ ông Địa, một cây nhang đang cháy còn
một đoạn ngắn; một làn khói mỏng tha thướt bay lên.
Nàng ngập ngừng hỏi cha:
-
Cô Chín đốt nhang hả ba?
Ông
cụ có vẻ bẽn lẽn:
-
Tao đốt đó.
Ông
ngừng lại một chút rồi nói nhanh:
-
Ngày nào tao cũng đốt mấy cây để cầu xin má mày cho
con bé mau lành. Tao khấn ông bà cho tao nhận lãnh hết
bịnh cho con nhỏ.
Lan
nhìn cha, mắt nhòe lệ.
*
*
*
CƠN
bệnh vừa qua của bé Hoài, với ba ngày xa cách làm cho
tâm hồn ông lão tiếp tục mở toang. Mấy tháng rồi,
căn nhà cũ kỹ đó đã rộng cửa thì nay các vách tường
cũng biến mất, mặc cho không khí của cuộc đời tràn
vào khắp nơi, không còn gì ngăn cản nữa.
Từ
khi ở bệnh viện về, bé Hoài bú và ăn bột nhiều nên
lớn nhanh. Đi bán về tới nhà là ông ngồi chơi với
cháu. Ông sung sướng khi cháu biết lật, ông vui mừng khi
cháu bắt đầu trườn tới chụp món đồ chơi. Khách đến
may đồ nhìn bé là ông khoe cháu ông biết làm thứ nầy,
thứ nọ. Dần dần, mọi người đều có cảm tình với
ông. Dì Ba Nở bắt đầu chọc ghẹo ông bằng những câu
làm cho Lan cười đến chảy nước mắt. Sự thay đổi
nơi cha vượt qua cả sự ước mơ của Lan trước đây.
Khi
chưa sanh cháu bé, đã có lần Lan khuyên cha thôi đi bán
bánh thì ông lão đã từ chối thẳng thừng.
Nay
Lan đề nghị lại:
-
Ba nghỉ bán, ở nhà chơi với bé Hoài để con có thì giờ
may vá.
-
Ừ, tao ở nhà chơi với nó. Đi bán cũng nhớ nó, mong bán
hết sớm để về với nó. Nhưng thôi, bỏ bán một cử
thôi. Bỏ hết thì nhớ lắm.
-
Ba nhớ cái gì?
Lão
ngần ngừ không trả lời được vì chính lão cũng không
biết nhớ cái gì.
Nhưng
Lan thì đoán biết một phần nào. Bao nhiêu năm rồi, lão
đã đi qua những con đường đó; những dãy nhà, những
gốc cây, những con người đã trở thành quen thuộc, trở
thành gần gũi, trở thành những thứ không thể thiếu
được trong cuộc sống của lão. Những buổi đạp xe đi
lấy bánh trên phố chưa có người qua lại, những buổi
đạp xe về với chiếc cần xé trống trơn, bọc tiền
cồm cộm một cách êm ái trong túi quần, những buổi tối
đi ngang qua một bóng đèn đường, nhìn thấy cái bóng
đen của chính mình xuất hiện nghiêng nghiêng, ban đầu
cụt ngũn rồi bỗng dài ngoằn ra khi xe tiến tới …
Những thứ đó là tất cả cuộc đời trong những năm
rộng tháng dài của lão, những năm tháng mà chẳng ai làm
bạn cùng lão, ngoài những thứ đó. Chúng nó vẫn chung
thủy với lão, vẫn chờ đợi lão hằng ngày, hằng đêm.
Những
năm tháng ấy, lão chẳng nói với ai một lời. Với đứa
con gái, người thân duy nhất, họa hoằn mới có một đôi
lời đối đáp nhạt phèo. Nhưng trên những con đường
mà lão đi qua hằng ngày, lão vẫn nghe một giọng nói vô
cùng quen thuộc, đó cái giọng khàn khàn của chính lão
đã cất lên: “bánh
mì nóng dòn đây”.
Giọng rao đó phát ra một cách tự nhiên từ cổ họng
lão, tự nhiên cho đến đỗi lão không còn ý thức là
giọng rao hàng của chính mình nữa. Cứ đến cái cây có
cành to de ra ngoài đường thì giọng đó cất lên lần
thứ nhất; đến căn phố sơn xanh có cột đèn chận
trước cửa sổ, giọng đó cất lên lần thứ hai; đến
cái nhà có hàng rào dâm bụt, giọng đó cất lên lần
thứ ba. Rồi lần thứ tư, thứ năm… giọng đó cất lên
hoàn toàn chính xác với vị trí có cái mốc in sâu trong
đầu lão. Cái giọng rao hàng đó thân mật với lão biết
bao, bỏ chúng đi, nhớ làm sao chịu nổi. Lão đã ghiền
nó, gần như ghiền ma túy vậy.
Nhưng
bây giờ, lão có con cháu ngoại mà lão muốn gần gũi
biết bao. Cái nhoẻn miệng cười của nó, đôi mắt đen
nháy và khờ khạo của nó, cái bàn tay nhỏ xíu bấu vào
hàm râu tua tủa của lão, cái mùi thơm lạ kỳ trên da
thịt nó, những thứ đó cứ lởn vởn trong đầu lão
trong buổi sáng vắng vẻ trên đường, trong buổi trưa
nắng chang chang và trong buổi tối có ánh đèn xe ngược
chiều chói mắt.
Cuối cùng, lão đồng ý bỏ
một buổi đi bán trong ngày. Lão muốn bỏ buổi sáng để
có nhiều thì giờ chơi với cháu. Lan lại muốn lão bỏ
buổi chiều để tránh về khuya, tránh những đêm mưa tầm
tã. Lão chiều ý con.
Dần dần, Lan lấn thêm một
bước nữa là đề nghị đi lấy bánh trễ hơn một giờ
để tránh phố khuya; dĩ nhiên, số bánh phải bớt đi.
Rồi thêm một bước nữa, số bánh lại bớt đi để lão
về nhà lúc chín giờ sáng. Sợ lão tiếc số tiền lời
bị xén bớt vì giảm số bánh bán, Lan đề nghị cho cha
một món tiền, hằng ngày, hằng tuần hay hằng tháng. Lão
từ chối thẳng thừng. Lão đã biết xót xa, khi thấy Lan
gò lưng đạp máy trong đêm thanh vắng, lúc hầu hết mọi
người đã ngủ say.
Cháu
đã có ông chơi chung nên dần dần Lan nhận được nhiều
hàng hơn và lợi tức cũng khá lên. Bé Hoài khỏe mạnh,
không đau yếu gì ngoài một vài lần bị cảm, sổ mũi
tầm thường. Cháu không to lắm, có lẽ giống mẹ, nhưng
khá bụ bẫm. Mấy bà đến đặt may áo quần, có khi mải
chơi với con bé, quên cả giờ về nấu cơm.
Bé
bắt đầu biết đứng chựng lúc được mười một tháng
và đến đầu tháng mười hai thì đi chập chững. Không
lâu sau đó, bé đi khắp nhà, ông lom khom đi theo.
Bé
cũng bắt đầu tập nói. Tiếng đầu tiên bé nói được
là tiếng “ba”.
Từ lâu nay, hình ảnh Tuấn đã bớt làm Lan xót xa, nhưng
khi nghe con gọi “ba”
lần đầu tiên, nàng nghe đau nhói trong lòng, nước mắt
lại trào ra. Lan tập cho con gọi “mẹ”,
bé học được nhanh chóng. Nhưng đến khi nàng tập cho
gọi “ông ngoại”
thì chịu, không thể nào tập được. Nàng đâm bực
mình, không hiểu tại sao người ta đặt tên là “ông
ngoại” cho trẻ
khó tập nói thế nầy. Cuối cùng, đành để bé gọi là
“ông”
mà thôi.
