KHI
Quang ghé trường tiểu học chở vợ về đến nhà, vài
người còn đứng bên lề đường bàn tán về chuyện lạ
lùng vừa xảy ra. Họ kể chuyên lại cho hai vợ chồng
nghe. Mỗi người kể theo một cách theo sự tưởng tượng
riêng của mình, vì ai cũng chỉ chứng kiến được cảnh
cuối cùng khi lão Tư Thủ ra đứng bên lề đường, gầm
thét và chửi bới một hồi, rồi sau đó, lão vào nhà
một chốc và bước ra khóa cửa, đẩy xe đạp đi, giỏ
cần xé có lẽ đựng đầy bánh vì trông có vẻ nặng
nề. Những người đứng đó cũng không trông thấy Tuấn
chở Lan chạy đi trước đó vài phút. Nhìn thấy cái ống
khóa lủng lẳng trước cửa, hai vợ chồng đều rất lo
lắng, vì nghĩ rằng đã xảy ra chuyện gì đó rất nghiêm
trọng bên trong ngôi nhà của Lan. Thường ngày lão đi bán
thì Lan ở nhà, cửa mở hay đóng lại và gài chốt bên
trong, tại sao hôm nay lại khóa bên ngoài? Tại sao lão lại
nhốt con gái mình trong đó?
Khi
mọi người đã trở về nhà mình, Điệp mon men đến gần
nhà ông lão, cố nghe tiếng động bên trong. Hoàn toàn
vắng lặng. Nàng khẽ gọi:
-
Lan, em Lan, em làm gì trong đó? Chị Điệp đây. Mở cửa
ra.
Điệp
tiếp tục gọi nhiều lần, mỗi lúc một to hơn. Sự vắng
lặng hoàn toàn làm cho nàng hết sức lo lắng. Quang đến
gần nói với vợ:
-
Có thể Lan không có trong nhà, em đừng gọi nữa.
Điệp
quay lại nhìn chồng, nói như muốn khóc:
-
Không đâu, Lan không hề đi đâu cả. Cô bé có biết đi
đâu ngoài nhà mình. Anh Quang, có nên phá cửa để vào
không?
Quang
lắc đầu:
-
Mình đâu có được quyền làm như thế.
Hai
vợ chồng đang đứng tần ngần thì thằng Sanh ở cách
đó vài căn bước đến nói to.
-
Cô Lan đi rồi, không còn trong nhà đâu.
Điệp
hỏi một cách hấp tấp:
-
Cô Lan đi đâu, em có thấy rõ không.
Thằng
bé trả lời một cách chắc chắn:
-
Có, em thấy rõ. Cái chú em của cô chở cô ấy đi bằng
xe Vespa.
Ông già nhìn theo chửi bới nhưng không làm gì được.
Hình như cô Lan bị ông già đánh đòn nên đã bỏ đi với
chú đó. Em thấy cô Lan ngồi sau xe mà ủ rũ như cái cây
bị nắng héo.
Nghe
cậu bé nói, hai vợ chồng sững sờ nhìn nhau một chút
rồi mở cửa vào nhà mình. Suốt bữa ăn chiều và suốt
buổi tối, hai người bàn bạc về đủ thứ giả thuyết
và ngóng nhìn ra đường để xem cả ba người, có ai trở
về hay không.
Đồng
hồ điểm chín giờ đêm, đường đã vắng xe cộ qua
lại. Từ hướng cư xá sĩ quan, một bóng dáng gầy gò
chẫm rãi đạp xe về, phía sau là một giỏ cần xé to
tướng. Dưới ánh đèn đường vàng vọt, trông lão như
một bóng ma cô đơn vừa chui ra khỏi một trong hàng ngàn
ngôi mộ của nghĩa địa Chí hòa.
Quang
nhìn bóng người đang tiến lại gần, nói nhỏ với vợ:
-
Lão vẫn về đúng giờ.
Anh
thấy thương hại nên nói tiếp:
-
Đêm nay, lão về không có cô con gái ngồi chờ trước
mâm cơm. Không biết lão có dùng cơm tối ở đâu chưa.
Lão
già dừng xe, mở cửa và lẵng lặng dắt xe vào nhà. Hai
vợ chồng chờ đợi lão mở đèn, và sau đó sẽ lắng
nghe tiếng động để đoán biết lão làm gì trong đêm
đầu tiên cô con gái bỏ đi. Nhưng chẳng có tí ánh sáng
nào rọi qua khe cửa. Lão già chẳng buồn mở đèn. Có
lẽ, lão sờ soạn trong bóng tối để vào chiếc giường
ọp ẹp của mình.
Quang
và Điệp nhìn nhau thở dài. Họ vào nhà đóng cửa lại.
Đêm nay, lòng nặng trĩu, họ không thể ngồi vào bàn để
soạn bài được nên vào giường sớm, dù biết rằng
không thể ngủ ngay được.
Điệp
kéo tay chồng áp lên mặt mình, nói:
-
Em sực nhớ lời con Lan, hôm đầu tiên em nói chuyện với
nó.
-
Lời gì?
-
“Ngoài em ra, ba em
không còn gì trên thế gian nầy nữa”
Quang
thở dài:
-
Bây giờ thì thực sự lão không còn gì nữa.
-
Đáng thương, phải không anh?
-
Ừ, đáng thương.
Hai
vợ chồng trằn trọc đến khuya mới chìm vào giấc ngủ
nặng nề.
*
*
*
Quang
giật mình tỉnh giấc vì một chiếc xe gắn máy nổ to
chạy qua trước đường. Nhìn qua thấy vợ đang ngủ,
gương mặt thùy mị áp vào chiếc gối trắng tinh, Quang
rón rén bước xuống giường, đến gần tủ, nhìn vào
đồng hồ qua ánh đèn đêm lờ mờ. Năm giờ bốn mươi
lăm phút. Anh nhẹ nhàng mở cửa, bước ra lề đường.
Đêm rồi, trước khi đi ngủ, anh định bụng dậy trước
năm giờ sáng để xem lão già có thức dậy đi bán hay
không, nhưng vì thức khuya nên đã ngủ quên, quá giờ dậy
theo ý định. Quang hi vọng lão già cũng trằn trọc gần
suốt đêm như anh và cũng không dậy sớm được.
Đường
phố còn khá vắng vẻ. Anh rón rén bước sang nhà lão, áp
mặt sát khe cửa, cố nhìn vào. Trong nhà tối thui. Anh áp
tai vào cố lắng nghe. Im lặng hoàn toàn. Anh phân vân, lơ
đãng nhìn ra đường.
-
Lão đi rồi hay vẫn còn ngủ?
Lẩm
bẩm xong, anh lại áp tai vào cánh cửa, hi vọng nghe được
tiếng ngáy hay một tiếng thở nhè nhẹ. Vẫn im lặng
hoàn toàn. Một ý nghĩ rùng rợn chợt thoáng qua trí tưởng
tượng, Quang nói thầm:
-
Không biết lão già thế nào? Có nên kêu cửa không? Có
nên tông cửa vào không? Có nên đi gọi cảnh sát đến
hay không?
Chợt
có tiếng gọi nho nhỏ:
-
Anh Quang.
Quang
giật mình quay lại, thấy bóng vợ vừa bước ra khỏi
cửa.
-
Anh làm gì vậy?
-
Anh định xem lão già còn ở nhà không.
-
Lão đi rồi.
-
Sao em biết?
-
Em dậy lúc bốn giờ rưỡi, ra hé cửa ngồi rình và thấy
lão mở cửa, dắt xe, ra đi như thường lệ, nhưng sớm
hơn ngày thường độ mười phút. Trở vào thấy anh còn
ngủ say nên em nhẹ nhàng vào nằm trở lại, chỉ sợ phá
giấc ngủ của anh.
Quang
thở ra nhẹ nhõm. Anh nhìn vợ một cách âu yếm và cảm
phục.
Ăn
sáng xong, Quang thay quần áo đi dạy. Hôm nay anh dạy suốt
hai buổi, chiều mới về. Điệp biết mình sắp phải
trải qua một buổi sáng trống vắng nặng nề. Sẽ không
có tiếng máy may chạy nghe vui tai, sẽ không có dáng người
con gái dễ thương ngồi trước máy. Rồi khi nàng chấm
bài xong, đứng dậy xuống bếp, sẽ không có mái tóc mềm
mại mà nàng thuận tay vuốt nhẹ khi đi ngang qua; sẽ
không có cặp mắt dưới hàng mi dài ngước lên nhìn với
vẻ tươi cười và biết ơn. Điệp cảm thấy trong lòng
nỗi bùi ngùi lẫn lo lắng.
Điệp
hi vọng sáng nay, Tuấn sẽ đưa Lan về. Nàng cố tưởng
tượng, sau đó, mọi việc xảy ra trong êm thắm và tốt
đẹp. Nhưng cứ mỗi lần hình ảnh ông lão hiện ra là
mọi việc lại rối tung lên trong trí tưởng tượng của
nàng. Sau cùng nàng thốt lên trong chán nản:
-
Mặc kệ, tới đâu hay đó. Hai đứa phải về trước đã.
Việc gì rồi cũng qua; quả đất vẫn cứ phải quay quanh
mặt trời.
Nàng
khệ nệ rinh chiếc bàn đến bên cửa sổ, để vừa chấm
bài học trò, vừa nhìn xe cộ qua lại cho đỡ trống
vắng. Nàng mở nắp cây bút đỏ, uể oải lấy quyển vở
trên cùng lật ra. Nét chữ học trò nguệch ngoạc rất
khó xem. Nàng mở to mắt, cố gắng tập trung để đọc.
Xui xẻo, bài làm đầu tiên mà nàng gặp phải là bài
luận văn của đứa học trò kém nhất lớp, chữ xấu,
câu văn lại rời rạc và có nhiều lỗi. Với tâm trạng
rối bời, nàng cố gắng một cách khó nhọc để nắm
bắt ý tưởng học trò nhưng không thể nào làm được.
Bực mình, nàng quăng bút, ngửng lên.
Ô,
ai kìa? Nàng nhìn sững về hướng đường Lê văn Duyệt.
Lão
già xuất hiện với chiếc xe đạp cũ kỹ và quen thuộc.
Lão chầm chậm đạp xe. Đến ngang nhà, lão dừng lại
bên kia đường, quay mặt nhìn sang. Nhà vẫn im lìm, cửa
đóng kín với chiếc ống khóa lủng lẳng bên ngoài. Lão
thở dài, mặt buồn rười rượi. Lão ấn chân vào bàn
đạp, xe từ từ lăn bánh. Khi tấm thân còm cõi của lão
khuất sau một gốc cây to, Điệp nghe tiếng rao khan khàn
từ đó phát ra:
-
Bánh mì nóng dòn đây.
Điệp
bước ra khỏi cửa nhìn theo. Lão già cúi xuống, cái lưng
cong vòng làm cho cả thân mình lão bị chiếc giỏ cần xé
che khuất chỉ còn ló lên chiếc mũ cũ và rách trên đầu
lão. Điệp cảm thấy nước mắt mình sắp trào ra, nàng
vội bước vào nhà, đi thẳng xuống bếp, cố rứt bỏ
hình ảnh thê lương của lão ra khỏi trí óc mình.
