Tôi
là Ngọc. Một người
đàn bà tầm thường. Một nạn nhân, như tất cả mọi
nạn nhân của cuộc đối đầu ý thức hệ ở miền Nam
đau thương nầy. Thông
thường, những người
nổi danh mới viết hồi ký để khoe khoang cuộc đời đã
được nhiều người chú ý. Tôi viết hồi ký chỉ để
lưu lại những nỗi niềm yêu thương và đau khổ.
Tôi
tên là Hoàng thị Hồng Ngọc, sinh năm 1950, tại Sài gòn.
Ngày tôi ra đời, mẹ xem tôi như là bảo vật, định đặt
tên là Bích Ngọc. Cha tôi nghĩ đến một thứ còn quý
giá hơn tất cả của cải vật chất, bắt mẹ phải đổi
tên tôi là Hồng Ngọc. Thứ quý giá nhất trên đời của
cha tôi có màu đỏ, màu của chủ nghĩa cộng sản bách
chiến bách thắng.
Cũng
bởi vì vậy, trước đó năm năm, anh tôi được đặt
tên là Hồng Quân. Chính cái tên nầy cùng với những lời
ca tụng chủ nghĩa cộng sản của cha tôi mà anh Quân sớm
giác ngộ đi theo cách mạng. Từ những năm còn ngồi trên
ghế nhà trường trung học, kế tiếp là đại học, anh
đã tham gia tổ chức bí mật của phong trào học sinh sinh
viên, do thành đoàn Sài gòn Gia định lãnh đạo. Đến
năm anh được hơn 20 tuổi, tổ chức nội thành của anh
bị bể, nhiều đồng chí bị bắt nhưng anh may mắn trốn
thoát ra chiến khu. Một tháng sau, có tin từ chiến khu đưa
ra, anh đã qua đời trong một trận càn của quân đội Mỹ
và Việt Nam Cộng hòa; người ta vùi xác anh ở đâu đó,
trong lòng đất giữa cánh rừng già của mật khu Dương
Minh Châu.
Khi
nghe tin anh Quân mất, cha tôi vừa khóc vừa nghiến răng,
cặp mắt ông vừa bi thương, vừa rực lửa căm hờn. Mẹ
tôi thì gục xuống, đổ nát như căn nhà sau cơn động
đất. Suốt ba tháng dài mẹ không thiết ăn, không thiết
ngủ, chỉ ngồi bất động trước thềm, nhìn sững về
phía cổng nhà. Nơi đó, mỗi buổi chiều, anh Quân lom
khom đẩy xe qua lùm hoa bông giấy, cất tiếng chào rộn
rã cả một khoảng sân. Rồi mẹ gượng dậy, lần mò
với công việc, nhưng trong mắt mẹ vẫn đọng lại một
khoảng tối đen.
Hơn
một năm sau cái chết của anh Quân, vào một buổi chiều
xẩm tối, có một thanh niên đến tìm nhà tôi. Anh ta cao
lớn, đội nón lưỡi trai phủ ngang tầm mắt. Dưới bóng
tối của hàng bông giấy, người con trai xa lạ thì thầm:
-
Xin lỗi. Tôi hỏi thăm nhà anh Quân.
Ánh
mắt anh giấu sau vành nón vải vẫn lóe sáng dưới ánh
đèn đường. Tôi giật mình lùi lại:
-
Đây là nhà anh Quân.
-
Tôi là người cách đây một năm có gặp anh Quân.
-
Anh gặp anh Quân ở đâu?
-
Ở chiến khu.
Tim
tôi thắt lại, vừa đau đớn vừa sợ hãi. Nhưng giọng
người con trai ấm và chân thật, có vẻ như là người
miền Tây Nam bộ. Lúc đó là buổi chiều, ba mẹ đều đã
đi làm về. Tôi vội vã mời anh vào nhà, thấy ngẩn ngơ
khi nép sang bên cửa cho anh bước qua. Tại vì sao, tôi
không lý giải được. Vì mắt anh sáng quá, giọng anh ấm
quá? Không phải. Có lẽ vì, dáng vóc cao gầy của anh
đang lom khom đẩy xe qua cánh cửa. Cũng vào đúng giờ
này, anh Quân đi làm về và lớn tiếng chào ba mẹ.
Người
thanh niên tự giới thiệu với ba mẹ, anh tên là Định.
-
Cháu có gặp anh Quân trong chiến khu và biết được
nguyên nhân cái chết của anh Quân.
Khuôn
mặt mẹ tái đi dưới ánh đèn. Bàn tay xanh xao của mẹ
vội vã bíu lấy thành ghế. Tôi lao đến bên mẹ, hoảng
hốt gọi:
-
Mẹ!
Nhưng
mẹ cứ đứng như trời trồng, nhìn sững về phía cổng
nhà. Nơi đó, giàn bông giấy phủ bóng lạnh lẽo.
Ba
thì bình tĩnh, gần như là mừng rỡ. Ba vồn vã nhắc ghế
mời anh ngồi. Hối thúc tôi pha trà.
Người
thanh niên tên Định kể rằng, anh Quân chết chắc chắn
không phải do bom đạn của quân thù mà chính người của
cách mạng giết chết. Tổ chức của anh Quân bị bể và
bị tóm gọn lúc đang có một cuộc họp bí mật, hình
như có người điềm chỉ. Anh Quân may mắn thoát được,
vì đến trễ do bị hư xe. Lo sợ những người bị bắt
không chịu nổi sự tra tấn nên anh Quân được liên lạc
đưa ngay ra chiến khu để tránh sự truy lùng của địch.
Ra
đến chiến khu, anh Quân bị liệt ngay vào dạng nghi ngờ
phản bội nên bị quản thúc để điều tra xem có liên
can đến việc điềm chỉ để phá vỡ tổ chức cách
mạng hay không. Nói là quản thúc nhưng thục tế là bị
giam cầm; ban đêm người ta dùng dây xích khóa chân anh
cẩn thận. Bị đối xử như thế nên anh Quân tỏ ra hết
sức bất mãn, nhiều khi không tự kềm chế được và
nổi nóng thốt ra những lời nói rất tai hại. Chỗ giam
giữ anh Quân lại không xa lắm với vùng do quân đội
quốc gia kiểm soát nên sự mất bình tĩnh của anh Quân
là điều rất nguy hiểm.
Rồi
quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa phối hợp mở một
cuộc hành quân lớn càn quét chiến khu. Anh Quân chết
trong cuộc càn quét nầy. Một người quen với anh Định
quả quyết rằng anh ta đã chứng kiến tận mắt; anh Quân
bị bắn chết trước khi quân địch tràn vào.
Khi
nghe kể đến đây, ba tôi đứng phắt dậy mắng anh Định
mang đến đây những lời nói vu khống thô bỉ để bôi
nhọ danh giá của anh Định và cả gia đình. Ông bị cơn
cuồng nộ lôi cuốn đến đỗi không tự kềm chế được
nên đưa tay chỉ vào mặt anh Định và đuổi anh ra khỏi
nhà. Mẹ vẫn ngồi yên, mắt nhìn đăm đăm ra cổng, mấy
ngón tay xanh xao nắm chặt mép bàn. Tôi đứng tựa vách
phòng, nước mắt trào ra không ngưng. Lý do gây nên cái
chết của anh Quân không làm tôi xúc động. Tôi chỉ nghe
lòng mình đau đớn vô cùng vô tận khi có người xác
nhận một lần nữa là tôi không còn bao giờ thấy mặt
anh tôi trên cõi đời.
Định
đứng dậy, nét mặt vừa thảng thốt, vừa thê lương.
Anh không dám nhìn ba mà quay sang nhìn mẹ rồi nhìn lên
bàn thờ anh Quân, lẩm bẩm:
-
Xin lỗi, cháu xin lỗi hai bác. Cháu xin từ biệt.
Rồi
anh vội vã quay lưng đi. Ba ngồi xuống ghế, gục mặt
trên bàn. Hai bàn tay ba vẫn nắm chặt, tưởng như bất
cứ lúc nào cơn giận dữ cũng có thể bùng lên và ba sẽ
đấm tay xuống bàn rồi hét to:
-
Đi. Cút khỏi đây. Quân phản bội.
Khi
chiếc bóng cao gầy của người thanh niên vừa khuất sau
giàn bông giấy, mẹ bỗng đứng dậy, lảo đảo chạy ra
sân. Như một phản xạ từ trong nỗi sợ hãi vô hình nào
đó, tôi lao theo, níu tay mẹ lại.
-
Mẹ! Mẹ sao vậy?
Không
ngờ mẹ nghiêng mặt nói nhỏ vào tai tôi. Giọng mẹ bình
tĩnh lạ lùng:
-
Con ra tiễn khách. Dặn cậu ta có dịp trở lại để mẹ
hỏi thăm.
Tôi
chạy vội ra đường. Định đã dắt xe đạp đi một
khoảng cách khá xa. Anh không đạp xe mà cứ cúi đầu,
nặng nề đẩy xe về phía trước. Trong một phút bất
ngờ, anh dừng lại, quay đầu nhìn sững về phía cổng
nhà tôi. Ở đó, tôi cũng đang đứng chôn chân dõi nhìn
anh.