Nàng
thường giao con cho cha để đi chợ, có khi đi cả buổi
chiều vào Chợ lớn mua vải, kim chỉ và nhiều món khác.
Trước khi đi lâu như thế, Lan phải nấu cháo sẵn, đến
giờ hai ông cháu cùng ăn. Điệp thường nói đùa với
Lan là ông đã trở thành người giữ trẻ có tài. Một
hôm, Lan vừa về tới, Điệp kéo qua nhà, bắt Lan ngồi
ghế, rồi cứ ôm bụng cười làm Lan rất ngạc nhiên.
Sau khi cười đã đời, Điệp mới kể:
-
Chiều nay chị được nghỉ bù vì chủ nhật vừa rồi,
nhà trường họp hội đồng giáo viên mở rộng, nhưng có
lẽ, ông cụ không biết. Khoảng bốn giờ chiều, chị
nghe tiếng đùa giỡn của hai ông cháu, giọng nói ồm ồm
của ông xen lẫn với giọng cười trong veo của cháu.
Thấy vui vui, chị bước sang nhưng không vào mà lén xem
ông cháu làm gì. Ông bò trước, kêu “ầm
bò, ầm bò”, cháu
chạy theo cầm cây chổi lông gà, phết vào mông ông và
cười sặc sụa. Vừa xúc động, vừa thích thú nên chị
tiếp tục đứng nhìn hai ông cháu vui đùa. Bỗng ông dừng
lại, ngó dáo dác vào bếp rồi bảo cháu:
“-
Thôi, không chơi trò nầy nữa. Chơi trò khác.
“Con
bé đứng yên, nhìn ông trân trân. Có lẽ, nó không hiểu
hết lời ông, nhưng biết ông không làm bò nữa. Ông lại
dáo dác nhìn xuống bếp và suy nghĩ. Sau đó, ông nói với
cháu:
“-
Mình chơi trò ‘cút hà’.
“Ông
ôm cháu, đem vào góc phòng, ở sát giường mẹ nó rồi
đến núp vào tủ may. Bé không nhìn thấy ông nhưng nghe
tiếng ông:
“-
Cút, cút, cút.
“Rồi
ông ló mặt ra la to:
“-
Hà.
“Con
bé ngồi yên, cười sằng sặc. Ông lom khom đi đến bàn
ăn, con bé ngồi yên nhìn ông, chờ đợi một cách thích
thú. Ông chui xuống bàn ăn.
“-
Cút, cút, cút.
“-
Hà.
“Con
bé lại cất tiếng cười trong veo như khánh đổ. Lần
thứ ba, ông núp vào cửa buồng, rồi lần thứ tư ông
chui tọt vào phòng vệ sinh:
“-
Cút, cút, cút….Cút, cút, cút….Cút, cút, cút….
“Con
bé sốt ruột, nghe ‘cút’,
mãi trong đó mà không thấy ông ló mặt ra, nó chệnh
choạng đứng lên bước mấy bước thì,
“-
Hà.
“Ông
chui ra khỏi phòng vệ sinh, vừa đi, vừa kéo quần lên.
Lan
đỏ mặt. Hai chị em gập người lại mà cười.
*
*
*
CÁI
xóm nghèo quen dần với cảnh ông lão bế cháu đi chơi.
Ban đầu họ còn nhìn theo, chỉ chỏ và bàn tán vặt với
nhau. Nhưng về sau, họ thản nhiên khi ông và cháu đi qua.
Có khi, họ ngẩng lên nhìn, gật đầu chào, ông chào lại
một cách vui vẻ.
Nơi
hai ông cháu thường đến chơi là bãi cỏ bên trong cư xá
sĩ quan, cách nhà non bốn trăm thước. Những lần đầu,
ông bế cháu đi một mạch tới nơi. Chơi xong, ông bế
cháu đi một mạch về nhà. Không bao lâu sau, ông thấy
sức nặng của cháu tăng lên.
Một
phần vì bé lớn lên thấy rõ, phần khác là vì ông mất
bớt sự háo hức của lần đầu tiên đưa cháu đi chơi.
Ông phải ngắt quãng đường thành nhiều đoạn, bằng
cách nhiều lần đặt cháu xuống đất và hai ông cháu
đứng thơ thẩn trong bóng mát của những căn phố, nhìn
xe cộ qua lại.
Thỉnh
thoảng, có người lân la đến nói chuyện cùng ông, có
người dừng lại bi bô cũng cháu. Lại có người liếc
thấy ông ngó lơ nơi khác, vội hôn chùn chụt vào hai cái
má bầu bĩnh của con bé. Ông biết nhưng làm ngơ, lòng
thấy vui vui. Sự biến đổi nơi ông thực là sâu xa và
toàn diện. Trước kia ông yêu thương con gái với một
tình thương hoàn toàn ích kỷ, không muốn ai tiếp xúc
với con gái mình, dù chỉ bằng một cái nhìn. Bây giờ,
với cháu ngoại, tình thương đó thực cởi mở. Ông
thương cháu và thấy ai đó cũng tỏ vẻ thương nó thì
ông rất đẹp lòng.
Những
lần nghỉ ngơi trên quãng đường đi về, ngày càng
nhiều. Con đường đã bị ông cháu cắt vụn thành nhiều
đoạn ngắn. Khi bé Hoài biết đi vững vàng, ông dẫn nó
đi theo ông, nhưng chỉ được vài bước, bé dừng lại,
đưa hai cánh tay mũm mĩm về phía ông. Ông mắng yêu:
-
Con nhỏ nầy hư lắm. Ngày xưa, mẹ mày ngoan hơn nhiều.
Mắng
xong, ông khệ nệ mang cháu lên rảo bước, khuôn mặt già
nua nhăn nheo tràn đầy hạnh phúc.
Bế
bé nặng nên ông mơ một chiếc xe đẩy trẻ em. Cháu sẽ
ngồi trên đó, ông sẽ đi sau đẩy chầm chậm. Hai ông
cháu sẽ đi xa hơn cái bãi cỏ ở cổng cư xá. Có thể,
ông sẽ đẩy cháu lần lượt đi hết những con đường
mà ông đi bán bánh hằng ngày, hay ít ra, đi một số
trong những con đường ấy. Nghĩ đến đó, ông thấy lòng
nôn nao khó tả.
Ông
đã từng thấy người ta đẩy xe trẻ em đi chơi. Nhớ
lại, ông thấy những chiếc xe đó thực là đẹp. Chiếc
xe của cháu ông sẽ có màu gì nhỉ? Màu xám, màu xanh hay
màu trắng? Màu nào cũng tốt, miễn là bánh xe trơn dễ
đẩy là được. Chỉ cần chạm nhẹ vào cần là chiếc
xe bon bon chạy tới trước, ông theo sau, thực là đỡ khổ
cho thân già. Xưa nay, ông không quen tưởng tượng, nay tự
vẽ trong đầu bao nhiêu hình ảnh đó, ông cảm thấy như
cảnh có thực nên gật gù hài lòng.