Nàng
trở lên, ngồi vào bàn để chấm nốt xấp bài làm của
học trò. Nhưng một lần nữa, trí óc nàng không thể tập
trung được vào những dòng chữ trên các trang giấy. Nàng
buông viết thẩn thờ nhìn ra đường.
Kia
kìa, lão già lại xuất hiện từ hướng cư xá Sĩ quan. Y
như lần trước, lão dừng lại bên đường, nhìn sang nhà
mình. Lão nhìn sững vào cánh cửa đóng và từ từ dẫn
xe qua đường. Lão móc túi lấy cái chìa đút vào ổ
khóa. Cánh cửa mở ra, lão thò đầu vào nhìn quanh nhà,
đôi mắt dừng lại nơi bếp. Hàng ngày, khi lão về đến
nhà, luôn luôn bắt gặp cái lưng con gái lão ngồi trước
bếp. Hôm nay, chỗ đó vắng teo, vài cây củi vương vãi
phía trước chiếc lò lạnh lẽo. Một thanh củi to nằm
tựa đầu vào chân giường của lão. Đó là cái vật mà
lão đã dùng vụt một cách tàn nhẫn vào thân mình con
gái. Lão bước đến cúi lượm, thẫn thờ nhìn thanh củi
một chốc rồi quăng vào bếp và vội vàng quay lui ra khỏi
nhà, leo lên xe đạp. Xa xa lại nổi lên tiếng rao bánh mì
buồn bã của lão.
Gần
trưa, lão trở về một lần nữa. Lão mừng rỡ khi thấy
cửa nhà hé mở nên vội vàng dẫn xe qua đường. Nhưng
khi bước vào căn nhà vắng vẻ, lão sực nhớ lúc nãy,
sau khi lượm thanh củi ác nghiệt quăng vào bếp, lão đã
vội ra đi như chạy trốn, quên đóng cửa và bấm chiếc
ổ khóa lủng lẳng trên tấm vách trước nhà. Lão đứng
ngẩn ngơ một chốc, rồi quay lui, khóa cửa cẩn thận và
run rẩy leo lên xe, đạp đi một cách nặng nề.
Từ
đó đến khi đi dạy, Điệp không còn thấy lão trở lại
nữa; lão đã bỏ đi, không về nghỉ trưa như thường
lệ.
Nắng
như đổ lửa làm mặt đường nhựa mềm nhũn ra. Dọc
theo con đường chỉ còn rất ít xe cộ qua lại. Có lẽ,
giờ nầy lão đang ngồi trên ghế đá công viên, miệng
nhai bánh mì mà lòng thấm thía nỗi buồn cô đơn.
Trong
bao năm trời, lão đã giữ đúng giờ giấc và lộ trình
đi bán. Cái lộ trình đó là từ ngã ba Ông Tạ, nơi lão
nhận bánh từ một lò sản xuất, băng vào con hẻm đối
diện, loanh quanh trong xóm cho đến phía sau cư xá Sĩ quan.
Đến đây thì giỏ bánh đã gần cạn. Lão tiếp tục đi
thêm vài con đường của cư xá, để bán nốt số bánh
còn lại rồi về nhà với cái giỏ trống không.
Thế
mà hôm nay, lộ trình bị thay đổi. Lão chỉ loanh quanh
trong cư xá để quay trở lại, ngang qua nhà nhiều lần,
để xem con gái về chưa.
Ăn
cơm trưa xong, Điệp thay áo quần và đến trường. Buổi
dạy hôm nay thực nặng nề đối với nàng, hình ảnh lão
già cứ lởn vởn trong đầu. Chiều nay lão lại đi qua
nhà bao nhiêu lần nữa với hi vọng nhìn thấy con gái
trong nhà? Còn Lan, cô đã trở về chưa? Nếu lão già bắt
gặp con gái tại nhà thì chuyện gì xảy ra khi cả hai vợ
chồng Điệp đang ở tại trường?
Điệp
phải chịu đựng bốn giờ dạy trong tâm trạng bất an
nầy. Tan trường, nàng vội đạp xe về và nhận ra ngay
không có gì thay đổi trong khi nàng đi dạy.
Vừa
đến nhà, Quang đã thấy vợ đón ở cửa ra vào, bắt
anh dừng lại để nghe nàng kể những việc đã chứng
kiến suốt buổi sáng hôm nay.
Nghe
xong, Quang có vẻ xúc động. Anh nói với vợ:
-
Tội nghiệp ông lão. Ngày mai, anh xin nghỉ dạy một buổi
để đến căn cứ không quân Biên hòa tìm Tuấn, bảo nó
đem trả Lan về cho ông già.
Điệp
lo lắng:
-
Anh suy nghĩ lại xem. Em sợ lão còn tức giận, giết chết
con Lan hay đánh đập cho hả cơn giận.
Quang trầm ngâm một lát rồi
an ủi vợ:
-
Có lẽ không sao đâu. Con Lan bỏ đi có thể là một bài
học cay đắng nhưng rất quý cho lão ta. Dù sao, ở lão
cũng còn tình cha con chứ.
Ngừng
một chút, anh nói tiếp:
-
Rất tiếc, đó là một lão già ít học, bị chiến tranh
cướp mất vợ, mất cả ruộng đồng, chỉ còn lại tình
cha con, nên cái tình nầy bị biến dạng một cách kỳ
dị.
Điệp
cười buồn, ngắt lời chồng:
-
Lại triết lý dông dài rồi. Em muốn biết, nếu Lan về,
lão già dở trò hung bạo thì mình có can thiệp hay không.
-
Dĩ nhiên là có, nhưng bằng cách nào thì tính sau.
Điệp
tỏ dấu bất mãn:
-
Tính sau, tính sau! Tới chừng đó tính không ra, lờ đi bỏ
mặc con nhỏ cho lão trừng trị hay sao?
Quang
quay lại, nhìn vợ, xẳng giọng:
-
Chứ em muốn thế nào? Để cho hai đứa nó dẫn nhau đi
luôn, mặc xác ông già sao? Vả lại tình nghĩa vợ chồng
lâu dài đâu có thể nào khởi đầu bằng một hành động
giống như bắt cóc trong tiểu thuyết hay trong phim ảnh
được.
Nói
xong, Quang bỏ lên phòng trước. Ngồi một mình bên bàn
ăn, Điệp cảm thấy cơn tức nghẹn lên cổ họng. Lời
nói của chồng có tính miệt thị đứa em trai yêu quí
của nàng. Tuy nhiên, nàng cũng thầm công nhận lời của
chồng là đúng. Lúc cha mẹ còn sinh tiền, thời thơ ấu
của nàng đã trải qua trong một không gian trọng đạo lý
cổ truyền, nên trong ý nghĩ của nàng, hôn nhân luôn luôn
gắn liền với một số nghi thức cần thiết.
Nhưng nàng không muốn công
khai công nhận cái sai của em trai mình trước mặt chồng
ngay lúc nầy và cũng không muốn đi trước một bước
trong việc làm hòa với chồng. Tuy nhiên nàng giữ im lặng
không phản đối dự định của chồng nên Quang hiểu
rằng nàng đồng ý việc chồng xin nghỉ dạy để đi tìm
Tuấn.
Hôm
sau, Quang ghé qua trường, nạp đơn xin nghỉ một buổi
rồi chạy thẳng về Biên hòa. Anh đến cổng chính của
phi trường, xin vào bộ chỉ huy phi đội Ba trực thăng vũ
trang của Tuấn. Người ta chỉ anh đến cổng số hai. Tại
đây, người quân cảnh không cho anh vào mà kéo ghế mời
anh ngồi rồi quay điện thoại gọi vào. Qua những lời
đối thoại trong máy, Quang hiểu rằng Tuấn đang dự họp
để chuẩn bị hành quân nên không gặp mặt người nhà
được.
Người
quân cảnh gọi điện xong, quay lại giải thích y như
Quang đã biết. Anh xin một mảnh giấy trắng, lấy bút
ghi vào mấy dòng, nội dung là Tuấn phải đưa Lan về gấp
rồi nhờ trao lại cho Tuấn. Xong việc, anh buồn bã lên
xe ra về.
Gần
đến nhà, Quang đã thấy vợ đứng vơ vẩn trước cửa.
Anh dựng xe, bước vào và kể ngay cho vợ nghe chuyến đi
tìm Tuấn không thành. Kể xong, anh hỏi:
-
Sáng nay em có thấy lão già trở về không?
-
Có, chỉ một lần thôi. Trông mặt lão còn hốc hác hơn
hôm qua nữa. Có lẽ lão thao thức suốt đêm vì nhớ con
gái. Em đoán rằng, trong đầu của lão không chỉ có sự
nhớ nhung mà thôi.
-
Thế theo em, còn cái gì khác nữa ngoài sự nhớ thương?
-
Chắc còn sự oán hận nữa. Thấy điệu bộ ông già, em
lo cho sự an toàn của con Lan khi trở về nhà.
Quang
cầm tay vợ, siết nhẹ. Anh nhớ đến sự bất hòa hôm
qua giữa vợ chồng nên cố lấy giọng ôn tồn để trấn
an:
-
Theo anh thì ông già vừa nhớ thương vừa hối hận đã
đánh đập con gái một cách tàn nhẫn nó mới bỏ đi.
-
Em muốn tin lời anh nói để được nhẹ nhàng, nhưng….
Quang
vịn vào vai vợ đẩy nhẹ vào nhà:
-
Thôi, cứ chờ đợi việc sẽ đến. Nhận được giấy
nhắn tin của anh, Tuấn phải đưa Lan về. Em đừng quá
lo. Anh nghĩ rằng, với lão già quê mùa nầy, mình có cách
đối phó để bảo vệ con Lan nếu lão còn định dở trò
hành hạ.
Hai
vợ chồng ăn cơm trưa để sửa soạn đến trường.
Buổi
chiều, khi nắng sắp tắt, Điệp xong buổi dạy. Nàng vội
vã đạp xe về, lòng thầm van vái gặp Tuấn và Lan tại
nhà. Xe dừng lại, Điệp cảm thấy xót xa khi nhìn cửa
của cả hai nhà đều đóng kín, ống khóa lủng lẳng ở
lưng chừng. Nàng mở cửa bước vào nhà, thay áo quần và
bắt đầu làm bếp trong im lặng, lòng buồn rầu, nặng
trĩu. Một lát, sau Quang cũng về tới, trong tâm trạng gần
giống như vợ.
Đến
chín giờ tối, lão già đạp xe về. Quang ra đứng tựa
cửa để quan sát. Lão già mở cửa lách cách, dẫn xe đạp
vào, bật đèn sáng lên và đóng cửa lại ngay. Quang nghe
có tiếng va chạm của soong nồi, chén bát và tiếng củi
cháy nổ lép bép trong bếp. Quang quay vào nói với vợ:
-
Có lẽ ông lão đã trở lại giờ giấc cũ, chỉ khác là
đêm về phải tự nấu cơm.