Lúc
này trời đã tối hẳn, bóng đèn bên kia đường tỏa
bóng vàng vọt, nhưng tôi vẫn nhìn thấy rõ ràng ánh mắt
u buồn và khuôn mặt cương nghị của anh. Hình ảnh đó
in đậm mãi trong lòng tôi nhiều năm sau này, và chắc
chắn là cho đến cuối cuộc đời.
Tôi
không cần gọi anh, có một sức mạnh mơ hồ nào đó kéo
chúng tôi đi về phía nhau. Định không ngạc nhiên, không
tò mò, chỉ mỉm cười chờ đợi.
Tôi
cúi đầu nói nhỏ:
-
Xin lỗi anh, gia đình em đối xử không tốt với anh.
Giọng
anh ôn tồn ấm áp:
-
Không, chính tôi mới có lỗi. Tôi đâu có ngờ lòng thù
hận của bác trai lớn như vậy. Xin cô thông cảm, tôi
chỉ muốn đem sự thật đến cho gia đình. Một người
đồng chí của Quân đã khẩn thiết nhờ tôi. Cái chết
của Quân thật là oan khuất. Không ngờ tôi vô ý xúc
phạm trắng trợn nỗi đau của gia đình. Một lần nữa
tôi xin nhận lỗi. Cô có vui lòng tha lỗi cho tôi không?
-
Không, đối với em, anh chẳng có lỗi gì cả. Em không
quan tâm đến lý do chết của anh Quân. Ba em thì khác; với
cái chết của người thanh niên trên chiến trường hay
trong chiến khu, ông phân biệt rất rõ ràng hai từ “đền
tội” và “hi sinh”. Bị chết vì viên đạn của quân
Giải phóng là “đền tội”, đáng bị nguyền rủa; bị
chết vì viên đạn của lính Mỹ hay lính Cộng hòa là
“hi sinh”, là anh hùng liệt sĩ. Nhưng đối với em thì
chẳng có gì khác biệt cả. Nó chỉ có ý nghĩa duy nhất
là em không còn bao giờ thấy mặt anh Quân của em nữa.
Tôi
bậm môi cố ngăn nước mắt trước người lạ, nhưng
không thể được. Tôi đưa hai tay lên che mặt và khóc
nức nở.
Giọng
nói thì thào đầy xúc động của Định gần bên tai tôi:
-
Tôi thực có lỗi. Anh Quân qua đời đã một năm rồi.
Thời gian có lẽ đã hàn gắn phần nào vết thương trong
tim của những người đáng quý thì tôi lại đến làm
cho vết thương rớm máu trở lại. Cô hãy tha lỗi cho
tôi. Tôi không bao giờ dám đến để gợi lại nỗi đau
của gia đình cô nữa. Xin chào cô.
Tôi
hoảng hốt bỏ tay che mắt, vội vàng nói:
-
Nhưng mẹ em mong anh đến một lần nữa để hỏi thăm
thêm tin tức của anh Quân. Mẹ em vẫn mong muốn tìm được
hài cốt của anh ấy.
Định
thoáng ngạc nhiên:
-
Vậy, tôi sẽ đến thăm bác vào buổi sáng ngày kia.
-
Dạ, buổi sáng không có ai ở nhà. Ba em đi làm, em đi học
và mẹ em đi dạy.
Tôi
sực nhớ đến cha tôi và thái độ giận dữ của ông,
nên vội vã nói thêm:
-
Xin anh vui lòng trở lại vào giờ làm việc buổi chiều,
lúc ba em không có ở nhà.
Định
lại không chú ý đến chuyện cha tôi mà hỏi về mẹ
tôi:
-
Bác gái là cô giáo à?
-
Dạ, mẹ em là giáo sư trung học, chỉ dạy buổi sáng
thôi.
Thấy
Định nhìn tôi với cặp mắt đầy ngưỡng mộ nên một
niềm hãnh diện về mẹ chợt dâng lên trong lòng tôi. Tôi
nói tiếp:
-
Mẹ em dạy lớp mười một. Năm ngoái em được học ngay
lớp mẹ em dạy.
Định
mỉm cười có vẻ thích thú:
-
Cô đang học lớp mười hai hả?
Anh
nói tiếp, giọng thoáng vẻ châm chọc:
-
Năm ngoái có khi nào cô bị “giáo sư mẹ” rầy chưa?
Anh
nín bặt, có lẽ thấy câu khôi hài không phù hợp với
lúc nầy. Giọng anh trở lại nghiêm trang:
-
Xin lỗi cô nếu điều tôi muốn biết sau nầy là đường
đột. Có lẽ bác trai cùng nghề với bác gái?
-
Dạ không, trước ba em làm ở bưu điện, nay làm ở một
hãng xuất nhập khẩu của tư nhân.
-
Sao bác đổi nghề vậy?
Tôi
định giải thích rằng ba tôi đang làm ở sở Bưu điện
thì bị bắt. Ra tù, ba bị đuổi sở, thất nghiệp một
thời gian rồi xin được việc làm của doanh nghiệp tư
nhân. Tuy nhiên tôi kịp nhận ra rằng tâm sự như thế là
thái quá đối với người chưa từng quen biết. Do đó,
tôi chỉ im lặng, lắc đầu.
Định
nhìn tôi thật lâu, rồi lưu luyến nói:
-
Xin tạm biệt cô.
-
Chào anh, anh nhớ đến nói chuyện với mẹ em.
Tôi
nói thật lòng và mong anh sẽ quay lại.
Ba
ngày sau, Định đến vào buổi xế chiều. Chỉ có mẹ ở
nhà. Tôi đi học tất cả các buổi sáng nhưng trong tuần,
có thêm giờ học buổi chiều duy nhất vào ngày thứ năm,
lại trúng ngày hôm Định đến.
Khi
tôi về nhà, mẹ bảo anh Định vừa từ giã mới khoảng
mười phút. Tôi ngẩn ngơ như vừa bỏ lỡ một dịp may.
Giá như hôm nọ tôi nói cho anh biết, chiều thứ năm tôi
phải đi học. Ý nghĩ thoáng qua làm tôi tự hỗ thẹn. Lẽ
ra tôi cần phải quan tâm đến sự thật về cái chết
của anh Quân, đằng này tôi chỉ mong gặp lại người
con trai xa lạ.
Tôi
áy náy nắm lấy tay mẹ.
-
Mẹ, anh Định kể chuyện gì về anh Quân?
Mẹ
im lặng không trả lời, đăm đăm nhìn vào bếp lửa. Hai
dòng nước mắt lặng lẽ ứa ra. Tôi đứng chết lặng
nhìn mẹ, không dám hỏi gì thêm. Nỗi nhớ thương đẩy
hai mẹ con vào khoảng không gian u uất nặng nề. Mãi một
lúc sau, mẹ mới dùng tay áo lau mắt cho khô, rồi nói với
giọng nhẹ nhàng:
-
Có, nó kể nhiều chuyện, nhiều lắm.
-
Chắc là chuyện... học hành, hả mẹ?
-
Nó nói đủ hết. Phần lớn là chuyện trong chiến khu.
Giọng
mẹ nghẹn ngào. Tôi ôm chầm lấy mẹ:
-
Thôi. Thôi, mẹ. Để khi khác mẹ kể con nghe cũng được.
-
Ừ phải, ba mày sắp về rồi, để mẹ làm cơm.
-
Dạ, mẹ để chuyện đó sang một bên. Mẹ mà nhắc đến
anh Quân, thế nào mẹ cũng khóc. Ba về mà thấy mẹ khóc
thì tội nghiệp cho ba.
Mẹ
nhìn sững tôi, dường như lời nói đùa của tôi không
thích hợp:
-
Mẹ không biết là tội cho ai.
Có
tiếng xe dừng trước cổng. Con chó ki ki chạy ra ăng ẳng
mừng rỡ. Ba tôi thò tay vào trong mở chốt cửa và rú
máy cho xe chạy thẳng vào hiên nhà. Mẹ vẫn cắm cúi bên
bếp lửa chứ không ngẩng lên cười với ba như thường
lệ. Tôi biết mẹ muốn có thêm vài phút để dìm cơn
xúc động vào sâu tận đáy lòng. Từ nhiều tháng nay,
gia đình chúng tôi tránh nhắc đến anh Quân, nhất là
trong buổi cơm chiều, giờ phút sum họp hạnh phúc của
gia đình bé nhỏ chúng tôi.
Ngày
hôm sau, tan học, tôi vội vã đạp xe về nhà. Buổi trưa,
ba ở lại sở làm, chỉ có hai mẹ con dùng cơm tại nhà.
Bữa cơm thực đơn sơ, do người hàng xóm nấu giùm và
mang qua.
Vừa
ngồi vào bàn, mẹ tôi nói ngay:
-
Mẹ biết con nóng lòng muốn nghe chuyện anh Quân của con.
Tôi
lo lắng nhìn mẹ, nhưng khuôn mặt mẹ bình thản lắm.