Một
buổi sáng trên đường về, ông nhìn thấy một chiếc xe
đẩy trẻ em. Trên xe, một bé trai ngồi chơi với những
cục bi tròn bằng nhựa đủ màu, xỏ vào một que sắt
sáng bóng, gắn vào xe, ngay trước mặt bé. Chiếc xe nằm
im dưới bóng mát một cây trứng cá. Cách xe độ ba
thước, hai chị đàn bà ngồi nói chuyện một cách say
sưa. Một trong hai người chắc chắn là người đẩy xe
cho em bé.
Ông
dừng lại, đứng xa xa nhìn. Đẹp thực, không thua gì
chiếc xe trong mộng tưởng của ông. Bánh xe trắng tinh
làm nổi bật vòng đen chung quanh do bùn đất dơ bẩn của
đường đi dính vào. Không, ông sẽ đẩy xe của con bé
Hoài đi ở những chỗ sạch sẽ, tránh những vũng nước,
những chỗ đất ẩm, tránh cả những chỗ gồ ghề để
xe chạy cho êm.
Ông
muốn quan sát chiếc xe trước mặt kỹ hơn nên xích lại
gần. Đứa bé ngẩng lên trông thấy ông, sợ quá khóc
thét. Hai chị đàn bà giật mình đứng phắt dậy. Một
chị chạy lại xe, la to:
-
Ông làm gì vậy? Bắt cóc con nít hả?
Chị
kia cũng sấn tới, sẵn sàng vồ lấy ông lão. Ông ngẩn
người ra, ngơ ngác nhìn, không hiểu gì cả. Chị đàn bà
cầm càng xe lui lại một bước để quay xe và đẩy nhanh
tới, sau khi ném cho ông già một cái nhìn nghi ngờ và
khinh bỉ. Chị kia lầu bầu mấy tiếng và xách giỏ đi
về phía ngược lại.
Ông
già thủng thẳng leo lên xe, đạp về nhà một cách bình
thản.
Thấy
ông về tới, hai mẹ con đều mừng. Bé Hoài mừng vì
được bắt đầu những trò chơi vui nhộn; Lan mừng vì
có ông thì nàng rảnh tay may cho kịp cái áo dài người
ta cần gấp. Còn ông, chơi với cháu hơi mệt nhưng rất
thích thú. Suốt ngày hôm đó ông vui vẻ với cháu nhưng
đầu óc không rời hình ảnh chiếc xe đẩy trẻ con.
Ông
định bụng hôm sau, khi bán hết bánh, ông sẽ đi thẳng
về hướng Sài gòn. Ông sẽ gặp một cái chợ. Ông biết
rõ chợ đó. Chung quanh chợ có nhiều hàng bán đủ thứ
đồ dùng. Có thể có chỗ bán xe đẩy con nít. Không rõ
bao nhiêu một cái. Chắc là đắt, rất đắt tiền. Ông
lật gối mang túi tiền ra đếm. Đếm xong, ông ngồi tần
ngần trên giường. E không đủ tiền. Mà nếu đủ thì
cũng có lẽ hết mất cả số tiền chắt chiu nầy. Sau
đó, mỗi tối trước khi đi ngủ, thò tay xuống gối sờ
gặp gói tiền xẹp lép thì cũng buồn. Ông cảm thấy nản
chí với cái dự định đi coi chỗ bán xe. Nhưng có sao
đâu; cứ đi, vô xem, hỏi giá rồi nếu không mua thì
thôi, ai làm gì được ông?
Thế
là hôm sau, khoảng hơn chín giờ, bán hết bánh, ông đạp
thẳng về chợ Hòa hưng. Quả thực, đối diện với rạp
chiếu bóng, có một tiệm khá lớn, trang hoàng đẹp đẽ,
bên trước có bày bán hai chiếc xe đẩy trẻ em, mỗi xe
một kiểu riêng biệt. Ông đứng nhìn trân trân. Ông
không ngờ trên đời lại có những chiếc xe đẹp và
sang trọng đến thế, hơn hẳn những chiếc xe mà ông đã
từng gặp, hơn hẳn chiếc xe trong mộng tưởng của ông.
Chắc tại nó còn mới. Không phải đâu, nếu có cũ đi
nữa, nó cũng còn đẹp hơn những chiếc kia nhiều. Trông
kìa, mấy cái lò xo xi bóng loáng. Mấy cái kia cũng có lò
xo nhưng không nhiều như thế. Xe nầy mà con Hoài ngồi
lên thì êm lắm. Ông sẽ không tránh chỗ gồ ghề nữa.
Ông sẽ đẩy bừa qua, con bé chỉ hơi xóc nhẹ trên xe
thôi. Thực là thích thú!
Ông
nhìn cửa tiệm. Sang trọng quá! Ông nhìn hai chiếc xe.
Sang trọng quá! Ông nhìn xuống bộ quần áo cũ kỹ, đôi
dép nhựa, quai bị đứt và được cột lại bằng sợi
ny lông. Thực là tồi tàn! Lần đầu tiên ông thấy được
cái hố ngăn cách giữa giàu và nghèo, cái hố đen ngòm
không thể vượt qua được đang chận đứng ông lại
trước cửa tiệm sang trọng nầy. Ông sực nhớ cái nhìn
đầy nghi ngờ và ác cảm của hai chị đàn bà hôm qua,
bao nhiêu hăng hái từ sáng đến giờ bỗng tàn lụi hết.
Ông lẩm bẩm:
-
Thôi về. Vào đó hỏi kỳ lắm, không ai trả lời đâu.
Mà họ còn tưởng mình ăn xin hay định ăn cắp gì đó
cũng có.
Ông
nhăn mặt leo lên xe, đạp đi. Nhờ bản tánh đơn sơ và
mộc mạc, ông lấy lại sự bình thản chỉ sau vài phút.
Ông rời bỏ cửa tiệm và không hề nghĩ mình sẽ quay
trở lại lần thứ hai, tuy nhiên niềm mơ ước có một
chiếc xe đẩy cho đứa cháu ngoại vẫn nung nấu lòng
ông, nên trên đường về, một dự tính khác vừa xuất
hiện trong đầu ông.
Ông
nhớ đến một con hẻm thông ra đường mà ông đi qua
hằng ngày. Cách đầu con hẻm khoảng năm mươi thước,
người ta có xây ba bức tường cao ngang đầu, giới hạn
một khoảng rộng như một nền nhà. Trong cái nền nhà
đó, người ta đổ rác vào. Rác cứ dâng lên và hạ
xuống liên tục mỗi ngày. Có một hôm đi qua, ông thấy
một chiếc xe trẻ em hư hỏng quăng trong đó. Lúc bấy
giờ, ông không quan tâm vì con cháu ngoại chưa ra đời.
Bây giờ, ông hy vọng, rồi người ta lại quăng một
chiếc khác vào. Ông thầm nghĩ rằng mấy nhà giàu đẻ
con liên tục, đứa sau tiếp theo đứa trước. Họ có lắm
tiền chứ không phải như ông; họ sẽ vứt bỏ chiếc xe
cũ và đến tiệm mang chiếc xe mới về. Thôi được, một
chiếc xe cũ vứt đi cũng tốt. Ông sẽ mang về chùi rửa,
cố công sửa lại những chỗ hư thì cháu ông cũng có
chiếc xe để đi. Nếu xe không được đẹp lắm để ông
được hãnh diện như trong mộng tưởng thì cũng đỡ
nhọc công bế cháu và hai ông cháu vẫn có thể đi chơi
xa. Đẩy cháu đi vòng vòng trên các con đường của cư
xá sĩ quan, giữa hai hàng biệt thự xinh đẹp và sang
trọng, cũng thích lắm chứ.