Anh
chép miệng:
-
Không biết chừng nào hai đứa mới về. Tình hình quân
sự, chính trị đang căng thẳng. À nầy em, báo ra buổi
chiều hôm nay có đăng một vài trận đụng độ khá ác
liệt.
-
Mới ký hiệp định hòa bình có mấy tháng, chưa kịp
thở, lại đánh nhau rồi.
-
Hiệp định Paris
chứ đâu phải hiệp định hòa bình.
Điệp
ngạc nhiên:
-
Không phải hòa bình thì ký hiệp định để làm gì?
-
Vì mục đích khác.
-
Mục đích gì?
-
Mục đích riêng của mỗi bên.
Từ
lâu, Điệp vẫn phục tài bình luận chính trị của
chồng. Lý luận của Quang thực chặt chẽ và lý thú. Vì
vậy, nàng hỏi tiếp:
-
Mục đích riêng của mỗi bên là thế nào?
-
Mỹ thì ký để rút ra khỏi vũng lầy Việt Nam trong danh
dự. Mặt trận Giải phóng thì ký để có thì giờ chỉnh
đốn hàng ngũ, bổ sung quân số. Bắc Việt ký để có
thì giờ chuyển người và vũ khí vào Nam. Em hiểu chưa?
Điệp
tỏ vẻ ngạc nhiên:
-
Phía cộng sản ký cái gọi là hiệp định đem lại hòa
bình để tăng cường khả năng chiến tranh của mình à?
-
Chớ còn gì nữa?
Điệp
tức giận:
-
Cả thế giới không ai biết điều đó sao? Tại sao người
ta không tìm cách ngăn chậm âm mưu đen tối và lừa bịp
đó mà vẫn để cho hiệp định được ký kết?
Quang
cười, trêu chọc:
-
Thôi đừng giận nữa cô em của tôi ơi. Thế giới chỉ
than thở suông cho nỗi thống khổ của nhân dân miền Nam
mà thôi. Mình ngã lăn ra chết hay rơi vào tay cộng sản
thì có hề hấn gì đến họ.
-
Thế còn Việt Nam Cộng hòa, ký vì mục đích gì?
-
Chẳng có mục đích gì cả. Người ta ấn bút vào tay,
bảo ký thì ký thôi.
Điệp
lo lắng:
-
Vậy có nghĩa là sẽ tiếp tục đánh nhau?
Quang
mỉm cười, tát yêu vào má của vợ:
-
Không phải sẽ mà bắt đầu rồi và chiến trận chắc
chắn ác liệt hơn trước khi ký “hiệp định hòa bình”
nữa.
-
Tại sao ác liệt hơn?
-
Vì bên kia đã trang bị đầy đủ, còn bên nầy thiếu
hẳn sự tham chiến của Mỹ và các đồng minh. Họ đã
lợi dụng thỏa hiệp Paris
để tạo ưu thế về quân sự, sau đó họ sẽ mở những
trận đánh lớn chứ không đánh du kích nho nhỏ như trước
nữa.
Điệp
vẫn còn thắc mắc:
-
Nhưng tại sao bên ta không biết lợi dụng thỏa hiệp như
họ để tăng thêm sức mạnh của mình?
-
Không được. Theo hiệp định, chúng ta không được tăng
thêm kho vũ khí của mình mà chỉ có thể thay thế bằng
cách một đổi một mà thôi.
-
Không lẽ điều khoản đó chỉ áp dụng riêng cho ta hay
sao?
Quang
cười một cách cay đắng:
-
Trên lý thuyết, điều khoản nầy phải được cả hai
bên tuân thủ. Nhưng trên thực tế, điều nầy chỉ trói
buộc phía quốc gia mà thôi. Chúng ta làm điều gì cũng
có tính công khai, trước mặt bao nhiêu là quan sát viên
và phóng viên ngoại quốc. Còn họ thì chuyên làm chuyện
lén lút. Vũ khí được chuyển từ Liên xô và Trung cộng
rồi xuyên qua những cánh rừng già để vào Nam. Có anh
quan sát viên hay phóng viên ngoại quốc nào dám chui vào
đó để tố cáo họ không?
Điệp
thở dài:
-
Thằng Tuấn lại tiếp tục lăn vào chỗ chết.
Quang
nhìn thẳng vào mắt vợ:
-
Cũng vì lý do đó, anh muốn nó sớm đưa con Lan về. Trong
cảnh dầu sôi lửa bỏng sắp đến, thằng Tuấn đâu có
đảm nhận nổi bổn phận làm chồng đối với con Lan.
Rồi con cái ra chào đời nữa thì thực là rắc rối.
Điệp
cảm kích nhìn chồng một cách khâm phục.
Đêm
đã về khuya, hai vợ chồng ngưng bàn bạc, chìm dần vào
giấc ngủ.
Sáng
hôm sau, mọi việc diễn ra như từ trước. Lão già lại
ra đi từ năm giờ sáng. Đến bảy giờ rưỡi, Quang rời
khỏi nhà. Điệp khóa cửa đi chợ rồi trở về, vừa
ngồi soạn bài, vừa trông chừng ra đường. Suốt buổi
sáng, hai trẻ không về. Lão già cũng không xuất hiện.
Điều đó có nghĩa là nếp sống bình thường đã trở
lại với lão. Có lẽ, tâm trạng não nùng của lão đã
lắng vào một tảng băng lạnh lẽo mà lão kéo lê một
cách nặng nề trên các phố phường, miệng rao bán từng
ổ bánh mì, từng ổ bánh mì nóng dòn.
Buổi
trưa, lão trở về, đóng sập cửa lại và có tiếng khua
soong nồi và chén bát. Đó cũng là lúc Điệp khóa cửa,
đạp xe đến trường. Điệp hi vọng những gương mặt
thơ ngây của học sinh sẽ giúp nàng tìm lại được sự
vui vẻ và bình yên. Nàng cố gắng nói thực to tiếng
nhưng nàng nghe giọng mình nhạt phèo. Nàng không thể tập
trung trí óc vào việc dạy nên phạm nhiều sai sót trong
bài giảng. Những giờ dạy càng làm cho nàng buồn bực
hơn.
Chuông
tan học reo vang. Điệp xếp sách vở vào giỏ, cho học
trò ra khỏi lớp và uể oải bước xuống nhà xe. Ra trước
cổng trường, nàng chưa vội về như mọi khi. Nàng ngồi
lên yên xe, im lặng nhìn dòng học trò chen chúc ra về.
Hai bên đường, những căn phố cửa mở toang, vui vẻ với
kẻ ra người vào. Nghĩ đến hai gian nhà của nàng và của
Lan vẫn đóng im ỉm buồn hiu, Điệp muốn khóc cho vơi
cơn phiền muộn. Nàng thở dài và nhấn chân lên bàn đạp.
Nàng dạy ở trường gần
nên buổi chiều, luôn luôn về trước chồng. Gần đến
nhà, tim nàng bỗng đập liên hồi, như muốn nhảy ra khỏi
lồng ngực. Cửa nhà của nàng mở toang, bên cạnh đó
cửa nhà Lan cũng mở toang. Nàng vội vã dựng xe và lao
đến thềm nhà.
Nàng
đứng phắt trên bục cửa, há hốc nhìn vào. Tuấn và
Lan như đôi vợ chồng mới cưới, đứng cạnh nhau trước
bàn làm việc của chị. Nghe tiếng động, hai trẻ quay
lại nhìn ra. Nỗi vui mừng đột ngột làm Điệp trở nên
bất động.
Trước
mặt nàng, Tuấn trông hiên ngang và đẹp trai hơn trong bộ
đồng phục không quân, bông mai vàng lấp lánh hai bên cổ
áo. Lan thì hết sức xinh xắn trong chiếc áo bông may
khéo, miệng chúm chím nụ cười e thẹn.
Điệp bước tới ôm chầm
lấy Lan, hôn lên đôi má thơm phức của người con gái.
Hai người rời nhau ra. Điệp thấy Lan nhìn mình cười mà
mắt rơm rớm.
Giọng
hai người đều nghẹn ngào như nhau:
-
Chị Điệp!
-
Lan, em!
Điệp
quay sang em trai mình, giọng hơi trách móc:
-
Tuấn, hôm nay em mới chịu đem Lan về trả lại phải
không?
Tuấn
cười một cách vui vẻ:
-
Vâng, em đưa Lan về nhưng không phải để trả mà gởi
tạm cho anh chị và ba của Lan.
Điệp
nhíu mày:
-
Em nói như thế nghĩa là gì?
-
Nghĩa là bây giờ Lan là vợ của em, là em dâu của chị.
Tuy nhiên, chúng em chưa thể sống chung với nhau được
ngay bây giờ.
Tuấn
quay sang Lan:
-
Có phải vậy không, bà thiếu úy Tuấn thân mến?
Lan
đỏ mặt vì sung sướng và hổ thẹn. Nàng đập nhẹ vào
vai của Tuấn:
-
Em không biết, mọi việc đều do anh sắp đặt.
Điệp
ngạc nhiên đến há hốc . Mới có ba ngày theo Tuấn, Lan
đã như lột xác. Từ một cô gái quê mùa nhút nhát, nàng
đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp rực rỡ và có
phần bạo dạn như con gái thị thành. Đóa hoa hàm tiếu
của mấy ngày trước đây đã được những giọt nước
của tình yêu tột đỉnh dội vào và nở tung thành đóa
hoa rạng rỡ.
“Chúng
nó đã thành vợ, thành chồng thực sự rồi”. Điệp
nghĩ thầm và mặt bỗng đỏ bừng vì ý nghĩ thầm kín
đó.
-
Hai em về hồi nào?
-
Trước chị độ mười phút thôi.
Tuấn
vừa trả lời, vừa đi xuống bếp. Hai người đàn bà đi
theo. Tuấn chỉ một gói khá to đặt trên bàn ăn:
-
Quà của tụi em tặng anh chị và…
Cậu
bối rối nhìn tấm vách ngăn, bên kia là nhà của Lan. Cả
ba im lặng, lòng bỗng dưng nặng trĩu. Tuấn vô tình gợi
ra hình ảnh lão già, không khí vui tươi lập tức tan
biến. Điệp lo lắng nhìn Lan. Cô gái hiểu ý chị. Nàng
cúi xuống nói nhỏ:
-
Từ nay, em là vợ của anh Tuấn rồi. Ba em có chửi mắng,
có đánh đập hay giết chết em cũng chịu.
Nói
xong, bỗng nhiên Lan bưng mặt khóc nức nở. Điệp bậm
môi cố kềm tiếng khóc, nhưng cảnh vật trước mắt
nàng nhòe đi sau làn nước mắt đã chảy dài trên đôi
má. Nàng ấn mạnh đầu Lan vào mặt mình. Lan run run trong
vòng tay của chị. Điệp cảm thấy cô gái trở lại
nguyên hình của một thiếu nữ quê mùa, yếu đuối, đáng
thương biết bao.