-
Mẹ nói cho con nghe đi. Anh Định cùng ra khu một lượt
với anh Quân phải không? Trước khi ra khu, hai người cùng
chung một tổ chức phải không?
-
Không, mẹ có hỏi thì cậu Định bảo rằng hai đứa chỉ
biết nhau sơ sơ khi gặp nhau ở văn phòng của tổng hội
Sinh viên và cậu Định không hề biết anh con là cán bộ
của Mặt trận Giải phóng. Ở trong chiến khu, hai người
tình cờ gặp nhau có một lần, nhận được nhau là người
quen nhưng không dám nói chuyện với nhau. Cậu Định bảo
đó là nguyên tắc của chiến khu. Hơn nữa, anh con đang
trong thời kỳ bị công an điều tra.
Tôi
giật mình buông đũa:
-
Vậy tại sao anh Định biết anh Quân bị họ giết chết?
Tại sao anh Định lại biết nhà của mình?
-
Lúc đầu mẹ cũng thắc mắc như con, nhưng chưa dám hỏi
thẳng. Mẹ ngại cậu Định là người đang làm việc cho
bên nầy hay bên kia, cho nên nếu không khéo thì có thể
nguy hiểm. Ba con thì nóng tính, ăn nói không biết giữ
gìn. Thời buổi nầy không cẩn thận, dễ rước họa vào
thân.
Tôi
nhìn mẹ đầy yêu thương. Nhiều người khen mẹ khôn
ngoan biết cách sống trong thời buổi nhiễu nhương. Những
lời khen đó trước đây không làm tôi quan tâm, bây giờ
tôi mới thấy thấm thía.
Mẹ
nói tiếp:
-
Cậu Định là người rất thông minh. Thấy mẹ ngập
ngừng thì đoán được điều thắc mắc của mẹ nên
giải thích cho mẹ rõ. Cậu ấy không phải là cán bộ
nằm vùng của Việt cộng, trái lại thuộc gia đình có
chức phận quan trọng của Việt Nam Cộng hòa.
-
Nghĩa là sao hả mẹ?
-
Quê cậu ta ở Vĩnh long, mồ côi cha từ khi mới ra chào
đời. Mấy năm sau mẹ tục huyền. Chồng sau của bà là
một quận trưởng kiêm chi khu trưởng dưới đó.
Tôi
ngắt lời mẹ:
-
Quận trưởng thì giàu lắm. Tại sao con thấy anh Định
đi xe đạp cũ kĩ đến đây?
Mẹ
cười hiền hòa:
-
Con nầy lúc nào cũng để ý áo quần, xe cộ của người
khác. Đúng, quận trưởng thì giàu lắm. Ông nầy còn
giàu hơn nhiều quận trưởng khác nữa. Theo lời cậu
Định thì cha ghẻ cậu ấy là một tay tham nhũng gớm
lắm. Định tỏ ra căm ghét ông ta.
Tôi
hơi ngạc nhiên:
-
Anh Định chưa phải là người thân thiết với mình mà
tại sao lại kể rõ chuyện nhà như thế?
-
Mẹ cho rằng nó là đứa thành thật dễ mến. Vì vậy
những điều nó kể về anh Quân của con thì có thể tin
được.
-
Chắc vì ghét ông bố dượng tham nhũng mà anh Định lên
Sài gòn học.
Mẹ
lắc đầu:
-
Lời con đoán chỉ đúng phân nửa thôi. Suốt những năm
trung học, Định sống với mẹ và cha ghẻ. Đậu tú tài
xong, Định lên Sài gòn tự kiếm sống bằng cách đi kèm
trẻ tại tư gia và ghi danh vào học đại học Văn khoa.
Nghe
mẹ nói tới đại học Văn khoa, tôi bỗng thấy hứng
thú:
-
Lại đại học Văn khoa, trường của mẹ. Sang năm con
cũng sẽ vào Văn khoa.
Mẹ
vừa cười vừa trừng mắt với tôi :
-
Con nhỏ vô duyên, nói lạc đề. Mẹ đang kể chuyện cậu
Định, có liên quan gì tới con đâu.
Tôi
bẽn lẽn cúi đầu:
-
Mẹ kể tiếp đi. Nhưng tại sao mẹ nói về anh Định dài
dòng vậy. Con muốn nghe chuyện anh Quân mà.
-
Có lẽ nghề nghiệp tập cho mẹ thói quen rồi. Muốn tìm
hiểu một điều gì thì trước hết phải xác nhận độ
tin cậy của nguồn thông tin về điều đó trước đã.
Chuyện của thằng Quân xảy ra tuốt trong chiến khu, bây
giờ nghe cậu Định kể lại thì phải tìm hiểu cậu ta
trước đã. Hơn nữa, năm ngoái, người chính thức của
Mặt trận Giải phóng đến báo là thằng Quân đã hi sinh
trong một trận càn của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng
hòa. Nay cậu Định bảo anh Quân của con chết là do phe
cách mạng giết. Hai nguồn tin đó hoàn toàn trái ngược
nhau, sự thực là thế nào?
Mẹ
ngưng một chút rồi lắc đầu buồn bã:
-
Thực ra, mẹ cũng chẳng tha thiết biết sự thực làm gì.
Với sự thực nào thì nó cũng chẳng còn nữa. Nhưng mẹ
mong muốn tìm được hài cốt của anh con. Có một đồng
nghiệp của mẹ giải thích rằng, nếu anh con bị chết
vì lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa thì có thể chính quyền
Việt cộng trong đó ghi lại vị trí chôn cất. Còn nếu
bị người của cách mạng khử thì nơi chôn bị san
phẳng, không thể nào tìm được hài cốt.
Mẹ
lại ngưng nói, buông đũa, dùng tay áo lau nước mắt. Lần
này, thấy mẹ khóc, tôi cũng òa khóc theo. Sự thật về
cái chết của anh tôi còn gắn liền với nỗi đau khác.
Thân xác anh tôi bị vùi lấp tàn nhẫn, không có được
một phần bia mộ cho người thân thăm viếng.
Tôi
cúi mặt xuống chén cơm đã vơi. Giọng mẹ lại tiếp
tục vang lên chậm rãi:
-
Cậu Định học Văn khoa, năm đầu đậu chứng chỉ dự
bị, qua năm sau rớt chứng chỉ chuyên khoa luôn hai khóa.
Cậu ấy bảo có cố gắng nhưng không thể nào tập trung
trí não vào việc học.
Tôi
nói lãng đi, với vẻ khôi hài:
-
Chắc là rơi vào bẫy tình rồi.
Lời
nói đùa của tôi làm mẹ cười, nét vui tươi gượng gạo
hiện lên gương mặt:
-
Đừng đoán bậy bạ. Định bảo không tập trung trí não
vào việc học vì chiến tranh mỗi ngày thêm ác liệt. Tin
tức về những trận đánh, về số người chết hằng
ngày nhan nhản trên báo chí. Nhiều người bạn của cậu
ấy lên đường nhập ngũ, có người đã vĩnh viễn nằm
xuống trên chiến địa. Cậu ấy bảo, cứ cầm sách vở
lên là nghĩ đến cảnh đau thương. Rớt là phải, không
có gì phải than phiền. Con cũng biết tất cả sinh viên
đều nằm trong tuổi quân dịch.
-
Kể cả những người lớn tuổi đi học thêm?
Mẹ
vỗ đầu tôi, mỉm cười:
-
Mẹ không kể những người đó vì họ là số ít. Tất
cả học sinh và sinh viên trong hạn tuổi quân dịch đều
được hoãn dịch ví lý do học vấn. Nha Động viên bộ
Quốc phòng nắm rất kỹ danh sách, hễ cậu nào thi rớt
là nhận được lệnh động viên.
-
Nhưng anh Định có thể được miễn dịch vì là con một
chứ?
Mẹ
nhìn tôi thoáng ngạc nhiên, giọng hơi trêu chọc:
-
Con nhỏ nay rành chuyện lính tráng ghê. Hay là con đang để
ý chuyện quân dịch cho đứa bạn trai nào?
Tôi
cười bẽn lẽn:
-
Con đâu còn nhỏ nữa, mà cũng chẳng nhọc công lo cho ai.
Nhưng hằng ngày con vẫn đọc nhật báo của ba mà.
-
Ừ phải. Nhưng cậu Định không được miễn dịch vì
với người chồng sau, mẹ cậu cho ra một loạt con, vừa
trai vừa gái.
-
Vậy là anh Định bị gọi đi lính.
-
Phải, nó nhận được giấy báo trình diện đi học sĩ
quan trừ bị.
-
Rồi anh Định bỏ trốn vào chiến khu theo Việt cộng
luôn.
Mẹ
lắc đầu:
-
Nó bảo rằng nó không có ý định trốn. Ghét cha ghẻ
tham nhũng nhưng nó cũng chẳng có lý tưởng cách mạng
chút nào. Tình cờ, có người bạn cùng lớp là cán bộ
cộng sản nằm vùng, anh ta đang lôi kéo Định theo mình.