Thế
là từ đó, mỗi khi đi qua bô rác, ông đạp xe chậm lại,
dán mắt vào đống rác. Sự chờ đợi của ông không kéo
dài quá lâu.
Một
buổi sáng, ông đã nhìn thấy nó. Ông vội vàng dừng xe,
nhào đến đống rác như sợ ai đó dành lấy trước. Một
phần ba chiếc xe bị vùi dưới rác. Ông nắm phần trên
cố lôi lên, chiếc xe nhúc nhích; một đám ruồi nhặng
bay túa lên, va lộp độp vào mặt ông. Ông đưa tay xua và
lấy hết sức kéo mạnh một lần nữa. Chiếc xe được
rút lên khỏi rác. Vài miếng lá chuối, bao nhựa và một
ít thứ khác bám theo xe. Ông lùi lại, một tay kéo xe,
xông ra khỏi đám mây ruồi nhặng. Ông quăng mạnh chiếc
xe ra đường để rác dính theo phải văng ra. Ông kéo xe
ra xa một chút và nhìn kỹ. Chiếc xe gần như còn nguyên
vẹn, nhưng chỗ ngồi và lưng dựa chỉ còn là hai miếng
ván trần trụi, và tai hại thay, chỉ còn một bánh xe!
Ông lẩm bẩm:
-
Ba bánh kia còn trong đống rác. Thử tìm xem.
Ông
quay lại đống rác, nhìn đám ruồi nhặng bu đầy trên
mặt, một số ít bay quần bên trên. Ông nhặt một que gỗ
thử cắm vào đống rác và dích lên. Không nổi; đầu
que bị rác giữ chặt. Ông rút que lên một tí và cố sức
hất lên. Đầu que bật mạnh và chỉ mang theo một bao
nhựa nhơ bẩn. Rác rến giữ chặt vào nhau trong một thế
thủ vững chắc. Ông cảm thấy nản, đứng im nhìn bô
rác, không biết làm sao tìm được ba bánh xe con. Mùi thối
xông lên nồng nặc, ông khịt mũi, bước lùi ra. Ông tự
bảo:
-
Thôi mang xe nầy về nhà cái đã. Hôm khác tìm thêm một
chiếc nữa, chắc đủ bốn bánh. Lại nữa, lấy đồ tốt
của hai xe ráp lại thành một chiếc thì thực là tuyệt
.
Nói
xong, ông nhấc chiếc xe nhơ bẩn lên, định cho vào giỏ
cần xé.
-
Ấy chết, dơ giỏ thì làm sao đựng bánh được.
Lẩm
bẩm xong, ông lượm một sợi dây, cột chiếc xe vào
thành ngoài của chiếc giỏ và thủng thẳng đạp về.
Ông
dừng lại bên kia đường, nhìn vào nhà. Ông sợ con gái
nhìn thấy. Nếu nó bảo ông vứt chiếc xe đi thì phiền.
Từ ít lâu nay, ông có vẻ nể nang con gái. Nể nang là
phải. Bây giờ, chính con Lan làm ra tiền nuôi ông, chính
con Lan làm cho gói tiền để dành của ông phồng lên mãi,
và quan trọng hơn cả, con Lan cho ông một đứa cháu ngoại
dễ thương.
Nhà
mở toang cửa, nhưng chẳng có ai bên trong. Nhìn sang nhà
Điệp ông thấy Lan và con Hoài ngồi tuốt trong xa, lưng
quay ra ngoài. Có lẽ trong đó là bếp, ông chưa sang nhà
Điệp lần nào nên không biết rõ. Ông tự bảo mình:
-
Nhanh lên. Hai mẹ con nó sang chơi nhà cô Điệp một tí
rồi về vì cửa nhà vẫn mở.
Ông
hấp tấp qua đường, đẩy xe đạp vào nhà, vội vàng
tháo chiếc xe trẻ con ra đưa vào phòng tắm, rửa cho
sạch. Ông vừa dội nước, vừa dùng bàn tay vuốt nhẹ
dọc theo các ống sắt. Ông đứng lên, nhìn chiếc xe:
-
Được rồi.
Ông
mang xe ra khỏi phòng tắm, bắt ghế treo nó lên vách bếp.
Vừa xong thì mẹ con Lan cũng bước vào nhà. Bé Hoài trông
thấy ông vội chạy lại ôm chân. Ông cúi xuống bế cháu
lên nhưng không nổi đành bỏ xuống. Lúc nầy, ông mới
thấy sức lực thoát ra gần hết vì cái xe đẩy vừa
treo trên vách.
Lan
để hai ông cháu chơi với nhau, vào bếp nấu cơm. Nàng
để ý ngay chiếc xe trẻ con. Ngẩn người một phút, nàng
hiểu mọi việc. Đêm đó, cũng như cha đã làm trước
đây ít lâu, Lan mang số tiền tiết kiệm ra đếm và cuối
cùng lắc đầu, lẩm bẩm:
-
Không được đâu, còn phải dự phòng cho lúc ốm đau.
Bất
cứ chuyện gì Lan cũng kể cho chị Điệp nghe. Dĩ nhiên,
chuyện ông lão mang chiếc xe hư về nhanh chóng đến tai
Điệp và Quang. Hai vợ chồng muốn mua cho cháu một
chiếc. Nghe chị nói ý định nầy, Lan hoảng hốt nắm
chặt lấy tay chị, năn nỉ chị đừng mua. Rơm rớm nước
mắt, Lan nói với chị:
-
Em đã chịu ơn anh chị quá nhiều, biết đến kiếp nào
mới trả hết nợ. Chị đừng bắt em phải mang thêm nợ
nữa. Anh chị không bao giờ đòi nhưng lòng em thì không
thể nào hết áy náy được.
Nghe
Lan năn nỉ, hai vợ chồng đành bỏ ý định. Vả lại,
một chiếc xe đẩy trẻ con vẫn còn là một món xa xỉ
đối với hoàn cảnh của Lan hiện nay.
*
*
*
ĐẦU
năm 1975, bé Hoài được gần mười lăm tháng. Bé đi vững
lắm rồi nhưng thường đòi ông bế. Nó làm nũng với
ông và nó cũng thích chơi với ông hơn ai cả. Lý do là
ông luôm luôn chiều chuộng nó. Đồ chơi mua về, nó chỉ
chơi được một hai hôm rồi chán vứt vào xó nhà. Chỉ
có hai con búp bê, một do ông ngoại cho hôm đầy tháng và
một do bác sĩ giám đốc bệnh viện Nhi đồng tặng ngày
xuất viện là được Hoài chơi lâu hơn cả, nhưng cũng
không quá hai tuần lễ.
Một
hôm, nhân đề cập vấn đề nầy, Lan nói với chị Điệp:
-
Con bé chơi cái gì cũng mau chán. Chỉ có một thứ nó
chơi không chán, đó là ông ngoại nó.
Nhưng,
trong ý nghĩ của ông ngoại nó thì cái thứ mà nó sẽ
không bao giờ chán là chiếc xe đẩy. Chiếc xe hư mà ông
đưa về cách nay một tháng đã bắt đầu bám khói mà
ông vẫn chưa tìm được ba bánh xe khác để gắn thêm
vào. Ông quan sát bô rác hằng ngày, có khi nhìn vào các
thùng rác to bên ngoài những ngôi nhà sang trọng, dù ông
biết rằng một chiếc xe đẩy thì không thể nằm trong
các thùng rác đó được.