Có
tiếng xe đỗ bên ngoài, Quang bước nhanh vào. Anh vừa đưa
cả hai tay lên trời vừa la to một cách hớn hở:
-
Ồ, xin chào, xin chào tất cả những con người thân mến
của tôi.
Sự
có mặt của anh xua đuổi không khí ảm đạm vừa bao
trùm căn nhà bé nhỏ. Anh siết chặt tay Tuấn, ấn cậu
em ngồi xuống ghế và tiếp tục nói một cách vui vẻ:
-
Tuấn, Lan, hai em về lúc nào? Có nhận được giấy báo
tin của anh gởi cho người quân cảnh hay không?
Tuấn
vội vã trả lời:
-
Nhận được liền. Họp xong, em chạy ngay ra cổng thì anh
về từ lâu rồi. Chiều hôm qua và sáng nay, em phải túc
trực đợi lệnh nên chiều nay vợ chồng chúng em mới
đưa nhau về trình diện anh chị.
Quang
thoáng sửng sốt khi nghe mấy chữ vợ
chồng chúng em, nhưng
anh hiểu ngay nên giọng nói vẫn thản nhiên và vui vẻ:
-
Anh xin chúc mừng, nhưng trước hết, Tuấn kể anh nghe đầu
đuôi câu chuyện, kể từ ba ngày trước đến giờ.
Tuấn
lắc đầu:
-
Em không muốn nhắc chuyện cũ nữa. Dù sao ông cụ cũng
là ba của Lan, tức là cha vợ của em.
Tuấn
ngừng một chút rồi lên giọng, nói lớn hơn:
-
Anh chị chỉ cần biết điều nầy: Lan mãi mãi là vợ
của em. Ông trời cũng không ngăn cản được điều đó.
Vả lại…
Quang
đưa tay ra hiệu ngăn lời Tuấn:
-
Khoan, trước hết, anh muốn hai em biết rằng anh không bao
giờ có ý bắt tội hai em hoặc ngăn cản hai em thành vợ
thành chồng. Trái lại, hai em nên duyên cầm sắt là điều
mong ước, niềm vui và hạnh phúc to lớn của anh. Tuấn
hiểu điều đó không?
Tuấn
nhìn anh, giọng cảm động:
-
Em hiểu tình thương của anh chị đối với chúng em. Em
biết ơn anh chị vô cùng.
Quang
dịu giọng, ôn tồn bảo:
-
Thôi được, chuyện cũ bỏ qua cũng phải, nhắc lại
chẳng ích lợi gì. Tuy nhiên, anh muốn biết điều nầy:
mấy hôm nay, hai em ở đâu?
-
Khách sạn.
-
Thế bây giờ, cậu tính sao?
-
Được giấy gọi của anh, em đưa Lan về chứ chưa tính
gì cả.
Quang
cười nửa miệng:
-
Thế cậu có nghĩ đến chuyện nhà, chuyện cửa chưa? Hay
là tính suốt đời ở khách sạn?
Biết
anh nói mỉa mình, nhưng Tuấn không giận:
-
Em chưa tính được vì đơn vị em được lệnh chuẩn bị
tăng phái cho Bộ Tư lệnh Quân Đoàn Hai đóng tại Pleiku,
để đánh chặn quân Bắc Việt ở đường mòn Hồ chí
Minh. Chưa biết chừng nào đi, có lẽ không còn lâu đâu.
Thời gian biệt phái ước lượng hơn một tháng. Khi nào
về, em sẽ tính.
-
Thế từ đây đến đó?
-
Lan về với cha. Việc gì khác nhờ anh chị.
Quang
và Điệp mỉm cười khi nghe cậu em giao trọng trách vô
cùng khó chịu mà nét mặt và giọng nói vẫn thản nhiên,
y như nhờ đi mua một gói thuốc hút mà thôi. Tuy vậy,
hai người thấy vui và một chút hãnh diện vì sự tín
cẩn hoàn toàn của đứa em trai.
Quang
hỏi:
-
Chừng nào cậu về đơn vị?
-
Ngay bây giờ.
Điệp
sửng sốt:
-
Ngay bây giờ? Nhưng em và Lan mới về tới mà. Em không
thể ở lại một đêm để bàn kỹ về hôn nhân của hai
em hay sao?
-
Không được, rất đáng tiếc. Em hứa với đơn vị
trưởng đưa Lan về nhà rồi vào trình diện ngay.
-
Cấm trại một trăm phần trăm rồi à?
Tuấn
đáp:
-
Chưa có lệnh cấm trại nhưng đơn vị phải túc trực để
chuyển quân lên cao nguyên bất cứ lúc nào. Nếu chưa di
chuyển thì trưa thứ bảy em về. Ngày nghỉ thì năm mươi
phần trăm quân số ở lại trại, những người khác được
về nhưng phải để lại địa chỉ rõ ràng và chính xác
để đơn vị có thể nhờ quân vụ thị trấn đưa về
ngay khi có lệnh.
Quang
đứng dậy bắt tay Tuấn:
-
Thôi chú rể về đơn vị đi, để cô dâu lại anh chị
lo!
Lan
xấu hổ cúi đầu để dấu nụ cười sung sướng. Tuấn
đến đặt tay vào vai người con gái:
-
Lan, em ở lại, anh vào trại.
Cậu
cúi xuống định hôn tạm biệt, nhưng Lan đã đẩy người
yêu ra và chạy đến núp sau lưng chị.
Quang
cười vang và tiễn cậu em ra cửa.
Sau
khi Tuấn đi, Lan từ giã anh chị về nhà lo nấu cơm.
Quang và Điệp cũng bắt tay vào công việc thường ngày.
Bữa
cơm chiều dọn ra, hai vợ chồng vừa ăn vừa bàn bạc
cách đối phó khi lão già về nhà. Cuối cùng, họ đồng
ý giải pháp nầy: Nếu lão Tư Thủ dùng vũ lực hành hạ
Lan thì lập tức Quang nhảy vào can thiệp còn Điệp chạy
đi nhờ cảnh sát đến bảo vệ cô em.
Cơm
nước xong, Quang ngồi đọc báo độ nửa giờ rồi đến
bàn, ngồi soạn bài dạy cho ngày mai. Điệp thì chẳng
làm gì được vì không nén được lòng dạ bồn chồn.
Nàng ra cửa nhìn con đường đã lên đèn từ lâu, quay
vào nhìn đồng hồ, rồi lại quay ra ngồi trên chiếc ghế
sau cửa sổ, nhìn xe cộ chạy ngang qua.
Đến
chín giờ, Quang giật mình khi nghe tiếng gọi thất thanh
của vợ:
-
Anh Quang, lão ta về!
Quang
buông viết, đi nhanh ra cửa. Lão già dừng xe, đưa tay dụi
mắt, nhìn vào cánh cửa mở rộng của nhà mình. Ánh đèn
từ trong nhà hắt ra in một vệt sáng vàng nhạt đến tận
vệ đường. Trong gian nhà nhỏ, rõ ràng cô con gái của
lão đang ngồi trước bếp, lưng quay ra ngoài.
Tim
Điệp đập thình thịch trong lồng ngực. Nàng cố nhìn
nét mặt lão già để đoán xem điều gì đang xảy ra
trong đầu lão, nhưng ánh đèn quá tối, nàng không đoán
nổi nên đành im lặng, hồi hộp theo dõi.
Lão
già xuống xe nhìn hai đầu, rồi chầm chậm băng qua
đường. Lão đẩy xe đạp vào, tay run nên bánh trước
đụng vào cánh cửa. Lan nhỏm dậy quay lại, mặt tái
mét. Nàng đứng yên nhìn cha dựng xe vào vách. Đôi chân
bủn rủn, Lan vội đưa tay vịn vào vách ván. Lão già
ngước mắt nhìn con gái vài giây rồi im lặng đi về
chiếc giường nhỏ, chẫm rãi nhấc chiếc gối lên, nhét
bao tiền vào.
Lan
muốn quay đầu lại bếp để biết xem trong đó có còn
cây gỗ nào to hay không. Nàng hối hận vì khi nãy, bận
lo nấu nướng nên nàng quên để ý để cất giấu đi.
Bây giờ, nàng không thể giấu được nữa, nàng chỉ có
thể nhìn xem cây gỗ to cỡ nào để ước lượng sức
chịu đựng của mình. Tuy nghĩ vậy nhưng nàng vẫn đứng
trơ ra, hoàn toàn bất động, mắt không rời cha.
Ông
lão ngồi im trên giường một lát rồi lặng lẽ tụt
xuống, bước đến bàn ăn ngay bên dưới bóng đèn tròn
từ trên mái nhà thả xuống. Lão có vẻ ngạc nhiên. Trên
bàn, ngoài soong cơm như thường lệ, lão thấy có nhiều
dĩa thức ăn, tất cả đều nóng sốt và ngon lành. Lão
nuốt nước bọt. Ba hôm rồi, có bữa lão chỉ ăn một ổ
bánh mì lạt, có bữa ăn cơm với nước mắm. Bây giờ,
trước mặt lão, bữa cơm thực ngon lành. Tuy vậy, theo
thói quen, lão không vội vàng mà chẫm rãi bới cơm ra
chén và thong thả ngồi ăn.
Lan
rón rén bước đến bàn, se sẽ ngồi xuống ghế trước
mặt cha. Lão ngừng ăn, ngước lên nhìn, rồi tay trái bỏ
chén cơm xuống, lão khẽ rướn mình tới trước, đẩy
nhẹ cái chén không về phía Lan, như một cử chỉ mời
mọc. Lan hồi hộp cầm lấy chén, bới cơm và bắt đầu
ăn.
Tất
cả những điều trên đây xảy ra như một vở kịch câm.
Vở kịch câm thực hoàn hảo, không một tiếng động,
không một tiếng nói, không một cử chỉ dư thừa. Tiếc
một điều là vở kịch câm đó chỉ có hai khán giả
thưởng thức, lại thưởng thức trong tư thế đứng xem
lén lút bằng cách dán mắt nhìn qua khe vách ván.
Vở
kịch câm đến đây coi như kết thúc, kết thúc một cách
tuyệt vời, hơn cả điều mong muốn của hai khán giả.
Cả hai vợ chồng thở phào nhẹ nhõm và len lén ra về.
*
* *
TUẤN
phóng xe nhanh dưới cái nắng đổ lửa làm cho mặt đường
trông như rung rinh vì khối không khí bị đốt nóng bên
trên. Gần đến nhà, Tuấn cho xe chạy chậm lại. Cửa
nhà chị Điệp đóng kín có khóa bên ngoài. Cửa nhà Lan
mở toang, chiếc xe đạp cũ kỹ đáng nguyền rủa đứng
tựa vào vách ván. Tuấn đang lưỡng lự thì bóng Lan ló
ra cửa, nét mặt hốt hoảng, một tay vịn vào khung gỗ,
một tay xua, như muốn đuổi cậu đi nhanh cho khỏi chỗ
nầy.