Khi vào khu công tác, anh ta rủ nó đi theo. Định theo liền
vì thích có dịp biết chiến khu ra sao. Thanh niên nào lại
không có tính tò mò và phiêu lưu. Nó ở trong đó được
gần một tháng; nó bảo rằng chán lắm, chẳng thấy cái
gì hay mà cái chết cứ rình rập hằng giờ hằng phút
nên nó xin về và được liên lạc đưa về.
-
Sao dễ vậy? Tại sao anh Quân không làm như anh Định?
-
Mẹ cũng có hỏi như thế và cậu Định giải thích rằng
anh Quân của con đang bị quản thúc vì bị nghi ngờ phản
bội. Hơn nữa anh con chính thức là người của Mặt
trận, có thể biết mặt một vài cán bộ và biết rõ
một vài địa điểm bí mật ở thành phố, nên nếu nó
thực sự phản bội mà cho nó trở về thành thì rất
nguy cho cách mạng.
Tôi
vẫn còn thắc mắc:
-
Nhưng người đưa anh Định vào chiến khu thì cũng coi như
bị lộ rồi.
-
Phải. Định cũng có nói anh ta hơi vội vã khi dẫn Định
vào chiến khu, vì tưởng Định có quyết tâm theo cách
mạng. Mà anh ta cũng tin rằng, Định không phải là loại
người đi tố cáo bạn với công an mật vụ. Hơn nữa,
vào đến chiến khu thì người bạn biến mất, Định
cũng không biết hắn ở tổ chức nào. Anh Quân con thì
khác, không thể trở về thành một cách dễ dàng được.
Anh con chỉ có hai con đường, một là để họ điều tra
cho chán chê rồi trở lại nhận công tác của họ …
Mẹ
ngưng nói, nuốt nước bọt để dằn cơn xúc động. Tôi
hỏi nhỏ:
-
Còn con đường thứ hai?
-
Phải chết!
Hai
tiếng “phải chết” của mẹ thốt ra nghe như tiếng
của chiếc ly pha lê vô cùng quý báu, rơi xuống đất vỡ
tan tành. Tôi cảm thấy lòng quặn đau cho số phận những
thanh niên ứu tú như anh tôi đã chọn phải con đường
tai hại này. Bỗng dưng một niềm phẫn uất dâng lên làm
cho giọng tôi run run:
-
Nhưng anh Quân vẫn một lòng một dạ theo họ mà.
-
Con phải hiểu cái lòng dạ trung thành đó là thứ vô
hình và sự nghi ngờ của họ lại là điều hiện thực.
-
Nhưng tại sao họ không để cho anh Quân sống để điều
tra cho ra lẽ mà giết anh ấy đi?
-
Mẹ cũng có hỏi cậu Định y như con vậy và cậu ấy
giải thích rằng, xui cho anh con là việc nầy rơi vào cuối
năm 1969. Trong tết Mậu thân 1968, lực lượng của họ bị
tiêu hao quá nhiều trong cuộc tấn công vào các thành phố
và sau đó chưa kịp bổ sung đầy đủ nên không đủ sức
đương cự những cuộc tấn công của Mỹ và Việt Nam
Cộng hòa vào các chiến khu. Ở thành phố thì rất nhiều
tổ chức bí mật bị phanh phui vì ra mặt yểm trợ cho
cuộc tổng tấn công. Thói thường gặp bước cùng quẫn
thì người ta không còn nhân đạo nữa. Hơn nữa, người
cộng sản rất nổi danh với chủ trương “thà giết oan
mười người còn hơn thả nhầm một người”.
Mẹ
thở dài áo não rồi tiếp tục với giọng thê lương:
-
Cậu Định kể rằng, chính người bạn cán bộ cộng sản
dẫn cậu ta vào chiến khu chứng kiến cái chết của anh
con. Người cán bộ nầy là bạn học đại học với
Định. Anh ta là người có học. Có học thì tất nhiên
còn lòng nhân….
Tôi
lặng người đi trong nỗi xót xa:
-
Chứ không tàn bạo như những người đồng chí răng đen
mã tấu của họ?
Mẹ
gật đầu:
-
Để mẹ nói tiếp cho con nghe. Anh ta rất thương tâm khi
thấy anh con bị trói lại, lôi ra sau vườn và hai tiếng
súng nổ…. Sau đó là tiếng cuốc bổ xuống nền đất….
Cảm
giác kinh hoàng tràn qua lòng, làm tôi nghẹn thở. Làm sao
con người có thể đối xử với con người dã man như
vậy. Chiếc bóng cao gầy của anh tôi hiện ra nơi góc
bếp, anh đang lui cui đóng lại cái kệ tủ cho mẹ. Tôi
cũng ôm tập xuống bếp, ngồi học cạnh bên anh giữa
đám kềm búa cưa đục ngổn ngang. Thỉnh thoảng tôi
ngước lên nhìn khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của anh,
nũng nịu hỏi anh mấy bài toán. Những kỷ niệm rất đỗi
bình thường ngày nào giờ đã vĩnh viễn bị chôn vùi
sau hai tiếng súng tàn ác.
Cả
hai mẹ con cùng im lặng rất lâu. Mãi rồi tôi mới hỏi
tiếp như lời buộc tội:
-
Anh Định có chứng kiến việc anh Quân bị hành quyết
hay không?
-
Không, mẹ đã hỏi rồi. Nếu nó có ở đó, thì nó đã
không đủ can đảm tới đây. Hai người chỉ gặp nhau
một lần duy nhất trong chiến khu và lúc anh con chết thì
Định đã về thành trước đó nhiều ngày.
-
Nên anh Định thoát khỏi trận càn. Còn người cán bộ,
bạn của anh Định thì sao?
-
Anh ta trốn thoát được về thành và tìm đến ngay nhà
anh Định kể lại tỉ mỉ chuyện hành quyết anh con và
bảo anh Định hãy đến báo cho gia đình mình biết để
lo cúng giỗ hằng năm.
-
Vậy là cái người của Mặt trận Giải phóng, cách đây
một năm, đến báo anh Định đã hi sinh khi chiến đấu
chống với quân thù trong trận càn, là người nói láo.
Mẹ
chặm nước mắt, chậm rãi gật đầu:
-
Mẹ cũng nghĩ như thế.
-
Nhưng tại sao họ không im đi mà đến nói láo như thế?
-
Mẹ không biết rõ lý do. Có thể đó là nguyên tắc hoạt
động của họ, cũng có thể họ báo như thế để gây
lòng căm thù “Mỹ ngụy” trong gia đình mình, trong họ
hàng và trong giới bạn bè của anh Quân con.
Cơn
tức giận của tôi bùng nổ, không còn kềm chế được:
-
Thực là kinh tởm. Giết người vô tội rồi còn lợi
dụng xác chết để tuyên truyền nữa. Thế mà con cứ
đinh ninh lính quốc gia giết anh Định và nhiều khi nhớ
thương anh quá có lúc con có ý nghĩ trả thù nữa. Nay sự
thực được phơi bày mới thấy tất cả sự bỉ ổi của
cuộc chiến tranh giải phóng thần thánh của họ.
Mẹ
run run vuốt tóc tôi:
-
Mẹ cũng phẫn uất như con, nhưng mình nên dè dặt trong
lời ăn tiếng nói. Những lời con vừa mới nói, người
ngoài nghe thì nguy hiểm, còn ba con nghe thì ông sẽ rất
phiền lòng.
Lời
khuyên của mẹ rất chí lý, nhưng không làm tôi hết tức
giận ngay được.
-
Tại sao, đến bây giờ, sau hơn một năm anh Định mới
đến báo tin, làm cho con phải tin theo lời dối trá trong
đầu một thời gian dài như thế? Anh Định thực đáng
trách.
-
Đừng vội trách Định con ạ. Định có nói, lúc trước,
Định và anh con có gặp nhau nhưng chưa quen nhau nên Định
không biết nhà mình, phải hỏi qua nhiều người mới ra.
Hơn nữa, người cán bộ dặn Định đừng nên đến nhà
mình quá sớm, e địch còn đang truy lùng. Lại nữa, cả
năm nay, Định không có mặt tại Sài gòn.
-
Chứ anh ấy đi dâu?
-
Định ở Đà lạt. Từ từ rồi mẹ sẽ kể cho con nghe
tại sao Định ở Đà lạt. Bây giờ mẹ muốn nói tiếp
về cái chết của anh con.
-
Dạ, mẹ kể đi. Con cũng muốn nghe cho rõ hơn để khỏi
bị họ lừa gạt một lần nữa.
-
Người bạn cán bộ nằm vùng nói với Định rằng anh ta
có gặp anh con vài lần và khuyên nhủ cố gắng nhẫn
nhục, ai trong hoàn cảnh anh con cũng bị điều tra. Người
cán bộ cũng công nhận rằng cơ quan công an tại đó đối
xử với anh con như thế là quá khắc nghiệt. Khắc nghiệt
hơn nhiều nơi khác. Anh ta có khuyên anh con đừng nên nản
chí, phải tuyệt đối tin tưởng ở đảng, giữ vững
tinh thần để khi kết thúc điều tra thì tiếp tục phục
vụ cho cách mạng cho đến lúc hoàn toàn thành công. Tuy
nhiên, anh con đã quá bất mãn và hoàn toàn thất vọng
với con đường cách mạng, lại trong hoàn cảnh bị đối
xử không khác một tù nhân chút nào. Điều tai hại lớn
nhất mà anh con không biết là ông công an hỏi cung không
phải là người điều tra chính thức. Người chính thức
điều tra anh con là anh cần vụ mỗi ngày đem cơm nước
đến và ngồi rỉ rả tâm tình với anh con. Thế là bao
nhiêu ý nghĩ bất mãn anh con trút cả cho anh cần vụ này.