Bị
ám ảnh bởi chiếc xe trẻ con, ông lão không nhận ra sự
thay đổi trong không khí của Hòn Ngọc Viễn Đông. Thực
vậy, đi đâu, người ta cũng nói đến chiến cuộc, nói
đến cộng sản, đến mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Tin tức chiến sự đưa về làm cho thành phố lên cơn
sốt. Viễn ảnh sụp đổ của chính thể Việt Nam Cộng
hòa rõ dần theo bước tiến ồ ạt của những đoàn quân
Bắc Việt.
Trong
các gia đình người ta không nói đến sự bảo vệ chính
thể nữa mà chỉ còn nghĩ đến bản thân mình. Một số
người tỏ ra lo sợ tương lai, nhất là những người đã
từng nếm mùi cộng sản, đã từ miền Bắc di cư vào
Nam.
Một
số khác tỏ ra dửng dưng vì họ đã chán ngắt chiến
tranh. Họ đã trốn chiến tranh bằng cách bỏ ruộng đồng
lên đây sống tạm bợ. Bây giờ chiến tranh lại sắp
đến nơi nầy rồi. Cái điều ghê tởm đó, không bao giờ
họ trốn thoát được nếu nó còn lởn vởn đâu đó, dù
là ở nơi xa tít trong ruộng đồng mênh mông hay trong núi
rừng trùng điệp. Họ không cần truy xét ai đã tạo nên
điều ghê tởm đó, họ chỉ muốn nó vĩnh viễn rời
khỏi mảnh đất miền Nam nầy, bằng cách nào cũng được.
Một
số khác ít hơn, mang ảo tưởng trong đầu, mong cộng sản
sớm vào thành phố để họ được chứng kiến một cuộc
đổi thay ngoạn mục và hy vọng một cuộc sống mới
công bằng, tốt đẹp hơn.
Như
thế, tinh thần chiến đấu của miền Nam tan rã ngay từ
trong tư tưởng của người dân.
Riêng
lão già Tư Thủ thì không thuộc loại nào trong các loại
người nói trên. Dường như ông chẳng nhớ cộng sản là
ai, dường như chiến tranh đã chấm dứt từ lâu trong đầu
ông. Vì vậy, ông vẫn bình thản đạp xe đi bán bánh,
giọng rao khàn khàn vẫn y như cũ và hằng ngày vẫn nhìn
vào bô rác để tìm kiếm ba bánh xe con. Sự dửng dưng
của ông đối với thời cuộc lại là điều may mắn cho
bé Hoài. Trẻ con các gia đình khác dễ rơi vào tình trạng
gần như bất mãn. Chúng chẳng hiểu tại sao những người
lớn trong gia đình lại trở nên thờ ơ đối với chúng;
họ không còn nuông chiều, không vuốt ve, thậm chí còn
la rầy khi chúng to tiếng cười đùa.
Bé
Hoài thì không thế. Bé vẫn được thoải mái với người
bạn già, vẫn cười đùa trong nhà và chơi giỡn trên bãi
cỏ của cư xá sĩ quan. Mẹ làm việc suốt ngày ít khi
gần gũi bé, chỉ có về đêm, bé cần nằm chung giường
với mẹ để úp mặt vào hít mùi da thịt của mẹ. Rồi
bé ngủ đi nhanh chóng, mẹ có thao thức, bé cũng chẳng
hay.
Lan
thì thường xuyên thao thức trong đêm. Ban ngày, lui cui làm
việc cũng khuây khỏa, còn ban đêm thanh vắng, bao nhiêu ý
nghĩ về tương lai cứ ngày càng ray rứt hơn.
Tháng
giêng năm 1975 trôi qua với những tin tức xấu cho miền
Nam. Tháng hai, tin tức càng xấu hơn. Cái tết cổ truyền
đi qua trong lo âu và buồn tẻ. Đến tháng ba thì tình
hình hoàn toàn suy sụp, không còn ai tin miền Nam còn đứng
vững lâu được nữa. Cả thế giới chóng mặt khi theo
dõi sức tiến của quân Bắc Việt. Từng mảng lớn làng
mạc, từng loạt quận lỵ, từng thành phố, từng tỉnh
lần lượt đổi chủ.
Lan
không còn lòng dạ nào ngồi gò từng đường may được
nữa. Nàng từ chối nhiều khách hàng quen thuộc, nàng
thích ngồi hàng giờ tâm sự với chị Điệp.
Điệp
cũng không khá gì hơn, lòng dạ cứ bồn chồn nôn nao,
đứng ngồi không yên. Điệp không thuộc hạng người
quá sợ cộng sản. Cộng sản đã có trực tiếp làm hại
gì cho bản thân nàng đâu? Bác Hai, bác Ba là cộng sản
tập kết ra Bắc, không phải là hai người anh ruột của
cha nàng hay sao? Nàng cũng không thuộc hẳn về hạng người
thứ hai chán ghét chiến tranh đến cùng cực. Thực ra
nàng cũng ghét chiến tranh vì bản tánh nàng nhân hậu và
vì đó là nguyên nhân làm mất đứa em thân yêu của
mình, nhưng từ thuở nhỏ lên sống tại Sài gòn, nàng
không đụng chạm trực tiếp đến chiến tranh để mong
ước hoà bình với bất cứ giá nào. Còn nhóm người thứ
ba thích miền Nam rơi vào tay cộng sản thì nhất định
không có nàng rồi. Nàng thích sống trong chế độ miền
Nam nầy vì nàng có ông chồng kính yêu, có cô em dâu xinh
đẹp, có con cháu Hoài mũm mĩm, có đám học trò ngoan
ngoản, có bè bạn và hàng xóm dễ thương. Cộng sản vào
đây, những thứ đó có còn nguyên vẹn hay không?
Không
quá thù ghét cộng sản, không quá sợ hãi chiến tranh,
nhưng nàng cứ bồn chồn lo lắng theo từng bước tiến
của các binh đoàn quân đội Bắc Việt. Nàng sống trong
tâm trạng bất an chính là vì nghĩ đến Lan và Hoài. Nàng
lo cho hai mẹ con, còn hơn cho chính bản thân mình nữa. Vì
thế nàng thích rù rì thủ thỉ với Lan. Hai người đàn
bà, một khi đã ngồi nói chuyện với nhau thì, giờ theo
giờ, phút theo phút, trôi qua vùn vụt mà họ không hay
biết. Điệp thường nghe Lan nhắc đi nhắc lại nhiêu lần
câu hỏi:
-
Cộng sản có làm gì con của em không? Bé Hoài là con anh
Tuấn, kẻ thù của họ mà.
Làm
sao Điệp biết được họ sẽ làm gì đối với bé Hoài
nên chỉ an ủi chiếu lệ. Lan lại nói tiếp:
-
Em nghe nói cộng sản vào đây, họ bắt con gái đẹp lấy
thương binh cụt giò cụt cẳng để trả công, em lo sợ
quá.
Điệp
trợn mắt lên hỏi lại:
-
Ai nói với em như thế?
-
Bà Thảo, Bắc kỳ di cư. Bà ấy bảo rằng bà đã từng
sống với cộng sản nên rành về họ lắm. Em sợ quá.
Điệp
nhìn cô em xinh đẹp mà thấy gai ốc nổi cùng mình. Điệp
hỏi:
-
Thế em có tính di tản không?
Lan
không trực tiếp trả lời câu hỏi của chị. Nàng nói:
-
Đi đâu cũng nghe người ta bàn chuyện di tản qua nước
khác để trốn cộng sản, em rối cả ruột.