Như
bị thúc đẩy bởi bản năng, Tuấn siết ga, chiếc xe rú
máy, lao về phía trước. Tuấn bực tức dậm chân mạnh
vào sàn xe. Bốn hôm rồi, không thấy mặt người yêu,
Tuấn nhớ như điên như cuồng. Lan đã là vợ của cậu
rồi kia mà. Tại sao phải trốn chạy như một thằng hèn
như thế nầy? Mà trốn chạy ai? Trốn chạy một lão già,
mà ngay với thế võ đơn giản đầu tiên, cậu đã hạ
nốc ao
một cách gọn gàng?
Tuấn
dừng xe bên quán nước, dưới bóng mát một cây to. Ly
nước ngọt mát lạnh làm cậu dịu lại. Cơn bực tức
vừa mờ đi thì hình ảnh người yêu xuất hiện rõ ràng.
Cậu chép miệng:
-
Tôi nghiệp Lan.
Cậu
biết rằng bốn ngày qua là bốn ngày nàng khắc khoải
nhớ nhung. Tuấn nghĩ thầm: “Rõ ràng vừa nghe tiếng xe
của mình, nàng đã ló đầu ra khỏi cửa. Nàng đã nóng
lòng chờ đợi biết bao, ngày thứ bảy hò hẹn nầy”.
Một
câu hỏi chợt xuất hiện trong ý nghĩ của cậu: “Nhưng
tại sao em không ra hiệu cho mình vào nhà chị Điệp chờ
đợi? Tại sao khi thấy em xua tay, mình không nghĩ đến
điều đó mà rú ga bỏ chạy? Tại sao? Tại sao? Hay là…”
Tuấn
nghe chính tiếng mình rên rỉ:
-
Lão ta đã làm gì? Lão ta đã làm gì Lan để đến nỗi
nàng hoảng sợ đến thế?
Mấy
ngày qua Tuấn chìm đắm trong thương nhớ và trong kỷ
niệm nồng cháy của những ngày sống bên nhau trong khách
sạn nên cậu quên không nghĩ đến sự trừng phạt của
lão già đối với nàng. Bây giờ, đối diện với thực
tế, cậu chợt nhớ đến điều nầy và nghe lòng quặn
thắt.
Tuấn
rùng mình nhớ lại hình ảnh lão hung thần đứng dạng
chân, nện thanh củi to vào tấm thân bé nhỏ mà cậu yêu
thương hơn bất cứ thứ gì trên cõi đời nầy. Cậu
ngồi thẳng dậy, lắc đầu để xua đuổi hình ảnh ghê
rợn đó đi. Tuấn nhìn đồng hồ tay. Mới một giờ rưỡi
trưa. Còn những hai tiếng rưỡi nữa thì lão già mới ra
khỏi nhà, cậu phải làm gì đây cho hết thời giờ chờ
đợi?
Tuấn
trả tiền nước giải khát, lên xe vọt thẳng về trung
tâm thành phố, vì chẳng biết đi nơi nào khác. Phố
phường thưa thớt và lộ vẻ mệt mỏi vì cái nắng trưa
hè. Nhiều cửa tiệm đóng cửa nghỉ, số còn lại mở
cửa với người bán hàng uể oải nhìn ra đường hay ngủ
gà ngủ gật trên ghế. Cậu cảm thấy buồn ngủ, nên
khi đi qua rạp chiếu bóng thường trực Vĩnh lợi, cậu
đạp thắng, quay lại gửi xe và mua vé rồi chui vào rạp.
Rạp thưa người nên Tuấn dễ dàng tìm được một ghế
trống xa những người khác. Cậu ngã người trên ghế,
cảm thấy dễ chịu vì không khí mát mẻ do các máy điều
hòa nhiệt độ, tương phản với sự oi bức bên ngoài.
Tuấn nhắm mắt lại, ánh sáng trên màn bạc và âm thanh
từ các loa mờ dần, cậu đi vào giấc ngủ.
Phim
chấm dứt, nhạc rậm rật nổi lên làm Tuấn tỉnh dậy.
Đèn trong rạp bật sáng. Vài người đứng dậy, một số
người khác còn ngồi lại chờ chiếu xuất sau. Tuấn vén
tay áo xem đồng hồ. Thôi chết, bốn giờ hai mươi rồi.
Tuấn bật đứng dậy, ra lấy xe phóng về.
Từ
xa, Tuấn đã nhìn thấy cửa nhà Lan khép kín, còn cửa
nhà chị Điệp mở toang. Cậu cho xe chậm lại, trả số
và chạy thẳng lên lề. Cậu lui cui chống xe và khi ngẩng
lên, cậu đã thấy người con gái thân yêu hiện ra giữa
khung cửa, rực rỡ trong ánh sáng của nắng chiều.
Cậu
bước vội lên, khẽ chạm tay vào vai người yêu, đẩy
nhẹ vào trong. Cậu đưa chân khép cửa và hai thân mình
ôm chầm vào nhau. Đôi môi Tuấn tham lam tìm đôi môi nóng
hổi của Lan. Một tay cậu ôm bờ vai tròn trịa, một tay
nâng chiếc đầu bé nhỏ thân yêu. Lan co rúm người lại
vì cảm giác đê mê khởi đầu từ môi thấm qua đầu
lưỡi, rồi nàng nhũn người ra, buông thả khi cảm giác
ấy lan nhanh khắp cơ thể. Thời gian ngừng lại, làm cả
vũ trụ ngừng theo.
Rồi
mọi vật bắt đầu cử động lại khi bàn tay Tuấn rời
bờ vai, sờ soạn đi tìm da thịt người con gái.
Dưới
bản năng tự vệ của con thú rừng đã từng gặp hiểm
nguy nơi chốn cũ, Lan như bừng tỉnh cơn mê. Nàng gượng
thẳng dậy, âu yếm gỡ bàn tay đam mê của người yêu
ra khỏi vùng cấm, đẩy nhẹ Tuấn ngồi vào ghế. Nàng
say đắm nhìn người yêu với cặp mắt chưa tan hết nét
dại khờ. Một phút sau, nàng đưa ngón tay mềm mại chỉ
vào trán Tuấn, mắng yêu:
-
Con mèo thích ăn vụng nầy. Chị Điệp sắp về rồi đó.
‘Con
mèo thích ăn vụng’
nắm lấy hai bàn tay nàng, úp mặt vào mặt mình.
Bỗng
Tuấn ngửng lên nhìn Lan. Tay vẫn nắm tay, nhưng giọng
nói trở nên bực tức:
-
Lan, rồi suốt đời chúng mình cứ phải lén lút như thế
nầy sao?
Lan
thương hại đặt tay lên mái tóc người con trai, giọng
nhỏ nhẹ:
-
Anh Tuấn, anh giận em rồi sao? Rồi mình sẽ kiếm nhà,
anh với em cùng sống với nhau mà. Lúc đó, anh muốn….
Nàng
im bặt, mặt hồng lên, e thẹn với câu nói nửa chừng
của mình.
Tuấn
ngước mắt nhìn lên khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời của
người con gái thân yêu. Cậu thấy lòng xót xa. Lan vừa
bước qua ngưỡng cửa của cuộc đời trinh nữ thơ ngây,
nhưng nét mặt còn quá hồn nhiên, tâm hồn còn phơi phới
trong không gian hồng của những ước mơ đơn giản.
Một
căn nhà đơn sơ, một đôi uyên ương bé nhỏ. Chồng là
anh sĩ quan không quân trẻ tuổi, vợ là cô thợ may xinh
xinh. Hai nguồn lợi tức đủ cho hai trẻ có cuộc sống
bình thường và, hàng tháng, có thể để dành một món
tiền để chuẩn bị cho đứa con đầu lòng.
Ứớc
mơ đó khiêm nhường biết bao! Nó quá thấp bé để mọi
người đưa tay ra là nắm được. Nhưng cuộc chiến tranh
“giải phóng” của người cộng sản đã làm cho ước
mơ khiêm nhường và thấp bé đó trở thành quá xa vời.
Tuấn
ngồi xuống ghế, buồn rầu nói với người yêu:
-
Lan, anh yêu em hơn bất cứ thứ gì trên thế gian nầy.
Anh muốn suốt đời không rời em. Nhưng mà sáng mai anh
phải cùng đơn vị lên tăng phái cho cao nguyên. Một tháng
nữa anh sẽ trở về và nổ lực tìm phương cách sống
chung cùng em.
Tuấn
nói xong, im lặng nhìn ra bên ngoài qua hai cánh cửa sổ mở
rộng. Thấy mặt người yêu thẫn thờ, Lan cúi xuống,
ghé miệng cắn vào tai:
-
Anh Tuấn, em yêu anh lắm mà. Em đã là vợ anh kể từ đêm
đầu chúng mình ở khách sạn đó, anh có nhớ không?
Nói
xong, nàng thẹn thùng ngước lên nhìn đồng hồ rồi vội
vàng rời chỗ Tuấn, đến ngồi ngay ngắn bên chiếc máy
may. Tuấn vẫn yên lặng tại chỗ, tâm tình như chới với
trên bức tường cao, một bên là hạnh phúc mênh mông với
cô vợ trẻ, một bên là núi rừng bạc ngàn của đất
cao nguyên, trên đó Tuấn sẽ nghiến răng siết mạnh cần
lái cho trực thăng lao qua lưới lửa phòng không của địch
và bổ nhào xuống những lùm cây lúp xúp, nơi nghi có
người ẩn núp….
Cậu
buồn rầu nghĩ đến ngày mai cùng đơn vị lên tăng phái
ở cao nguyên. Cậu hiểu rằng cuộc sống của kẻ tăng
phái thì rất bấp bênh. Không phải là con ruột, nên
người ta xài mà không tiếc thương. Hết cuộc hành quân
nầy tiếp theo ngay cuộc hành quân khác. Đánh thắng thì
họ lãnh huân chương. Rủi sa cơ thì họ lạnh lùng mang
xác tăng phái về trả cho đơn vị gốc.
Tuấn
thở dài đứng lên thì cánh cửa xịch mở. Điệp bước
vào, tà áo dài cô giáo phất phơ trong gió nhẹ.
Chiều
hôm đó, lần đầu tiên, Lan ăn cơm với gia đình anh chị,
để tiễn đưa Tuấn ngày mai lên đường đến chiến
trường cao nguyên. Điệp sắp Lan ngồi gần Tuấn, hai trẻ
trông đẹp đôi vô cùng. Lan cứ luôn tay gắp thức ăn
vào chén người yêu. Tuấn cứ phải liên tục nhai nuốt
để cho Lan vui lòng. Quang và Điệp thỉnh thoảng dừng
ăn, gác đũa nhìn hai trẻ một cách trìu mến.
Sau
bữa cơm, Điệp và Lan nhanh chóng dọn dẹp, đem nước để
bốn người vừa uống vừa chuyện trò. Chốc nữa đây,
Tuấn phải chia tay, ngày mai đi xa, chưa biết chính xác
ngày về, có biết bao điều cần nói với nhau giờ phút
nầy.