Có lẽ anh con nghĩ rằng trút được bầu tâm sự cho ai
đó thì tấm lòng được nhẹ nhàng để có thể chịu
đựng tốt hơn.
Tôi
tức giận:
-
Thế là anh con không ngờ, đưa cổ cho người ta chặt một
cách ngon ơ.
-
Anh cán bộ nói, thực ra người ta chưa có ý định giết
anh con, nhưng vì Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tấn công vào
dữ quá nên họ giao anh con cho dân quân du kích giữ giùm.
Những người nầy tưởng anh con là loại phản động thứ
thiệt nên giết cho rảnh tay rảnh chân mà chạy.
Mẹ
ngừng nói kéo tay áo lên lau nước mắt. Tôi bàng hoàng
nhìn lảng ra nơi khác. Ở nơi nào cũng tràn ngập hình
ảnh thân thương của anh tôi. Thân xác đó ngày nào còn
sống động, còn tràn đầy những mơ ước về tương
lai, hoài bão về một thế giới đại đồng con người
sống chan hòa thân ái với con người..
-
Anh Định có nói anh Quân bị chôn ở vùng nào không?
-
Có, mẹ có hỏi nhưng cậu Định không thể biết đích
xác là vùng nào. Khi đi, người ta dẫn cậu ấy lên Bình
dương, qua đò ngang rồi đợi trời tối đi bộ suốt một
đêm và nửa ngày mới tới nơi. Cậu ấy nói, suốt gần
một tháng trong chiến khu, cậu ấy không dám hỏi thăm
bất cứ điều gì. Có lần tình cờ nghe người ta nói
tên Bến súc, không biết có phải vùng đó không. Mẹ
nghĩ rằng, với thời cuộc nầy, mẹ không bao giờ có
dịp nhìn thấy được hài cốt của anh con nữa.
Giọng
mẹ ngắt khoảng vì hơi thở dồn dập. Tôi biết mẹ
đang vô cùng đau khổ nên cố an ủi:
-
Nhưng mình có thể nhờ anh Định cho gặp ông cán bộ đã
dẫn anh ấy vào khu.
Mẹ
thở dài, mệt mỏi xoa tay lên thái dương:
-
Mẹ có nói điều nầy thì cậu Định trả lời ngay rằng
người cán bộ đó đã chuyển công tác ra khu, không về
Sài gòn nữa. Bây giờ, nếu anh ta có về thì cũng không
để cho Định gặp mặt. Ngọc, mẹ hơi mệt.
Thấy
mặt mẹ bỗng nhiên trắng bệch, tôi hoảng hốt, vội
vàng dìu mẹ vào giường, xoa bóp cho đến khi mẹ ngủ
yên, hơi thở điều hòa. Tôi trở ra dọn dẹp và lấy
sách vở ra, nhưng không tài nào học được.
Một
lúc sau, nghe có tiếng động trong phòng, tôi biết mẹ đã
thức giấc. Tôi vội vã chạy vào thì mẹ cũng vừa ngồi
dậy. Sau một giấc ngủ ngắn, mẹ đã tươi tỉnh trở
lại. Khuôn mặt phúc hậu của mẹ hiện ra trong bóng
chiều nhập nhoạng. Cặp mắt tinh anh nét trí thức, vầng
trán đã bắt đầu có nếp nhăn vì lo âu và phiền muộn.
Mẹ
thấy tôi đứng ngẩn ngơ bên ngạch cửa, ngọt ngào hỏi:
-
Sao ngơ ngác vậy con, mấy giờ rồi?
Tôi
nhìn đồng hồ tay:
-
Dạ bốn giờ.
-
Con đang học bài phải không?
-
Dạ con cố mà học không vô. Mẹ còn mệt không?
-
Mẹ khỏe rồi, nhờ giấc ngủ ngon.
Tôi
ngập ngừng:
-
Mẹ, con …. Con muốn nghe cho hết những điều anh Định
nói với mẹ sáng nay nhưng con sợ mẹ xúc động và mệt.
Mẹ
nhìn tôi, âu yếm:
-
Không sao, mẹ khỏe rồi. Mẹ còn một xấp bài chưa chấm.
Để tối chấm cũng được. Con gái mẹ muốn nghe thì mẹ
nói tiếp cho mà nghe.
Tôi
mừng rỡ nhưng còn ái ngại:
-
Nhưng con sợ mẹ lại mệt.
-
Bây giờ mẹ khỏe rồi, có thể nói chuyện tiếp được.
Khi nãy mẹ mệt là vì nhắc quá nhiều đến anh Quân của
con. Cái chết của anh con, cậu Định chỉ cho biết có
bấy nhiêu đó thôi, không nhắc nữa thì mẹ không mệt
đâu.
Sau
này, mỗi khi nghĩ đến mẹ, tôi vẫn thường tự trách
mình. Lẽ ra, từ buổi chiều hôm đó, tôi phải sớm nhận
ra bệnh tình của mẹ. Vậy mà tôi vẫn vô tư, xà xuống
lòng mẹ, tiếp tục hỏi huyên thuyên:
-
Anh Định còn nói chuyện gì với mẹ nữa?
-
Có, chuyện liên quan đến gia đình và đời sống của
nó. Mẹ có hỏi thì nó trả lời tỉ mỉ, không có ý
giấu giếm gì cả. Theo mẹ, nó là đứa thành thật và
cởi mở rất đáng khen.
-
Mẹ thường dạy học trò hai đức tính đó, nay gặp
người có tính tình như thế thì mẹ rất hài lòng, phải
không?
Mẹ
mỉm cười âu yếm:
-
Con gái hiểu mẹ lắm.
-
Có gì đâu, con ngồi trong lớp nghe mẹ thường khuyên bảo
chúng con như thế. Bạn con đứa nào cũng thích mẹ. Chúng
nó bảo con hạnh phúc được làm con của mẹ.
Bà
im lặng nhìn xa xa như không nghe lời ca ngợi của tôi. Bà
nói tiếp, tiếng thì thầm như tự nói với mình:
-
Cậu Định là một trong những người cuối cùng thấy
mặt anh con trên dương thế.
-
Vì vậy mẹ quan tâm đến đời sống của anh ấy phải
không?
-
Có lẽ đúng thế. Cậu Định hiện là sinh viên sĩ quan
trường Võ bị Quốc gia tại Đà lạt.
Tôi
ngạc nhiên:
-
Ủa, khi trưa mẹ nói anh Định bị gọi đi học trường
sĩ quan trừ bị tại Thủ đức mà anh ấy bỏ trốn. Có
đúng vậy không?
-
Phải. Nó trốn vào chiến khu gần một tháng thì trở về.
Lúc đó đã quá hạn trình diện vì khóa sĩ quan trừ bị
đã khai giảng rồi. Nó đi hỏi thăm thì người ta bảo
rằng nó bị liệt vào loại thanh niên vi phạm pháp luật
về quân dịch trong thời chiến và đang nằm trong danh
sách truy nã của bộ Quốc phòng và bộ Nội vụ. Nếu bị
bắt thì bị xử án rồi bị đưa đi làm lao công đào
binh trong nhiều năm.
-
Lao công đào binh? Con có đọc trong báo nhưng không hiểu
sự trừng phạt ra sao.
-
Đi làm khổ sai ngoài chiến trường như khiêng đạn, đào
hầm, làm đường, bắt cầu, vân vân, cho các đơn vị
tác chiến.
-
Bị khổ sai như thế trong bao lâu?
-
Thời gian thì tùy bản án của tòa án quân sự. Sau khi
xong thời gian khổ sai đó thì về học khóa huấn luyện
dành cho mọi tân binh quân dịch.
-
Sao người ta tàn ác thế hở mẹ?
Mẹ
thở dài:
-
Chiến tranh và tàn ác là đôi bạn đồng hành. Tàn ác
sinh ra chiến tranh và sau đó chiến tranh đẻ ra tàn ác.
Bên nào cũng vậy.
Bỗng
mẹ ngưng nói tiếp mà đột ngột hỏi tôi:
-
Trong trường, con có biết thầy Thịnh dạy sử địa hai
cấp lớp Sáu và Bảy không?
-
Dạ không biết.
-
Ừ, con không biết cũng phải. Lúc thầy Thịnh về dạy
thì hình như con lên lớp chín hay lớp mười rồi. Thầy
đó còn trẻ, vượt biên từ miền Bắc vào Nam, học đậu
tú tài và một chứng chỉ Văn khoa rồi xin vào dạy tại
trường mình. Mẹ và các đồng nghiệp trong Nam được
nghe thầy kể rất nhiều về chế độ miền Bắc, nhất
là về chuyện quân dịch mà ngoài đó gọi là nghĩa vụ
quân sự. Theo thầy Thịnh thì cách bắt lính trong Nam nầy
thực là ấu trĩ so với miền Bắc.