Lan
nhìn chiếc máy may và cái tủ kính, giọng run run vì xúc
động:
-
Để mở một tiệm may bên Mỹ, bên Tây, người ta sắm
những thứ tốt hơn nhiều. Nhưng đối với em thì những
thứ nầy vô giá. Cái máy may nầy, anh Tuấn sắm cho em
lúc chưa quen nhau, cái tủ kính nầy có được nhờ món
tiền trợ cấp tử trận của chồng em.
Nàng
khóc òa, Điệp cũng khóc theo. Lan nói tiếp trong tiếng
nấc:
-
Em bỏ chúng mà đi sao đành!
Lan
tiếp tục thổn thức. Vài phút sau, nàng ngửng lên, lấy
khăn lau nước mắt, nói với chị:
-
Phải chi cộng sản đừng vào đây để mẹ con em mãi mãi
sống gần anh chị. Họ nói giải phóng cho nhân dân miền
Nam, nhưng em không thích họ giải phóng cho em chút nào.
Bỗng
nàng sực nhớ đã đi quá xa câu hỏi của chị về việc
có di tản hay không nên đáp một cách dứt khoát:
-
Nếu anh chị đi thì em đi; anh chị ở lại thì em ở lại.
Điệp
cầm hai bàn tay mượt mà của em, lòng bồi hồi cảm
động.
Ngay
chiều hôm đó, Điệp đem ba vấn đề mà Lan nêu ra để
nhờ chồng giải đáp vì đó là thói quen của nàng.
Vấn
đề thứ nhất là sợ bé Hoài bị cộng sản ngược đãi,
khi họ chiếm được Sài gòn, anh có tin không?
Vấn
đề thứ hai là Lan có thể bị bắt làm vợ một anh bộ
đội cụt tay cụt giò, anh có tin không?
Vấn
đề thứ ba là hai vợ chồng có di tản không để mẹ
con Lan đi theo?
Vẫn
với cái giọng giảng bài cố hữu, Quang nói:
-
Với vấn đề thứ nhất và thứ hai thì anh không thể
trả lời trực tiếp. Nguyên tắc tư tưởng của anh là
chỉ tin những gì thấy tận mắt hoặc những gì có thể
suy luận một cách minh bạch để đi đến một kết luận
dứt khoát. Nhưng bảo rằng anh không tin cũng không đúng
vì anh làm sao chứng minh được rằng đó chỉ là lời hù
dọa dối trá.
-
Có nghĩa là, theo anh, khi cộng sản vào đây thì hai điều
đó có thể sẽ xảy ra, cũng có thể không bao giờ xảy
ra.
-
Đúng vậy. Còn vấn đề thứ ba thì liên can trực tiếp
đến anh nên anh có thể trả lời dứt khoát được.
Không, anh không đi đâu cả. Dù hoàn cảnh có đưa đẩy
đến đâu đi nữa thì anh cũng tiếp tục ở lại quê
hương mình.
Điệp
nghiêng mặt nhìn chồng một cách dò xét:
-
Anh thích sống với cộng sản à?
Quang
đưa cả hai tay lên trời, cao giọng:
-
Trời ơi, người bạn tâm tình của tôi trong bao nhiêu năm
trời mà còn hỏi tôi câu đó sao?
Giọng
anh dịu lại:
-
Anh theo học triết và dạy triết với tất cả tâm hồn
của anh thì làm sao ưa cộng sản được. Nhưng anh không
đi vì ba lý do. Một là anh muốn chứng kiến một khúc
quanh cực kỳ quan trọng của lịch sử mà một đời
người không dễ có được một lần. Hai là anh muốn
chia sẻ thân phận con người với hai chục triệu đồng
bào miền Nam. Họ khổ, anh khổ; họ sướng, anh sướng.
Quang
dừng lại vì xúc động. Điệp sốt ruột hỏi:
-
Còn lý do thứ ba?
-
Anh phải chịu trách nhiệm một phần, ít nhất là về
mặt tinh thần, đối với sự thất thủ của miền Nam.
Phải ở lại chịu đựng cho tròn trách nhiệm.
Anh
nhìn vợ dò xét:
-
Còn em, em suy nghĩ thế nào? Em có muốn đi không?
-
Không, em cũng không đi, chỉ vì một lý do duy nhất.
-
Lý do gì?
-
Xuất giá tòng phu; chồng ở đâu, vợ ở đó.
Quang
đưa tay ra một cách lịch sự lẫn khôi hài. Điệp bắt
tay chồng. Hai bàn tay siết chặt lấy nhau.
*
*
*
BƯỚC
qua đầu tháng tư, Sài gòn sôi sục vì những đoàn người
chạy loạn từ Cao nguyên đổ xuống, từ ngoài Trung ùa
vào. Đường trên, hẻm dưới người ta bàn tán xôn xao
về di tản. Có người bảo phải ra ngoại quốc mới trốn
được cộng sản. Có người nói sở dĩ quân Bắc Việt
tiến nhanh là vì Mỹ đồng ý cho họ chiếm hơn phân nửa
miền Nam với lằn ranh phân chia mới, từ khu Mỏ vẹt,
cắt ngang tỉnh Kiến tường, tỉnh Mỹ tho, tỉnh Kiến
hòa đến tận bờ biển của quận Ba tri. Mau mau di tản
xuống miền Tây để được sống tự do ít nhất một
thời gian nữa. Lại có người nói, Mỹ giao hết miền
Nam cho cộng sản, chỉ giữ lại đảo Phú quốc để dùng
làm chỗ trú ngụ cuối cùng của những người đã từng
hợp tác với Mỹ. Mau mau vượt biển ra đó để xí phần
một chỗ ở.
Tin
đồn lung tung cả lên, chịu hết xiết.
Các
trường học đều nghỉ dạy, tuy cổng trường vẫn mở
rộng. Học sinh đứng trong sân trường, tụm năm, tụm
ba, nhìn vào các lớp học lúc nhúc người chạy loạn, đồ
đạc ngổn ngang trên nền đất, áo quần treo la liệt
trên vách. Ngoài hành lang, các bếp tạm làm bằng ba viên
gạch chụm đầu lại, lửa cháy âm ỉ.
Trường
nghỉ dạy nhưng Quang vẫn vào trường mỗi ngày. Anh đi
quanh nhìn đám người chạy nạn và thấy mủi lòng. Ôi!
Cái dân tộc Việt Nam sao mà khốn khổ đến như thế!
Phần lớn họ ngơ ngác như những người mất hồn. Quang
nhớ lại những lời tuyên truyền láo khoét của cộng
sản trong những bài phát thanh. Anh thở dài, nói thầm:
-
Những người dân khốn khổ nầy vừa trốn chạy những
người có lòng tốt đến giải phóng cho họ khỏi gông
cùm của Mỹ ngụy!
Trông
người lớn, Quang thấy tội nghiệp. Nhưng trông những
đứa bé xơ rơ, áo quần tơi tả, anh đau lòng không thể
chịu đựng được nữa. Sờ vào túi thấy còn tiền, anh
ra cổng trường cầm cả nắm tiền đưa cho bà bán hàng
rong bảo đếm và bán đủ số bánh kẹo cho anh. Anh mang
cả bọc vào trường, phân phát cho các trẻ em. Khi bọc
quà đã cạn queo, anh ôm một đứa bé đứng gần nhất,
hôn vào mái tóc rối bù và khét nghẹt của nó. Nhiều
người chạy loạn nhìn anh, trong mắt có cái gì đó ấm
áp sau những ngày gian truân.