Quang mở lời:
-
Hai em đã nên duyên chồng vợ. Anh chị là những người
thân nhất của Tuấn thừa nhận điều đó. Tuy nhiên cũng
nên có một hình thức lễ nghi nào đó đối với ba má
và tổ tiên, cùng là việc báo tin mừng với bà con và
bạn bè.
Quang
ngừng nói, nhìn hai em, thấy rõ sự chú ý lẫn căng thẳng
trên nét mặt nên anh tiếp lời:
-
Điều nầy rất nên thực hiện nhưng anh chị có bàn bạc
với nhau và đồng ý chưa thể xúc tiến ngay được. Lý
do thứ nhất là Tuấn được lệnh tăng phái cho cao
nguyên. Lý do thứ hai là phải có thì giờ thuyết phục
cụ thân sinh của Lan chấp nhận điều nầy. Tuấn hãy
yên tâm lên đường vì nhiệm vụ của người chiến sĩ,
anh chị sẽ lo thu xếp công việc quan trọng nầy cho hai
em.
Tuấn
nhìn anh, lòng thực cảm kích:
-
Em cám ơn anh chị.
Lan
tiếp lời:
-
Suốt đời chúng em không quên ơn anh chị.
*
*
*
BA
ngày sau khi Tuấn lên đường, có hai lá thư từ Pleiku gởi
về, được bác bưu tá già mang đến. Cả hai đều là
thư của Tuấn. Thư gởi cho anh chị thì ngắn, kể qua loa
chuyến đi và nơi đến. Thư gởi cho người yêu thì tràng
giang đại hải, lặp đi lặp lại rất nhiều lần hai chữ
nhớ thương.
Lan
đọc lá thư đến ba lần. Nàng xếp thư rồi lật ra, rút
tờ giữa một cách ngẫu nhiên, đọc lại một phần bức
thư:
“…
Nhận xong chỗ ở là anh
chạy ngay ra phố, bụng đói meo. Mấy quán ăn mời gọi
nhưng anh cứ đi qua. Anh đi dài theo các phố, châm bẩm
nhìn vào các gian hàng mỹ phẩm và kỷ vật cao nguyên.
Anh để tâm chọn một món quà mà em ưa thích để hôm
nào về trao tặng cho nàng tiên xinh đẹp của anh. Bây giờ
trong túi anh cạn tiền, nhưng ngày cuối tháng đã gần
kề, chờ đợi đơn vị gởi lương lên, anh sẽ mua ngay
món quà quý giá với tất cả số tiền lương đó, nếu
thiếu thì mượn thêm của bạn bè. Đời nhà binh phải
lo xa như thế mới được em ạ. Lệnh di chuyển thường
ban ra đột ngột, chỉ đủ thì giờ thu dọn quân trang,
quân dụng, làm sao kịp mua tặng phẩm cho nàng tiên bé
nhỏ của anh được…”.
Lan
nhắm mắt lại, đưa thư lên miệng hôn rồi áp lá thư
lên ngực mình, cái nơi mà, lúc ở khách sạn, Tuấn thích
dúi đầu vào làm nàng chới với trong một khoảng trống,
không có điểm tựa. Nàng buông thư xuống và ngạc nhiên
khi rờ thấy mặt mình đẫm nước mắt. Nhưng nàng hiểu
ngay đó là dòng nước mắt của hạnh phúc, của yêu
đương, của một trời nhung nhớ.
Nàng
lật bao thư xem địa chỉ, thấy võn vẹn ba chữ KBC với
bốn con số liên tiếp nhau. Lau sạch nước mắt, nàng
sang nhà chị Điệp xin giấy và bút để viết thư.
Một
tháng trôi qua, những lá thư diễm tình đều đặn đan
nhau trên bầu trời Pleiku - Sài gòn. Người đưa thư già
năng lui tới nhà Lan. Mỗi lần thấy Lan hấp tấp chạy
ra nhận thư và rối rít cám ơn, bác mỉm cười, đôi mắt
hiền lành hấp háy sau đôi kính trắng. Bác đã làm cái
nghề nầy hơn hai mươi năm rồi. Bác đã đạp xe, mang
biết bao nhiêu tâm tình buồn vui, thương ghét của người
nầy trao cho người khác. Mỗi lần phát thư, bác thích
trao tận tay người nhận một cách ân cần. Nếu phải
nhét thư vào khe cửa của một nhà vắng chủ, bác cảm
thấy một chút phiền muộn trong lòng.
Vì
thế, một điều rất dễ hiểu là chỉ mới hơn một
tháng, Lan đã thấy mến bác. Hàng ngày, Lan ngóng trông
bác đến. Mỗi lần thấy bác ghé vào, Lan chạy ra cúi
đầu lễ phép như với một người thân, thuộc hàng cha
chú mình vậy.
Sáng
nay, như thường lệ, nàng ngồi may ở nhà Điệp. Đây là
chiếc áo cuối cùng của lô hàng mà nàng nhận cách nay
một tuần. Nàng sẽ dành cả buổi chiều rảnh rỗi để
viết một bức thư dài cho người yêu. Ở chiếc bàn bên
trong, Điệp chăm chỉ chấm bài cho học trò. Giữa các
tiếng ồn ào của xe cộ bên ngoài, thỉnh thoảng nàng
nghe tiếng sột soạt của những tờ giấy học trò mà
Điệp lật qua để chấm tiếp trang sau.
Ngoài
đường, bác đưa thư dừng xe cách nhà Điệp vài căn.
Bác ái ngại lấy từ túi da ra một phong thư khác thường.
Bác biết đó là phong thư đựng một công điện nhà
binh. Từ ngày chiến tranh trở nên ác liệt, bác đã nhiều
lần trao những phong thư như thế nầy và, sau đó, khi
phong thư được mở ra, bác phải chứng kiến cảnh người
nhận thư sụm xuống trong một tiếng thét đau thương. Đó
là điều khủng khiếp đối với bác; nhưng làm sao bỏ
được cái nghề mà bác đã buồn vui với nó trong bao
nhiêu năm rồi.
Bây
giờ, bác sắp chứng kiến điều khủng khiếp đó ở một
cô gái dễ thương mà có lần bác ước mơ là con gái của
chính mình. Những phong thư loại nầy đã làm bác mệt
mỏi lắm rồi, nhưng biết làm sao bây giờ.
Một
cách uể oải, bác đẩy xe về phía cửa.
Nhìn
thấy bác đưa thư, Lan hớn hở chạy ra. Bác cúi mặt
xuống, lúc trao thư. Xong rồi, bác tần ngần, không biết
nên bỏ đi hay nên đứng chờ. Mà chờ cái gì, bác cũng
không hiểu nổi.
Nghe
tiếng giấy bị xé rách, bác ngẩng lên. Cô gái đang cầm
bức điện trên tay, đôi mắt mở to rồi nhắm lại, mặt
trắng bệch. Cô thả bức điện ra, vịn vào bệ cửa và
từ từ sụm xuống. Bác hoảng hốt, quăng chiếc xe đạp
ngã ngang làm cái nắp túi da bật ra, mấy lá thư văng ra
ngoài. Bác chồm lên, xốc vào nách cô gái đang mềm nhũn
như cọng bún; miệng bác la bai hải:
-
Trời đất ơi! Bà con ơi, cứu với, cứu với!
Điệp
ở trong bếp hoảng hốt chạy ra, đỡ lấy em. Nhưng khi
nhìn thấy bức điện dưới đất, nàng chụp lấy lướt
mắt đọc qua; hai tay nàng nhũn ra, đôi chân cũng nhũn ra,
nàng ngồi bệt xuống đất và văng vẳng nghe tiếng thét
vô cùng đau thương của chính mình.
Những
tiếng la của bác đưa thư và của Điệp làm người ta
chạy đến mỗi lúc một đông. Khi thấy có người đến
đỡ cô gái, bác đưa thư vội đứng dậy đến chỗ
chiếc xe của bác. Một cậu thanh niên đang dựng xe dậy,
một cậu khác cúi lượm những phong thư văng ra bên
ngoài. Bác nhận thư, nhét vào cặp da, nhìn quanh vùng đất.
Khi thấy chẳng còn phong thư nào nữa, bác vội vã đẩy
xe ra đường, khòm lưng phóng thực nhanh về phía trước.
Được một đoạn, bác dừng xe, thở hổn hển, rồi dắt
xe lên lề đường, vào một quán giải khát đặt dưới
bóng cây cao, nặng nhọc buông mình xuống ghế. Bác gọi
một ly nước ngọt rồi ngửa người ra trên ghế, nhắm
mắt lại để tránh những tia nắng xuyên qua cành lá. Bác
đưa tay lên ngực để nghe nhịp đập của quả tim. Bác
cảm thấy mệt nhọc và chán nản vô cùng cực. Bác lẩm
bẩm:
-
Phải chi mấy ông nhân danh giải phóng để gây ra cuộc
chiến tranh nầy được chứng kiến một đôi lần cái
cảnh như vừa rồi…
Mắt
vẫn nhắm nghiền, bác lắc đầu:
-
Vô ích thôi, tim họ đã hóa đá mất rồi!
Bác
sờ soạn trên bàn, cầm ly nước mát lạnh đưa lên môi.
Người
ta dìu hai chị em vào nhà, đặt ngồi trên ghế. Mấy bà
gọi nhau í ới, mùi dầu gió xông lên nồng nực. Cả hai
đều đã tỉnh lại, ôm nhau khóc nức nở.
Theo
lời nhờ cậy của Điệp, người ta cấp tốc đến
trường báo cho Quang biết. Đang là giờ chơi của học
trò, anh xin phép về ngay tức thì.
Anh
hấp tấp vẹt đám đông, đâm bổ vào nhà. Điệp vùng
đứng dậy, ôm chầm lấy chồng:
-
Anh Quang ơi, Tuấn chết rồi!
Quang
run run buông thỏng hai tay, mặt trắng bệch. Anh dìu vợ
ngồi vào ghế, lẳng lặng lượm bức công điện, chăm
chỉ đọc. Bức điện viết theo ngôn ngữ nhà binh, ngắn
gọn và lạnh lùng, báo tin thiếu úy phi công Tạ Trọng
Tuấn đã tử trận và mất tích tại chiến trường
Daktô. Cuối cùng, bức điện yêu cầu thân nhân đến Bộ
Chỉ huy Không Đoàn Ba để biết thêm tin tức và lập thủ
tục nhận tiền tử tuất.
Thôi
rồi, còn đâu nữa đứa em vợ thân yêu của anh!
Anh
không bao giờ còn nhìn thấy cậu em cường tráng trong bộ
quân phục phi công, bông mai vàng lấp lánh trên cổ áo!