-
Tại sao gọi là ấu trĩ hở mẹ?
-
Trong Nam, bắt lính là làm đúng theo nghĩa đen của từ
nầy. Quân cảnh lùng sục và thộp cổ người trốn quân
dịch, quẳng lên xe và tống vào trại huấn luyện hay tòa
án quân sự. Cho nên những kẻ trốn quân dịch chỉ cần
tránh được quân cảnh là xong. Muốn thế, họ ở nhà
cho tử tế, đừng chọc giận hàng xóm để khỏi bị tố
cáo, hoặc lánh vào những nơi mà quân cảnh không được
phép xông vào như nhà thờ, đình, chùa, miếu, vân vân.
Thế là an toàn. Đó là chưa kể một số khác bị kêu đi
lính thì chui vào chiến khu, được tuyên truyền và cầm
súng bắn trở lại phía quốc gia. Thành ra bắt không được
lính mà thêm kẻ thù.
-
Còn ở ngoài Bắc?
-
Ngoài đó thì không thể trốn đi đâu được. Một người
trốn lính thì cả nhà bị trừng phạt, cho nên mọi gia
đình đều buộc phải bắt con em mình trình diện nếu có
lệnh gọi. Trốn quân cảnh như trong Nam thì được chứ
làm sao trốn được người thân như ở ngoài Bắc. Vì
thế, có những người mẹ, người chị vừa khóc vừa
dẫn con em mình đi “đăng ký nghĩa vụ quân sự”, vào
Nam chiến đấu, không có ngày về dù là về với cái xác
không hồn. Tội nghiệp, ngày xuất quân, người ta tổ
chức lễ tiễn đưa rất long trọng, cờ xí biểu ngữ
rực rỡ, nhưng những bà mẹ, bà chị lại vừa khóc, vừa
vẫy cờ hoan hô.
Tôi
nghe như mình sắp nghẹt thở. Tôi thì thào:
-
Sao mà thê thảm đến thế hở mẹ. Tại sao dân mình khổ
đến thế hở mẹ?
Mẹ
lắc đầu:
-
Mẹ cũng thường tự hỏi như thế. Cuối cùng đành phải
giải thích rằng đó nghiệp chướng từ nhiều kiếp
trước.
Mẹ
lại thở dài và nói tiếp:
-
Trong Nam mình, trốn lính thì vẫn sống được. Con nhà
giàu trốn lính vẫn no đủ phè phỡn, ban đêm còn đi ăn
chơi đàng điếm nữa. Ngoài Bắc thì không thể như thế
được. Lương thực do chính phủ thu hết và cấp phát
cho từng người vừa đủ ăn. Trốn lính thì cả nhà chỉ
có thể cặp đất vào bụng mà thôi. Vì vậy, mọi thanh
niên tới tuổi đều làm đơn tình nguyện vào lính cho
xong.
-
Hèn chi, đọc báo con thấy người của họ đưa vào Nam
chết cũng nhiều mà càng ngày lính của họ càng đông
hơn. Nhưng mà chuyện bắt lính ngoài Bắc như thế đối
với người Nam quả là lạ lùng, chắc có người không
tin là sự thực đâu.
-
Đúng vậy, nghe thầy Thịnh kể xong, trong số đồng
nghiệp của mẹ nhiều người tỏ ý nghi ngờ. Nhưng làm
sao xác quyết được đúng hay sai. Miền Bắc bị che phủ
quá kỹ sau bức màn sắt, chẳng có ai chui vào được để
tìm hiểu sự thực, kể cả các phóng viên ngoại quốc
tài ba.
-
Riêng mẹ có muốn biết những gì xảy ra sau bức màn sắt
đó không?
-
Muốn lắm chứ, vì vậy mẹ đã hỏi thăm thầy Thịnh
rất nhiều lần. Con không nhớ mẹ là giáo sư dạy môn
quốc văn à?.
Tôi
nhìn mẹ ngạc nhiên, không hiểu mẹ nói môn dạy của mẹ
để làm gì. Tôi tưởng mẹ quan tâm đến tình hình chính
trị ngoài Bắc vì quê ngoại ở ngoài đó. Nhìn vẻ ngơ
ngác của tôi, mẹ giải thích:
-
Con không hiểu hả? Mẹ là giáo sư lớp áp cuối bậc
trung học. Học trò của mẹ hầu hết đến tuổi quân
dịch. Hằng ngày mẹ đứng trước bọn trẻ đang đối
mặt với cuộc chiến tranh tàn khốc, mẹ phải cố am
hiểu thời cuộc một cách đúng đắn và toàn diện để
đủ tư cách dạy dỗ các con. Môn dạy của mẹ lại phải
phân tích cặn kẽ hoàn cảnh sống của các tác giả
trước kia. Nếu không am tường hiện tại mà thao thao với
quá khứ thì thực là xấu hổ. Hơn nữa, cái quá khứ mà
mẹ đang trình bày cho các con qua các tác phẩm văn học
phần lớn đều xuất phát từ đất Thăng Long cổ kính.
Vì thế làm sao mẹ không quan tâm đến cái chốn cội
nguồn dân tộc đó được.
Tôi
há hốc nhìn mẹ nói và tưởng chừng mẹ đang đứng
trên bục giảng nhìn xuống mấy mươi cặp mắt đang
ngưỡng mộ bà. Bạn tôi từng nói tôi phải hãnh diện
làm con của mẹ. Điều đó đúng biết bao.
Mẹ
quay lại nhìn tôi, mỉm cười:
-
Mẹ bị méo mó nghề nghiệp, hay lý luận dông dài. Ba mày
cũng thường rầy mẹ về điều nầy,
Tôi
cố bênh mẹ:
-
Ba thì ít nói. Con thấy ba là người bảo thủ với định
kiến của mình. Hễ ba đã có ý nghĩ gì thì khó có ai
lay chuyển nổi.
Mẹ
xua tay:
-
Con nhỏ nầy, bữa nay lại dám phê bình cả cha nó nữa.
Tuy
nói thế nhưng giọng bà có vẻ đồng tình với tôi. Tôi
hỏi lại đề tài cũ:
-
Tại sao anh Định lại vào học trường Võ bị? Có phải
ảnh bị bắt sau khi ở chiến khu về hay không?
-
Không phải đâu. Nếu bị bắt thì ra tòa rồi đi làm lao
công đào binh.
-
Hay là ảnh đi trình diện theo lệnh gọi nhập ngũ?
-
Cũng không phải. Nó bảo rằng nếu đi trình diện sau khi
khóa sĩ quan trừ bị đã khai giảng thì sẽ phải học
khóa đào tạo ra binh nhì. Học khóa nầy thì cực lắm
lại bị quá nhiều thiệt thòi khi ra đơn vị. Đó rõ
ràng là một biện pháp trừng phạt khá nặng nề.
-
Thế rồi ảnh làm sao?
-
Nó gởi thơ về kể hết sự tình cho mẹ nó. Không ngờ,
người cha ghẻ vừa biết tin là vội vã can thiệp. Ông
ta quen biết lớn ở nha Động viên nên lệnh truy nã được
bãi bỏ nhưng lệnh nhập ngũ vẫn phải thi hành. Nó nghe
lời bạn bè nộp đơn thi vào trường Võ bị Đà lạt và
trúng tuyển. Nó học được một năm rồi, vừa qua giai
đoạn Một và được về nghỉ phép.
Mẹ
nói xong, đứng dậy xoa đầu tôi:
-
Thôi, chiều nay nói chuyện như thế là quá nhiều rồi.
Mẹ
loạng choạng đi xuống bếp. Tôi xuống theo để phụ mẹ
lo bữa cơm chiều.
*
*
*
Đúng
sáu giờ, ba tôi đi làm về trong tiếng máy xe nổ giòn
giã.
Ba
tôi là một người đàn ông quắc thước. Ông luôn luôn
nhìn thẳng bằng cặp mắt tinh anh và cương nghị, dễ
gây sự nể nang nơi người đối thoại. Ông đậu diplôme
từ thời Pháp thuộc và xin vào làm ở sở Bưu điện lúc
mới hơn hai mươi tuổi. Ba năm sau, 1943, ba cưới mẹ tôi,
lúc đó còn là cô nữ sinh trường Áo tím. Đến đầu
năm 1945, anh Hồng Quân ra đời. Tháng tám năm đó, cách
mạng Mùa thu thành công. Hình như trước đó, ông đã chú
ý đến những hoạt động bí mật của những nhà yêu
nước, đặc biệt là của những đảng viên cộng sản
nên khi Việt minh cướp được chính quyền, ông lao vào
tham gia với tất cả nhiệt tình của tuổi trẻ.