*
*
*
Một
ngày cuối tháng tư năm 1975, Sài gòn tiếp tục sôi sục
dữ dội. Các vòng đai bảo vệ chung quanh đều vỡ hết,
lính tráng bỏ đơn vị chạy tán loạn. Lan đóng cửa
tiệm, hai mẹ con ngồi thu lu trong nhà. Cha nàng vẫn đi
lãnh bánh bán từ sớm, chưa thấy về. Nàng thì nghỉ hẳn
rồi, không biết các lò bánh mì còn hoạt động hay
không.
Lan
mở một cánh cửa, ló đầu ra xem cha nàng về hay chưa.
Bên nhà Điệp cửa đóng im ỉm. Hai anh chị nghỉ dạy cả
tháng rồi, nhưng ngày nào cũng vô trường một lát vào
buổi sáng. Chị Điệp bảo vào trường để nghe thêm tin
tức và nói chuyện với bạn bè cho đỡ sốt ruột. Mấy
khi được nghỉ dạy, ngồi chung trong văn phòng tán chuyện
trên trời, dưới đất thế nầy, Thỉnh thoảng, có một
đoàn cứu trợ đến thì các thầy cô cùng học sinh ra
phụ với họ phân phát tặng phẩm. Bạn bè chị, nhiều
người đã ra đi, số còn lại cam tâm chịu đựng.
Ở
nhà, Lan thấy thực trống vắng. Nàng mong cha và anh chị
về để bớt bồn chồn. Cho đến bây giờ mà bé Hoài
vẫn chưa ăn sáng. Bé kéo áo mẹ đòi ăn. Thương quá,
trong nhà chẳng có gì cho bé ăn được. Lan bước qua cửa,
nhìn dọc con đường theo hai hướng. Chẳng có bán gì cả.
Bé bắt đầu khóc rưng rức. Lan lấy tiền cho vào túi,
bế con ra đường, sau khi khép cửa lại.
Nàng
đi về phía cư xá sĩ quan, định đến chợ xép, ở đó
có nhiều hàng ăn sáng. Cho bé ăn kẻo tội nghiệp, chứ
nàng thì chắc chắn chẳng nuốt được gì. Chợ không có
người bán mà chỉ có một số người đứng lố nhố,
đa số có mang một bọc không biết đựng gì bên trong.
Lan hỏi, họ trả lời rằng đợi trực thăng đến bốc.
Mặc kệ họ, nàng chỉ lo tìm thức ăn cho con thôi. Nhìn
vào bên trong cư xá, nàng thấy một cậu con trai đẩy
chiếc xe đạp, phía sau có một giỏ cần xé. Nàng nói
thầm:
-
Thôi, mua một ổ bánh mì về cho bé chắm sữa ăn cũng
được.
Lan
bước vào cổng cư xá. Bỗng có tiếng người xôn xao.
Nhiều tiếng la ơi ới:
-
Trực thăng tới, trực thăng tới. Vô mau.
Lan
hoảng hồn, chưa biết chuyện gì thì tai nghe tiếng máy
bay rú, mỗi lúc một to, mỗi lúc một gần. Một khối
người từ cổng tràn vào cuốn nàng theo. Như trong cơn
mộng du, nàng ôm con chạy tới trước vì không thể đứng
yên tại chỗ được. Gió nổi lên cuồn cuộn trên đầu
nàng. Một khối sắt khổng lồ dễ sợ từ từ hạ xuống
gần chỗ nàng, trong tiếng gầm đinh tai điếc óc. Gió từ
cánh quạt của nó xô ngã hai mẹ con. Lan nghe có tiếng
hét to:
-
Vợ con sĩ quan hả? Cho lên trước.
Lan
thấy được nâng lên. Nàng ôm con thực chặt. Hai mẹ con
bị đẩy mạnh, ngã chúi vào bên trong trực thăng. Bé sợ
quá thét lên:
-
Mẹ, mẹ. Về ông, về ông.
Nàng
ôm con, cố vùng dậy nhưng, một, hai, ba người nữa ngã
chúi vào làm nàng lại ngã theo. Tai Lan bỗng ù đi vì
tiếng rú của máy bay, nàng sợ hãi nhắm mắt lại nhưng
lập tức giật thót mình khi thấy bị nâng lên. Lấy hết
sức lực còn lại, nàng ngồi thẳng dậy và vội vàng mở
mắt nhìn ra cửa, thấy cái cổng cư xá lùi dần một
cách dễ sợ. Nàng nhìn dọc theo con đường, nhận ra được
nhà nàng và nhà chị Điệp. Hai căn nhà chạy vòng và
khuất đi nhanh chóng.
Đó
là cái nhìn cuối cùng của nàng đối với quê hương yêu
dấu. Nàng hoảng hốt siết mạnh con vào lòng, khóc nức
nở.
*
*
*
ĐIỆP
ngồi bệt xuống nền nhà, khóc rấm rứt. Dì Ba Nở ngồi
kế bên vừa khóc, vừa dỗ dành:
-
Thôi nín đi cô, chuyện đâu còn đó. Rồi tính sau.
Điệp
vẫn tiếp tục rên rỉ:
-
Lan ơi, sao em bỏ chị mà đi. Hoài ơi, sao con bỏ cô mà
đi. Dì Ba ơi, không có tụi nó thì con sống sao được
trên đời nầy.
Dì
Ba nhìn ra cửa, nói to:
-
Kìa thầy Quang về tới rồi đó.
Quang
bước vào thấy vợ khóc thì hoảng hốt:
-Trời
ơi, sao thế nầy? Có chuyện gì vậy?
Dì
Ba quay lại, nói to:
-
Thầy Quang, cô Lan và bé Hoài lên trực thăng bay mất rồi.
-
Hứ, bà nói gì?
Quang quay lại nhìn dì Ba Nở,
mắt trợn trừng, môi run bần bật. Dì sợ hãi thối lui,
không biết Quang định làm gì mình.
Nhưng
Quang nhanh chóng lấy lại nét mặt bình thường sau khi
nuốt mạnh nước bọt làm cho cục u ở cổ chạy lên
chạy xuống vài lần. Anh cố lấy giọng bình tĩnh, hỏi
dì Ba:
-
Nó đi hồi nào, đi với ai?
Rồi
không đợi dì trả lời, anh quay sang hỏi Điệp:
-
Mấy bữa nay, em có thấy nó sửa soạn đi không?
Điệp
lắc đầu. Dì Ba vội trả lời thay, giọng trở lại oang
oang như thói quen:
-
Hai mẹ con bị đẩy lên trực thăng. Máy bay xuống đón
các gia đình sĩ quan trong cư xá. Không biết tại sao người
ta biết trước chuyện nầy. Nhiều người ôm khăn gói ra
đứng chờ. Tôi cũng có trong số đó, nhưng không phải
chờ đi mà tò mò xem thiên hạ. Vì vậy, tôi đứng trong
nhà cô Năm Rổ nhìn ra. Tôi thấy mẹ con nó tới, định
chạy ra thì nó đã vào cổng cư xá, đi về phía thằng
nhỏ bán bánh mì dạo.
Dì
ngừng một chút, nuốt nước bọt rồi cao giọng tiếp:
-
Không, nó không tính đi đâu, tôi thấy rõ mà. Nó có mang
đồ đạc gì đâu. Nó chỉ mặc cái áo bà ba cũ phong
phanh. Con Hoài cũng vậy, chẳng có giày dép gì hết trơn
hết trọi. Rồi người ta ùa vào, đẩy mẹ con nó lên
trực thăng, rồi nó bay tuốt luốt.