Anh
cố gắng nén cơn xúc động, bước ra cảm ơn mọi người,
báo tin em của anh đã tử trận rồi mời mọi người ra
về. Anh khép cửa lại, gục đầu vào vách, cắn môi đến
rớm máu để ngăn tiếng nấc. Anh quay vào, đến vuốt
tóc vợ và an ủi cô em. Anh ý thức được vị trí rường
cột của mình trong gia đình nên phải bình tĩnh để giải
quyết công việc tiếp theo.
Việc
thứ nhất là đến bộ chỉ huy Không Đoàn theo lời dặn
trong bức công điện. Việc thứ hai là định cách thức
làm lễ tang dù không có xác người đã khuất, theo như
thông báo mất tích của đơn vị.
Sự
bình tĩnh của Quang giúp cho hai chị em bớt bi lụy và mọi
việc sau đó diễn ra một cách trôi chảy trong nỗi đau
buồn đến cùng cực.
Một
tháng sau khi Tuấn mất, thủ tục lãnh tiền tử trận
xong xuôi. Lan chưa có một giấy tờ chính thức nào với
Tuấn nên Điệp phải nhân danh chị ruột đi lãnh. Số
tiền nầy, Điệp dành cả cho Lan. Hai chị em bàn bạc mở
một tiệm may nho nhỏ ở nhà Lan. Tuy nhiên, bàn thờ Tuấn
lại đặt ở nhà Điệp, trên tấm vách của phòng trước.
Điệp đã lựa và phóng to tấm hình Tuấn mặc quân phục,
mang lon thiếu úy, miệng hơi mỉm cười, đôi mắt sáng
quắt nhìn thẳng phía trước. Bên dưới tấm hình là
dòng chữ nắn nót:
“Người
con trai thân yêu của Tổ quốc đã làm tròn bổn phận
thiêng liêng và vĩnh viễn biến mất vào vũ trụ bao la
của không gian
vô tận.”
Đó
là dòng chữ của Quang, dựa theo ý tưởng của
Saint-Exupéry,
một tác giả mà anh rất ưa thích và đã nhiều lần kể
lại với Tuấn để hai anh em cùng bàn bạc một cách say
sưa. Hôm viết xong dòng chữ nầy, Quang đã phải lấy
khăn tay chặm vào mắt nhiều lần để lau khô hai dòng
lệ.
Ngày
nào Lan cũng sang thắp nhang và gục đầu vào bàn thờ
khóc rưng rức. Lan ngưng nhận đồ may trong hai tuần,
nhưng lần nào vái lạy linh hồn Tuấn xong, Lan cũng ngồi
vào ghế, tay mân mê chiếc máy may. Đó là tặng vật đầu
tiên của người yêu từ lúc hai người chưa quen nhau. Ở
nhà, Lan đã đem thư từ của Tuấn, sắp xếp lại theo
thứ tự thời gian rồi bắt đầu đọc lại. Khi đọc,
Lan có ý cầm thư hơi xa để nước mắt không rơi ướt
những dòng chữ thiêng liêng. Đọc xong, nàng tẩn mẩn
xếp những lá thư vào hộp, bên trên đặt xâu chuỗi hạt
trai mà nàng đã tìm lại được sau cái ngày định mệnh
trước đây. Nàng dùng tờ giấy trắng gói hộp lại và
cột dây cẩn thận. Nàng ôm hộp vào lòng, vừa khóc vừa
nói khe khẽ với người yêu:
-
Anh Tuấn, em đã dâng hiến trọn đời con gái cho anh. Bây
giờ, em phong kín tâm hồn em trong chiếc hộp nầy. Anh hãy
về mang nó đi để em được gần gũi anh mãi mãi.
Quang
và Điệp cũng thường lựa lời an ủi Lan dù anh chị
biết không một lời nói nào trên trần thế nầy có thể
làm vơi đi nỗi bi thương trong lòng người con gái đó.
Buồn nhất là vào chiều thứ bảy, với hình ảnh Tuấn
cỡi Vespa
về đỗ xịch trước cửa. Kỷ niệm đau đớn nầy làm
cho tim của cả ba người tiếp tục rỉ máu không ngừng.
Chiếc
bàn thờ của Tuấn làm cho Lan có cảm tưởng như hai căn
nhà sát vách đều là nhà của nàng. Nàng thản nhiên qua
nhà Điệp may vá hay ngồi chơi, cả lúc cha có mặt ở
nhà, điều mà trước đây nàng rất ngại ngùng. Điệp
cũng thỉnh thoảng sang nhà Lan. Có hôm nàng vào và gặp
lão già đang ngồi trên giường. Cố gắng tỏ ra lịch
sự, nàng cúi chào; nhưng lão ngồi yên nhìn nàng, mặt
lạnh lùng như không thấy cái chào lễ phép của người
hàng xóm. Biết tính lão, nên những lần sau qua nhà gặp
mặt, nàng không chào hỏi nữa.
Một
lần, có một bà trong xóm kể với Điệp rằng, vào cái
hôm tang tóc ở nhà Điệp, lão già đi bán về, tò mò
nhìn vào như những người khác. Khi biết Tuấn tử trận,
lão nhe răng cười, cái cười đầu tiên mà người ta
thấy, kể từ khi lão về đây ở. Lời kể có tính cách
vu vơ của một người đàn bà ngồi lê đôi mách làm
Điệp đỏ bừng mặt vì tức giận. Nàng không hề biết
chuyện Tuấn hạ lão đo ván trước đây, nên nàng vô
cùng căm ghét lão già đã dám cười thích thú khi đứa
em thân yêu của nàng vừa hi sinh ngoài mặt trận.
Lão
già khốn nạn! Tại sao lão lại căm thù Tuấn đến thế?
À phải rồi, Tuấn đã một lần mang con gái của lão đi,
tước đoạt lẽ sống duy nhất của đời lão. Đứa con
gái thân yêu của lão đã trở về nhưng lão vẫn nơm nớp
lo ngại nó lại ra đi với thằng con trai đó. Bây giờ
Tuấn không còn nữa, lão yên tâm, không còn lo lắng nữa.
Vì vậy, chỉ riêng lão vui mừng trong khi mọi người khác
đều buồn rầu hay đau đớn.
Điệp
giải thích như thế để tự trấn an nhưng cơn tức giận
vẫn không thuyên giảm chút nào. Do đó, mỗi lần nói
chuyện với chồng hoặc với Lan, nhắc đến lão, nàng
không giấu được vẻ hằn học làm cho Quang nhíu mày còn
Lan thì cúi đầu, không giấu được nét đau khổ trên
gương mặt thê lương.
Một
hôm Lan đột ngột hỏi thẳng chị:
-
Chị căm ghét ba em lắm phải không?
Cơn
tức giận của Điệp nổ bùng, nàng không còn tự kềm
chế được nữa:
-
Lão già vui sướng khi nghe Tuấn tử trận phải không?
Điệp
khựng lại, hối hận đã lỡ lời với Lan. Nàng định
xin lỗi em; nhưng đáng ngạc nhiên biết bao, Lan nhìn nàng
một cách buồn bã và nói:
-
Chị nói đúng; ba em vui mừng khi nghe anh Tuấn mất.
Lan
nghẹn ngào:
-
Còn anh Tuấn là ba em còn ngay ngáy lo sợ mất em. Nay anh
Tuấn vĩnh viễn nằm xuống thì ba em không còn lo sợ nữa.
Điệp
cảm động ngồi yên nhìn Lan khóc thút thít. Lan nói tiếp
qua tiếng khóc:
-
Nhưng ba em lầm rồi. Anh Tuấn đâu có đi mất. Anh Tuấn
còn đây, trong bụng em nè.
Nàng
vừa nói vừa lấy cả hai tay áp vào bụng.
Điệp
sửng sốt, há hốc nhìn em, giọng nói lắp bắp:
-
Em đã…, Lan, em đã….
Lan
nói nhanh:
-
Em đã có mang với anh Tuấn.
-
Từ lúc nào?
-
Từ những ngày chúng em sống trong khách sạn ở Biên hòa.
-
Ừ hử. Chị cũng đã đoán hai em đã thành vợ thành
chồng kể từ dạo ấy nhưng chị không ngờ việc đó
đưa đến hậu quả thế nầy. Nhưng sao em biết đã có
mang?
Lan
đã ngưng khóc nên giọng nói rõ ràng hơn:
-
Cái chuyện đàn bà của em rất đều đặn. Thế mà nó
ngưng từ đó đến nay. Em cảm thấy rất rõ ràng sự đổi
khác trong cơ thể em.
Điệp
cầm tay Lan, ái ngại:
-
Để chị dẫn em đi bác sĩ khám. Nếu quả thực em đã
có mang thì đó thực là điều tai hại. Chị hi vọng điều
đó không xảy ra. Em lo buồn lắm phải không?
Lan
ngửng lên nhìn Điệp, giọng nói tỉnh táo một cách đáng
ngạc nhiên:
-
Không, em không lo buồn đâu. Em vui sướng chứ. Em được
giữ trong cơ thể em phân nửa hình hài của anh Tuấn mà.
Em biết người khác sẽ chê cười em nhưng em không cần
vì đây là niềm hạnh phúc mà em vớt vát lại được
sau khi anh Tuấn đã vĩnh viễn đi khỏi thế gian nầy.
Câu
nói của cô em làm cho Điệp vô cùng sửng sốt. Tâm tư
nầy, lời nói nầy là của một cô gái quê mùa chất
phác ư? Nàng đăm đăm nhìn Lan và hỏi tiếp:
-
Thế ba em thì sao?
-
Chắc chắn ông sẽ căm ghét đứa bé nầy như căm ghét
cha nó vậy. Nhưng đó là việc của ba em.
Lan
lắc đầu, nói tiếp với vẻ chán nản:
-
Người được ông thương và người bị ông ghét đều
khổ như nhau. Ba em thương em nhất đời, nhưng chị thấy
em có sướng đâu.
Điệp
ngạc nhiên đến tột đỉnh vì lý luận của Lan chững
chạc và sắc bén không thua gì người có học. Nghĩ thế,
nàng tò mò hỏi Lan:
-
Lúc ở duới quê, em làm gì?
Hỏi
xong, Điệp nhìn Lan, đợi câu trả lời. Nàng thấy nét
mặt cô gái thoáng vui; vẻ buồn vụt biến mất, nhường
chỗ cho một nét nhí nhảnh, hay gần như thế, mà Điệp
thường thấy ở những nữ sinh.
Lan
trả lời:
-
Em đi học.
-
Em ở trong ruộng mà?
-
Dạ, em ở trong ruộng nhưng làng em nằm sát với quận lỵ
Thạnh phú.
Điệp
ngắt lời:
-
Sao hôm trước em nói ở Bến tre?
-
Dạ Thạnh phú là một quận của tỉnh Bến tre, hơi xa
tỉnh lỵ. Em đi học trường trung học quận, hết lớp
chín, được lãnh phần thưởng hạng nhất toàn trường,
má em đang lo tìm chỗ gởi em lên thị xã Bến tre học
tiếp đệ nhị cấp. Em chưa kịp đi thì má em bị nạn
qua đời. Em đành bỏ học theo ba em lên đây.