Ông
thường kể đi kể lại giai đoạn nầy, bằng giọng nói
và điệu bộ thực sôi nổi. Nhiều chuyện chúng tôi nghe
rất nhiều lần đến thuộc lòng hơn cả những bài học
trong lớp. Lúc anh Hồng Quân còn nhỏ, có lần ba vừa
nói: “Hồi đó tao…” là anh Quân cướp lời: “Hồi
đó tao đã thấy mặt mấy ông lãnh tụ Việt Nam đứng
lên hô hào tổng khởi nghĩa. Ông Trần văn Giàu nè, ông
bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nè, ông Huỳnh Tấn Phát nè. Lúc
mấy ông đọc diễn văn trên đại lộ Norodom, tao đang
cầm tầm vông gác PTT (bưu điện) thành phố, tao ôm luôn
tầm vông đi nghe mấy ổng diễn thuyết….”
Anh
Quân bắt chước giọng cha tôi kể trơn tru một mạch,
tôi và mẹ ôm bụng cười ngất, ba cũng cười tủm tỉm
có vẻ hài lòng lắm.
Tôi
nghĩ rằng chính những hình ảnh cuộc cách mạng Mùa thu
đó đã gây cho ông cảm tình vô cùng sâu đậm đối với
Việt minh, một sự ngưỡng mộ rất lớn đối với các
lãnh tụ cộng sản. Tình cảm đó kéo dài mãi, không hề
phai nhạt cho đến nhiều năm sau đó.
Khi
Pháp trở lại chiếm Sài gòn, các ủy ban kháng chiến
hành chánh cùng lực lượng vũ trang rút về đồng quê và
rừng núi để tổ chức chiến tranh du kích, còn các cơ
quan kỹ thuật như hỏa xa, công chánh, bưu điện, giáo
dục… rút dần về phía bắc, ngang qua các tỉnh miền
Trung. Ba tôi cùng đi theo đoàn chuyên viên bưu điện.
Đến
Huế thì ông xin trở về vì lúc đó mẹ tôi còn quá trẻ
và anh Quân vừa tròn một tuổi. Ba xin trở lại làm việc
cho Bưu điện và chính quyền thuộc địa nhận ngay mà
không nghi ngờ gì cả. Người ta đang cần người có
trình độ chuyên môn và đang khuyến khích nhân viên cũ
từ bỏ cuộc kháng chiến để về thành phốHồng
quân ra đờiH.
Cha
tôi trở lại công việc cũ với chức vụ và ngạch trật
như trước ngày cách mạng Mùa thu, nhưng đầu óc ông
không còn là đầu óc lệ thuộc và cam phận của công
chức trước cách mạng nữa. Những ngày cầm tầm vông
vạt nhọn tham gia công cuộc cướp chính quyền do Việt
minh chủ xướng đã làm thay đổi dòng máu chảy trong con
tim và khối óc của ông. Thế là ông tham gia vào hoạt
động bí mật của Việt minh trong vùng địch hậu.
Theo
lời mẹ tôi kể lại thì ông không ở hẳn vào trong tổ
chức bí mật. Mẹ tôi giải thích rằng, ông đang có một
gia đình hạnh phúc với người vợ trẻ đẹp và đứa
con nhỏ dại nên người ta không thể xếp ông vào thành
phần trung kiên vì khi bị địch bắt ông khó có thể dứt
khoát hi sinh mạng sống của mình, chịu đựng sự tra tấn
đến chết để bảo vệ cơ sở cách mạng. Do đó ông
chỉ có nhiệm vụ cung cấp tin tức mà thôi.
Ông
lấy tin tức trong công việc hằng ngày ở sở Bưu điện,
tìm cách lấy cả tin tức thuộc về phần vụ của đồng
nghiệp nhờ dọ hỏi, có khi lén lút lục lọi và sao chép
nữa. Không ít những tin tức trong số ông cung cấp rất
có ích cho ngành tình báo của cách mạng và được cả
một hệ thống tổ chức rộng lớn khai thác. Mẹ tôi bảo
rằng ông rất hãnh diện về điều đó.
Tuy
là người thực sự giúp ích được nhiều cho cách mạng,
ông không nằm trong tổ chức nên chỉ liên lạc với một
cán bộ duy nhất đến gặp ông định kỳ để lấy tin
tức.
Đầu
năm 1949, người cán bộ nầy bị bắt, bị tra tấn đến
mức phải khai lấy tin nơi ông. Thế là ông bị còng tay
ngay tại sở làm và bị dẫn về nhà lục soát. Sau đó
họ chở ông về bót Catinat. Tại đây, ông bị tra tấn
dã man dù mọi chuyện đã bị người cán bộ khai khá rõ
ràng. Vào Catinat thì đương nhiên bị tra tấn, không phải
chỉ vì khai thác tin tức mà còn là để trừng phạt cho
chừa cái tội theo Việt minh. Điều nầy cũng có tác dụng
làm nhụt chí chiến đấu, đồng thời gây nên một lòng
căm thù không thể nào phai nhạt được, kể cả ở những
người sau đó sợ hãi không dám tham gia cách mạng nữa.
Trường
hợp của cha tôi không phải là ngoại lệ. Người ta vẫn
đánh đập ông dù biết ông là khâu chót của tổ chức
tình báo, không cần khai thác gì thêm. Tổ chức đã bị
phá vỡ, hồ sơ điều tra kết thúc nên sau một tháng ở
Catinat, ông bị đưa đi giam giữ tại Phú lâm, nơi một
nhà giam nổi tiếng gọi là “bót thằng Tây điên”. Cha
tôi bị giam ở đó gần hai năm và được trả tự do.
*
*
*
Đúng
sáu ngày sau lần gặp riêng mẹ, anh Định lại đến nhà
tôi. Hôm đó là chiều thú tư, lẽ ra tôi không có giờ
học tại trường nhưng thầy Lý hóa dạy bù hai giờ, rồi
thầy Toán nhân dịp dạy thêm hai giờ bài tập để chuẩn
bị cho chúng tôi thi tú tài. Thế là tôi ở tại trường
suốt buổi chiều. Lúc tôi vừa bước vào cửa, mẹ tôi
nói ngay:
-
Trưa nay cậu Định có đến thăm mẹ.
Tôi
ngạc nhiên:
-
Anh Định lại đến hả mẹ. Chắc anh ấy còn chuyện gì
chưa nói với mẹ về anh Quân phải không?
-
Không, nó không nói gì về anh Quân của con nữa. Nó đến
đây từ giã mẹ để hai hôm nữa trở lên Đà lạt. Kỳ
nghỉ phép của nó xong rồi, bây giờ trở về trường Võ
bị của nó.
Tôi
hỏi mẹ một cách thờ ơ:
-
Anh Định có vẻ lịch sự quá phải không mẹ. Mới quen
mẹ mà trước khi đi lại đến từ giã một cách cẩn
thận, Từ giã xong, ảnh về liền phải không mẹ?
Mẹ
nhìn tôi, hình như cặp mắt có ánh dò xét. Nhưng tôi
không mấy quan tâm, người mẹ nào có con gái ở tuổi
đang trưởng thành mà không nhìn kiểu đó. Bạn bè tôi
cứ khúc khích than thở với nhau hoài. Mẹ nói tiếp:
-
Không, nó ngồi nói chuyện với mẹ khá lâu. Con biết nó
nói chuyện gì không?
Tôi
lại cố làm ra vẻ dửng dưng:
-
Làm sao con biết được. Anh Định nói chuyện với mẹ
mà.
-
Nó nói nó thèm một tổ ấm gia đình mà nó chưa hề được
hưởng trong suốt quảng đời thơ ấu của nó. Khi nó lớn
lên và bắt đầu ý thức được những gì chung quanh thì
nó bắt gặp ngay cái nhìn nghiêm khắc và không có chút
trìu mến nào của ông cha ghẻ nhà binh. Những đứa em
cùng mẹ khác cha của nó lần lượt ra đời. Nó muốn
sống trong tình âu yếm với mấy em nó, nhưng trong bao
nhiêu năm, nó không phá vỡ được một cái gì đó ngăn
đôi tình cảm giữa anh em. Cái gì đó chính là sự phân
biệt đối xử mà cha ghẻ nó áp đặt lên.
Lời
nói của mẹ làm tôi hơi cảm động và ngạc nhiên. Tôi
lớn lên trong vòng tay cực kỳ êm ấm của gia đình, nhất
là của người mẹ trí thức của tôi. Cha tôi thì hơi
nghiêm khắc và ít nói nhưng điều nầy không làm giảm
sút sự êm đềm của không gian nhung lụa bao quanh những
ngày thơ ấu của tôi. Tôi cũng biết có những đứa trẻ
không được may mắn như tôi, trong đó có một số bạn
bè cùng lớp. Tuy nhiên, cuộc sống của những đứa trẻ
đó quá xa cách cuộc sống của tôi nên không gây một
ảnh hưởng nào đến tâm hồn tôi. Nhưng tại sao, khi
nghe mẹ nói đến tuổi thơ gần như bất hạnh của anh
Định lại làm cho tôi cảm động, dù sự cảm xúc cũng
không sâu đậm cho lắm?
Tôi
chăm chú nhìn mẹ và hỏi:
-
Còn mẹ của anh Định thì sao?