Dì
đưa cả hai tay lên trời như kiểu máy bay bốc lên. Bỗng
dì hạ tay xuống, quay nhìn Điệp lo lắng, sợ Điệp lại
bị xúc động rồi khóc nữa. Nhưng không, Điệp dịu
dàng nhìn dì, nỗi đau đớn trong lòng vơi đi vài phần
khi nghe dì nói Lan và Hoài không có ý định bỏ nàng mà
đi. Nàng đứng dậy, đến ngồi ở mép giường, rồi
quay nhìn chồng:
-
Anh Quang, hai mẹ con nó không có ý định bỏ chúng mình
mà đi như lời dì Ba, phải không?
Quang
không trả lời, lẳng lặng đi ra phòng trước, nhìn vào
bàn thờ Tuấn rồi quay trở lại ngồi vào giường, nói
với vợ, giọng nhỏ nhưng rất rõ ràng:
-
Đúng vậy, con Lan không tính đi. Nếu nó có dự định
trước thì nhất định phải mang theo di ảnh của thằng
Tuấn theo rồi.
Điệp
thở dài, công nhận ý của chồng là hữu lý. Dì Ba hết
sức cao hứng:
-
Tôi biết tính cô Lan mà. Cô ấy rất sợ cộng sản nhưng
không bao giờ cô tính xa thầy cô đâu. Có lần tôi hỏi
cô ấy:
“-
Cô có tính lấy chồng không?
“Cô
Lan trả lời ngay:
“-
Không. Lấy chồng thì phải xa chị Điệp.
“Rồi
cô Lan lại nói tiếp:
“.
Tình thương của cháu, anh Tuấn mang đi cả rồi.
Nước
mắt trào ra trên khuôn mặt thê lương của Điệp. Nàng
úp mặt vào hai bàn tay, giọng nức nở:
-
Em không còn bao giờ gặp lại mẹ con nó nữa, anh Quang
ơi!
Quang
vỗ vai vợ:
-
Em nín đi. Chuyện đã xảy ra như thế rồi, thì đành
phải chấp nhận thôi.
Dì
Ba đứng dậy:
-
Cô Điệp nghe lời thầy Quang đi. Thôi xin chào thầy cô.
Điệp
đứng lên bước đến nắm tay dì Ba:
-
Con cám ơn dì Ba. Thôi dì về nấu cơm đi.
-
Không, tôi chưa về đâu. Tôi qua ngồi đợi ông Tư về
để báo tin cho ông biết. Tội nghiệp ông già.
Nói
xong, dì bước ra cửa, vào nhà Lan, kéo ghế ngồi đợi.
Vừa thấy đầu xe đạp của ông lão ló ra nơi cửa, dì
đứng dậy chạy ra, giọng oang oang:
-
Ông Tư ơi, mẹ con cô Lan đi rồi.
Ông
ngửng nhìn dì:
-
Đi Chợ lớn phải không, chừng nào về?
-
Đi luôn rồi, trực thăng chở nó đi.
-
Vô Chợ lớn đi xe buýt hay xích lô được rồi. Đi trực
thăng làm gì?
-
Không phải đi Chợ lớn mà đi….đi….
Dì
không biết phải nói Lan đi đâu. Dì đưa tay chỉ chỏ
lung tung lên trần nhà:
-
Mẹ con nó đi xa lắm. Qua Mỹ, qua Tây, đi luôn rồi. Di
tản ra nước ngoài rồi.
Giọng
nói dì nghẹn lại. Ông lão quay nhìn dì trân trân. Ông
chợt hiểu. Di tản ra nước ngoài. Ông hiểu rồi vì ông
đã nghe người ta nói đến mấy chữ nầy nhiều lần
trong những ngày qua, khi ông đi bán bánh trong các xóm.
Dì
Ba tưởng ông lão sẽ ngồi bệt xuống đất như Điệp
hay ít nhất cũng ôm mặt khóc tồ tồ. Nhưng không, ông
đứng yên, chăm chăm nhìn dì, đôi mắt hiền từ lạc
thần hẳn đi, cái nhìn trở thành ngơ ngác. Ông thôi nhìn
dì, im lặng dẫn xe vào dựng sát vách rồi lắc lư đi
vào bếp. Ông đứng chắp hai tay vào mông, nhìn cái xe trẻ
em treo trên vách bếp, gật gù có vẻ hài lòng. Một phút
sau, ông chậm rãi đến bàn ăn, khệ nệ mang cái ghế
ngồi đặt bên dưới chỗ treo chiếc xe. Ông run run bước
lên ghế, mở dây, mang xe xuống.
Điệp đang nằm khóc, nghe
giọng dì Ba oang oang, vội lau nước mắt, xỏ dép chạy
ra. Quang theo sau vợ rồi bỗng dừng sững lại ở bục
cửa. Anh định ngăn dì Ba không cho báo tin đột ngột với
ông lão nhưng không kịp. Điệp bước vào nhà, thấy ông
lão ngồi thu lu trong bếp, trước cái xe đẩy trẻ em mà
ông vừa tháo xuống, đưa cái lưng cong vòng ra ngoài. Nàng
vội chạy đến, định ôm lấy ông nhưng khựng ngay lại
khi nghe ông cụ lẩm bẩm một mình:
-
Phải sửa cái xe lại cho con nhỏ. Bắt nó đi bộ mỏi
chân tội nghiệp. Nhứt định ngày mai phải sửa cái xe
lại cho con nhỏ, bắt nó đi bộ mỏi chân tội nghiệp.
Bánh mì nóng dòn đây.
Điệp
cảm thấy gai ốc nổi cùng mình. Nàng đứng im nhìn,
trong lòng hỗn độn những tình cảm vừa sợ hãi, vừa
bi thương cùng cực. Ông lão vẫn tiếp tục lảm nhảm,
trong khi hai bàn tay khẳng khiu lần vuốt nhẹ dài theo
những ống sắt đen thui vì bám khói của chiếc xe hư.
Có
tay ai chạm vào vai Điệp. Nàng giật mình quay lại. Quang
nắm tay nàng kéo nhẹ ra cửa, trở về nhà. Vào đến
phòng trong, nàng ôm chầm lấy Quang, đôi vai run run áp vào
ngực chồng. Nàng nức nở:
-
Anh Quang ơi, bác Tư mất trí rồi. Mẹ con nó đi không
bao giờ trở lại nữa. Em phải làm gì cho bác Tư đây?
Anh nói cho em nghe đi, làm sao cho bác Tư đủ sức chịu
đựng đây?
Giọng Quang nhỏ nhẹ, đầy
nước mắt:
-
Vô phương cứu chữa. Lần trước tâm hồn ông lão rơi
vào một hố cạn, nhờ tiếng khóc đứa cháu ngoại kéo
lên. Bé Hoài là điểm tựa duy nhất của ông. Lần nầy
ông sút tay khỏi điểm tựa, rơi xuống, xuống mãi trong
cái hố sâu bất tận.
-
Nhưng tại sao bác Tư không khóc?
-
Ông lão sút tay nhanh quá, không kịp khóc; rên một tiếng
cũng không kịp.
-
Để em sang nói với bác ấy một câu gì để an ủi.
-
Vô ích. Anh biết tấm lòng nhân hậu vô bờ bến của em.
Nhưng thôi, ông cụ không còn sống lâu nữa đâu. Cứ để
ông chìm đắm trong hoang tưởng, hưởng một chút hạnh
phúc, cái hạnh phúc đau đớn nhất của thế gian nầy!