Điệp
buộc miệng:
-
Hèn chi!
-
Chị nói gì ạ?
Điệp
không muốn nói ý nghĩ về sự khám phá mới của mình ở
nơi cô gái có học thức mà nàng không ngờ từ trước
đến nay. Nàng hỏi sang chuyện khác:
-
Má em ở quê làm gì?
-
Má em làm ruộng với ba em.
Lan
bỗng lên giọng một cách hãnh diện:
-
Hồi xưa má em là nữ sinh ở Sài gòn. Em nghe nói má em
vừa đậu xong bằng brevet
của Pháp thì ông ngoại mất. Bà ngoại ở nhà một mình
lại có ruộng đất khá nhiều nên má em thôi học về
với ngoại em.
-
Chắc má em đẹp lắm phải không?
-
Hoa khôi trong vùng đó chị.
Lan
nói xong thì mỉm cười. Điệp ngạc nhiên thấy nét đau
buồn hoàn toàn biến mất và cô gái trước mặt mình
đang rõ rệt trở thành một nữ sinh yêu kiều.
Giọng
Lan tiếp tục một cách phấn khởi và vui vẻ:
-
Lúc còn sống có lần bà Ngoại em kể chuyện với em
rằng, khi còn con gái, nhiều người theo má em lắm, nhưng
má em chẳng để ý đến ai. Trong số những người nầy,
có một anh nông dân hiền lành chất phác, ít học nhưng
tư cách đàng hoàng và làm việc đồng áng rất giỏi. Có
điều ông nầy ít nói, tính hơi cộc; nhưng miễn là đừng
ai chọc giận thì ông rất dễ thương. Ông nầy mê mẹ
em lắm. Ông dám tuyên bố rằng không lấy được mẹ em
thì ông bỏ đi biệt xứ. Trong số những chàng trai ngấm
nghé mẹ em lúc ấy, Ngoại thương ông nầy nhất. Ngoại
kể rằng ông ấy thường xuyên đến nhà Ngoại làm đủ
mọi chuyện. Có chuyện, Ngoại mới nghĩ trong đầu chưa
kịp nói ra thì ông ấy đã xắn tay áo sẵn sàng thi hành.
Điệp
cười, ngắt lời cô em:
-
Thực là một chàng ở rể tuyệt vời.
Lan
cũng cười theo và tiếp tục câu chuyện một cách hóm
hỉnh:
-
Cuối cùng, ông bà nội em…, à quên, ba má ông nông dân
đó nhờ người đến dạm hỏi. Bà ngoại em chịu liền.
Bà kêu má em ra hỏi trước mặt mai mối. Má em gật đầu.
Lan
bỗng cười to:
-
Má em gật đầu vì không có lý do nào khác để lắc đầu.
Thế là hai người thành vợ thành chồng, sống rất đầm
ấm và kết quả đây nầy.
Lan
vừa nói vừa chỉ vào ngực mình. Nàng nói tiếp:
-
Lúc còn sống, má em thường nhắc chuyện quá khứ. Lúc
em sắp đến tuổi trưởng thành, má em thường nhân những
chuyện quá khứ, khuyên nhủ em về đạo lý làm người.
Em nhớ rõ, có lần má em nói với em, không lâu trước
khi lâm nạn: “Trong
đạo vợ chồng, thường thì cái tình đi trước rồi
sinh cái nghĩa, nhưng cũng lắm khi cái nghĩa đi trước rồi
sinh ra cái tình”. Em
biết má em đang giải thích tình nghĩa vợ chồng của ba
má em.
-
Bà theo quan niệm xưa của ông bà mình phải không em? Cha
mẹ đặt đâu, con cái phải ngồi đó.
Lan
cãi lại:
-
Không phải xưa đâu chị, má em chịu ảnh hưởng của
tây học mà. Má em nói với em như thế vì tính tình má
em đôn hậu, trọng sự chung thủy, vậy thôi.
Điệp
thực sự cảm phục sự tinh tế trong lý luận của cô
em. Nàng cũng nhận ra nét gia giáo của gia đình, sự thành
thật của người miền Nam, cộng thêm cái vốn học thức
của mẹ; tất cả những thứ quý giá đó đã hợp lại
để tạo nên cô em dâu đáng thương đáng quý của nàng.
Điệp
nhìn cặp mắt Lan long lanh trong niềm phấn khởi. Từ lâu
rồi, Lan không có sự vui vẻ thoải mái như hôm nay, nhất
là từ khi người yêu ra đi vĩnh viễn.
Điệp
hỏi tiếp:
-
Còn ba em, ngày xưa tính tình thế nào?
-
Em kể chị nghe rồi. Nông dân hiền lành, thực thà, ít
nói, hơi cộc, yêu thương vợ đến độ tôn sùng. Lúc má
em còn sống, hàng đêm, ba em lên quận để ngủ nhờ ở
tiệm tạp hóa của cô em. Làng em chỉ cách quận hơn một
cây số, nhưng Việt cộng về thường xuyên, thanh niên và
đàn ông còn trẻ chẳng ai dám ở lại trong làng ban đêm.
Điệp
chen vào:
-
Nghĩa là ban đêm phải rút vào ấp chiến lược.
-
Không. Ấp chiến lược bị phá bỏ từ lâu rồi, nhưng
chung quanh quận thì có vòng rào phòng thủ cô lập với
bên ngoài. Để em kể tiếp chị nghe. Đêm hôm đó, ba em
ở trong quận, nghe súng lớn, súng nhỏ nổ ran ở phía
làng em nên sáng sớm, vừa hết giới nghiêm, ông chạy về
ngay. Giữa những tiếng khóc của người trong nhà, ba em
nhìn quanh không thấy má em mà chỉ thấy một người nằm
trên giường, khăn trắng phủ từ đầu đến chân. Ông
chồm đến, lật khăn phủ trên mặt ra. Ông trợn mắt
nhìn sững rồi rống lên như sư tử bị trọng thương và
ôm chặt xác má em. Mọi người chung quanh đều khóc rống
theo, có người gục đầu bên xác má em, có người nằm
lăn dưới đất. Ba em vẫn quỳ bên giường, ôm chặt cái
xác lạnh ngắt của người vợ thân yêu. Ông không rống
nữa mà khóc nức nở như một đứa trẻ thơ. Lúc người
ta mang hòm về và đề nghị ông đứng lên để làm lễ
tẩn liệm, ông gào lên thảm thiết, giữ chặt lấy cái
xác, không cho đưa vào hòm. Bốn năm người đàn ông lực
lưỡng xúm lại gỡ ông ra, đè ông xuống đất mới liệm
được má em và đem đi chôn.
Điệp
cảm động, rơm rớm nước mắt:
-
Còn em thì sao? Lúc ông về, em đang làm gì?
-
Em có biết gì đâu. Người ta kể lại, em chết đi, được
cứu sống một lát rồi lại chết, cứ như thế cho đến
khi mả má em được đắp đàng hoàng thì em mới tỉnh
lại bình thường. Câu chuyện ba em ôm xác má em là do
người khác kể lại chứ em có chứng kiến đâu.
-
Còn bà ngoại em?
-
Ngoại em bị bệnh, mất trước đó hai năm rồi. Nếu còn
sống chắc hôm đó, ngoại em cũng đi theo má em luôn.
-
Sau đó thì ba em thế nào? Có còn rống hay khóc lóc không?
-
Em còn nhớ, sau khi chôn cất má em xong, khoảng hai ngày
sau ba em không còn nói một tiếng nào với ai nữa. Chị
thử tưởng tượng xem, một người đàn ông mạnh khỏe
mà tịnh khẩu trong hơn hai tháng liền, thì những gì xảy
ra trong đầu ông ấy khủng khiếp biết chừng nào. Mới
có hơn hai tháng thôi mà ba em gầy xọp xuống, già đi
cũng đến mười lăm năm. Má em không còn nữa thì ba em
trở thành cái xác không hồn. Nếu tánh tình ông có thay
đổi đến độ khó chịu hay tàn nhẫn thì đó cũng không
phải lỗi tại ông mà chỉ vì ông quá thương má em mà
thôi. Do đó, dù ba em đối xử với em có khắc nghiệt,
có chửi mắng và đánh đập đi nữa thì em cũng không
bao giờ oán hận.
Điệp
ngạc nhiên nhìn em và cảm thấy như có hào quang tỏa
sáng tên gương mặt thùy mị của người con gái đôn hậu
và hiếu thảo lạ lùng nầy. Điệp cảm thấy nhói trong
lòng vì một mặc cảm tội lỗi đối với ông già đáng
thương mà hơn một tháng nay mình căm ghét. Để tránh sự
dằn vật vì mặc cảm nầy, nàng bắt sang chuyện khác để
hỏi Lan:
-
Em có chắc chắn rằng mình đang có đứa con trong bụng
hay không?
Lan
đưa tay sờ vào bụng mình:
-
Chắc chắn rồi chị ạ, không còn nghi ngờ gì nữa. Mấy
hôm nay, em bắt đầu sợ mùi thịt cá, ngửi thấy là cứ
muốn nôn ra ngoài.
Điệp
gật đầu:
-
Vậy thì trong ít lâu nữa, em sẽ có con; ngay bây giờ, em
có nghĩ đến chuyện đặt tên cho con chưa?
Lan
suy nghĩ một chút rồi nói với vẻ trịnh trọng:
-
Đặt tên cho con là chuyện của anh Tuấn. Anh không còn
nữa thì bây giờ em phải làm việc nầy, nhưng em cần
hỏi ý kiến chị trước đã. Nếu là con trai thì em đặt
tên là Tú.
Lan
bỗng cao giọng:
-
Tạ trọng Tú, con của thiếu úy không quân Tạ trọng
Tuấn. Em sẽ khai với nhà thương và chính quyền như thế
để làm giấy khai sinh cho con em sau nầy. Có ai phản đối
điều đó không hả chị?
Điệp
sung sướng và cảm động, đáp lời em:
-
Có là người điên mới phản đối. Còn nếu là con gái?
-
Em thích đứa con trai giống in anh Tuấn, nên chưa có nghĩ
đến tên con gái. À, mà có lẽ em đặt tên là Hoài, Tạ
thị Hoài.
-
Tại sao em đặt tên con là Hoài? Hoài có nghĩa là gì?
Giọng
Lan run run:
-
Hoài là nhớ. Nhớ thương, nhớ thương không bao giờ
nguôi.
Điệp
rơm rớm nước mắt:
-
Cũng được. Nhưng tên Hoài nghe buồn quá.
-
Thì chị nghĩ xem, đời em có vui gì đâu. Sinh ra trong
chiến tranh, lớn lên trong chiến tranh, mẹ chết vì chiến
tranh, cha dở hơi vì chiến tranh, hạnh phúc tan vỡ cũng
vì chiến tranh. Liệu sau nầy, giọt máu quý giá nằm đây
có thoát khỏi nanh vuốt của chiến tranh hay không?
Lan
nói xong, buồn bã nhìn xuống bụng mình.