Mẹ
điềm nhiên trả lời:
-
Mẹ có hỏi nhưng nó lắc đầu, mặt thoáng buồn. Một
lát sau, nó trả lời rằng mẹ nó thương nó nhưng bà là
người quá hiền lành, hết sức phục tùng chồng cho đến
đổi ngại tỏ tình âu yếm đối với con riêng của
mình. Nó ngừng vài phút nữa rồi cúi đầu nói nho nhỏ
như một lời thú tội. Nó bảo rằng nó luôn luôn mơ ước
sự săn sóc, vuốt ve của chính bàn tay người mẹ. Trong
biết bao nhiêu năm, sống gần mẹ mà không thỏa được
lòng mong ước đó nên nỗi khao khát vô vọng càng lâu
càng làm cho nó tủi thân, dần dần biến thành sự đau
khổ và sau cùng trở thành lòng căm thù ông cha ghẻ. Nó
bảo rằng, đối với nó, người cha ghẻ không phải là
người khắc nghiệt. Ông chỉ tỏ ra lạnh lùng với nó,
nhưng đó là chuyện đương nhiên vì ông ấy có cốt cách
nhà binh và vì nó đâu có phải là máu mủ của ông. Nó
biết lòng căm thù của nó đối với ông là điều phi lý
nhưng không thể từ bỏ được.
Tôi
ngắt lời mẹ:
-
Lúc ở nhà, anh Định có được ăn học tử tế, có phải
làm việc nhà vất vả không?
-
Không. Nó được ăn học đàng hoàng như con nhà giàu,
chẳng phải làm gì cả vì nhà luôn luôn có nhiều người
giúp việc. Quận trưởng kiêm tiểu khu trưởng thì gần
như lãnh chúa một vùng, thiếu gì kẻ hầu người hạ,
lính tráng đem về săn sóc vườn tược cây cảnh khỏi
trả công, thì cần gì đến công sức đứa con ghẻ cho
mang tiếng bất nhân.
Tôi
lắc đầu:
-
Thế mà anh Định vẫn nuôi lòng căm thù đối với ông
cha ghẻ. Nghĩ cũng lạ.
Mẹ
gật đầu:
-
Tâm lý con người ta rất phức tạp. Mẹ cho rằng cậu
Định là người biết suy nghĩ và thành thật với chính
mình.
-
Thành thật ở chỗ nào hả mẹ?
-
Ở chỗ dám nhận lòng căm thù ông cha ghẻ là điều phi
lý mà không gạt bỏ được. Sau cùng nó khoác cho lòng
căm thù đó một lý do: đó là cha ghẻ nó tham nhũng.
Tôi
bật cười:
-
Thế là anh Định biến thành một người chống tham
nhũng, một người yêu nước thứ thiệt.
Mẹ
cũng cười theo:
-
Nó bảo rằng, kể từ khi khoác cho lòng căm thù chiếc áo
yêu nước giả tạo đó, nó lại cảm thấy dòng máu trai
trẻ chảy mạnh trong huyết quản nó.
-
Và dòng máu trai trẻ đó đã đẩy anh vào chiến khu.
-
Đúng vậy, nó theo người ta vào chiến khu. Nhưng chưa
được một tháng, nó không chịu nổi không khí trong đó.
Nó nói, đã gặp những con người ít học mà huênh hoang
rất đáng ghét; không gian thì chỗ nào, lúc nào cũng đầy
dẫy sự lo sợ. Lo sợ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tập
kích bằng bộ binh hay không quân, lo sợ những cặp mắt
nghi ngờ của những người đồng chí mà chỉ một câu
nói hớ hênh có thể phải trả giá bằng cả mạng sống.
Tôi
buột miệng:
-
Như trường hợp anh Quân của con phải không mẹ?
Mẹ
nhìn tôi một cách buồn bã:
-
Phải. Ở đây, chúng ta sống trong chế độ tự do. Mọi
người, nhất là thanh niên các con ăn nói thoải mái; miễn
là đừng làm điều gì vi phạm pháp luật là không phải
sợ ai cả. Ở trong đó thì khác hẳn, lúc nào cũng xét
nét, đề phòng cả hai phía.
Tôi
lắc đầu ngán ngẩm:
-
Vì vậy anh Định trở về thành phố sau khi làm cách mạng
chưa được một tháng.
-
Nó bảo rằng nó trở về không hẳn là sợ chết hay vì
tự do cá nhân. Nếu cần thiết, phải hi sinh tự do cá
nhân và cả sinh mạng nữa cho một điều chắc chắn cao
đẹp thì nó vẫn sẵn sàng. Đằng nầy, nó bảo rằng
người ta chỉ nói với nó những điều mơ hồ, không thể
xác minh là đúng, như độc lập, dân chủ, giải phóng,
xã hội chủ nghĩa, lời dạy của Bác, vân vân. Vì những
điều mơ hồ, đáng nghi ngờ đó mà phải tiến hành một
cuộc chiến tranh khốc liệt, phải đập đổ nguyên một
chế độ miền Nam thì nó thấy không ổn tí nào cả. Ở
đây, nó có căm ghét dượng ghẻ nó thực, nhưng đó là
chuyện nhỏ. Còn bạn bè nó, còn cuộc sống của những
bà con nó, còn biết bao khung cảnh thân yêu, còn cả một
tuổi thơ của nó. Đập đổ hết chỉ vì những thứ mơ
hồ đó hay sao? Nó bảo rằng nó không bao giờ tham gia vào
sự đập đổ đó và còn có ý muốn chống lại sự đập
đổ đó nữa.
-
Thế là sau gần một tháng vào chiến khu và chứng kiến
tận mắt, anh Định đã thay đổi hẳn lập trường, từ
chỗ có cảm tình với cách mạng chuyển sang ý thức
chống lại cách mạng.
-
Không phải người nào cũng có cơ hội đó. Nó trở về
và đi học trường Võ bị Quốc gia. Dù chuyện vào lính
là điều bắt buộc nhưng kể từ khi khoác áo nhà binh,
nó nhận thức rằng nó đã đi đúng đường, đó là sẵn
sàng góp xương máu để giữ gìn cuộc sống an vui của
nhân dân miền Nam tự do nầy.
Tôi
bỗng bồi hồi nghĩ đến Định. Buổi chiều hôm anh vội
vã dẫn xe ra khỏi nhà tôi trong một nỗi niềm bi thương.
-
Nhưng miền Nam nay còn cả một tập đoàn tham nhũng, trong
đó có ông cha ghẻ mà anh Định căm thù. Anh ấy quên
điều đó rồi sao?
-
Nó nhớ điều nầy chứ. Dù mẹ không hỏi thẳng vấn đề
nhưng, trong lúc hăng say trình bày lập trường của nó về
chiến tranh, nó có giải thích rằng phải đánh đuổi
cộng sản về Bắc trước đã, rồi cái tội tham nhũng
của cha ghẻ nó sẽ đem ra xét sau. Giặc đang lấp ló
ngoài cửa thì anh em trong nhà khoan hài tội nhau ra.
Tôi
tỏ ý khâm phục:
-
Mẹ, con thấy anh Định có lưu tâm và có hiểu biết
nhiều về thời cuộc. Mấy đứa bạn của con, chẳng có
đứa nào nói chuyện như anh Định đâu. Tụi nó chỉ
rành chuyện học hành và chuyện đi chơi thôi.
-
Mẹ cũng có nhận xét như con vậy. Cuộc chiến tranh ý
thức hệ nầy đang được khắp nơi trên thế giới theo
dõi mà tuổi trẻ của đất nước nầy rất ít quan tâm.
Có đứa không biết rằng cuộc chiến đang xảy ra rất
ác liệt hằng ngày hằng giờ. Chúng nó chỉ quan tâm đến
cuộc chiến khi nhận được lệnh nhập ngũ mà thôi.
Mẹ
dừng lại nhìn tôi như dò xét:
-
Ngọc, trước khi ra về, cậu Định có nói điều nầy.
Tôi
hơi ngạc nhiên:
-
Gì vậy mẹ?
-
Cậu Định xin phép mẹ trở lại thăm gia đình mình mỗi
kỳ nghỉ phép hằng năm của trường Võ bị Đà lạt.
Con thấy thế nào?
Tự
nhiên tôi cảm thấy e thẹn:
-
Anh Định đến thăm mẹ chứ có liên can gì đến con.
Mẹ
cười:
-
Mẹ đoán nó muốn trở lại đây, không hẳn chỉ để
thăm mẹ hay ba con mà thôi đâu.
Tôi
cố tình như không hiểu lời mẹ nói nên nhắc lại một
cách thờ ơ:
-
Cho phép hay không là tùy mẹ. Nhưng con nghĩ rằng, nếu
biết anh Định đang theo học trường sĩ quan, chắc ba
không có cảm tình lắm đâu.
Mẹ
gật đầu:
-
Mẹ cũng hiểu tính ba con nên ngại lắm. Nhưng thôi, tạm
gác chuyện đó sang một bên. Sắp đến kỳ thi lục cá
nguyệt rồi, mẹ còn phải soạn nhiều đề thi, con cũng
lo học bài đi. Năm cuối bậc trung học rồi phải cố
gắng nghe con.
*
*
*