Chắc
chắn không có một nhà văn tài ba nào có thể mô tả
được hết nỗi vui mừng của ba mẹ con khi thấy Tân
bước vào nhà. Thùy Liên nhào tới ôm chầm lấy chồng
rồi gục đầu trên vai khóc nức nở. Hai đứa bé đứng
im trố mắt nhìn trong một phút mới hiểu được chuyện
gì đang xảy ra. Chúng cùng hét to: “Ba về, ba về” rồi
ôm chặt hai chân của Tân. Cả bốn người đứng im lặng
trong vài phút. Thùy Liên đứng thẳng dậy, đưa tay áo
lên lau khô nước mắt. Tân cúi xuống ôm cả hai con, hôn
như mưa bấc vào mặt của chúng. Anh ngẩng lên, thấy
khuôn mặt Thùy Liên vẫn còn đầm đìa nước mắt nhưng
lại vô cùng rạng rỡ.
Tân
ngồi xuống ghế, Hòa Bình leo lên đùi còn Thùy Dung đứng
dựa vào cánh tay của cha. Thùy Liên ngồi ghế đối diện,
dùng tay áo lau khô nước mắt. Tân hỏi vợ bằng giọng
nói thực dịu dàng:
-
Em có biết hôm nay anh về không?
-
Từ nhiều tháng nay, em nghe tin có người được trả tự
do, ngày nào em và hai con cũng cầu nguyện nhưng đến khi
thấy anh bước vào, em không dám tin rằng đây là sự
thực. Anh được ra trại từ khi nào mà bây giờ mới về
đến đây?
-
Sáng hôm qua, quản giáo phát giấy phóng thích và bảo anh
em ra cổng chờ xe đến đưa về Phước long. Đợi một
lúc chưa thấy xe tới, một người trong nhóm nói: “Thôi
đi, tiếp tục ngồi đây, rủi quản giáo ra đòi lại
giấy phóng thích rồi dẫn vào trại thì nguy”. Mọi
người nghe nói đều đứng bật dậy, nhìn lấm lét vào
trong trại.
Thùy
Liên bật cười:
-
Sao lại có chuyện đó được. Phóng thích là do quyết
định của trung ương và các anh có giấy tờ ra trại mà.
Tân
cũng cười theo:
-
Đúng, thực là vô lý nhưng tâm trạng của tù là thế
đó. Bị giam giữ quá lâu rồi nên họ không bỏ ngay được
cái mặc cảm mình vẫn là thằng tù. Cái bằng chứng
được trả tự do là tờ giấy mà các anh nắm trong tay
dường như quá mong manh, dễ vỡ như một chiếc ly thủy
tinh rất mỏng. Ai chưa từng ở tù thì không hiểu được
tâm trạng nầy. Hơn nữa, trong thời gian bị giam cầm,
các anh bị lừa gạt nhiều lần nên tự nhiên có ấn
tượng lo sợ và nghi ngờ mọi điều tốt lành mà cách
mạng ban phát cho mình.
Thùy
Liên bóp nhẹ bàn tay của chồng:
-
Tội nghiệp cho các anh. Rồi các anh làm sao ra tới tỉnh
lỵ Phước long?
-
Anh em quyết định kéo nhau đi bộ. Đi theo đường đất
đỏ thì ngoằn ngoèo xa quá, sợ không kịp đến thành
phố trong ngày. Cả bọn bàn bạc cấp tốc và quyết định
băng rừng. Trong số anh em có một người trước là trung
úy biệt kích dù, đã quen lặn lội trong rừng núi sình
lầy. Anh ấy nhìn ánh nắng, đứng im gióng hướng rồi
lên đường, cả đoàn theo sau. Tài thực, sĩ quan Việt
Nam Cộng hòa có quá nhiều người tài đủ mọi lĩnh vực.
Sau mấy giờ băng rừng vượt suối, đến xế chiều thì
cả bọn vào tỉnh lỵ, vội vã hỏi đường ra bến xe đò
để mua vé sáng mai về Sài gòn. Vì trời chưa tối nên
anh em rủ nhau đi dạo. Phố xá thực tiêu điều. Một anh
trước ở tiểu khu Phước long bảo rằng thành phố nầy
trong hòa bình mà buồn thảm hơn lúc chiến tranh nhiều.
Ngoài đường, bộ hành thưa thớt, ai cũng cúi gầm mặt
mà đi, chẳng thấy phấn khởi như tài liệu học tập
chính trị chút nào.
-
Đêm đó anh ngủ ở đâu?
-
Vô chùa. Các nhà sư biết các anh là tù cải tạo về nên
tiếp đãi rất tử tế. Sáng tinh sương hôm nay thì lên
xe. Con đường nầy thời chiến tranh thì rất tốt nhưng
sau hai năm hòa bình thì hư hết, Nhiều nơi, anh thấy dân
chúng đục những mảng bê tông nhựa về lót sân nhà
mình. Người bạn ngồi gần anh chỉ và nói rằng, mình
quen với nếp sống văn minh nên sẽ phải chịu đựng rất
nhiều trong cái chủ nghĩa xã hội nầy. Chiếc xe đò thì
chạy một chốc rồi nằm im như tắt thở một chốc mới
chạy lại. Thế mà cuối cùng cũng về đến Sài gòn.
-
Từ bến xe miền đông, anh đi về đây bằng cách nào?
-
Đi xe Lam.
Khi anh xuống ở đường Phan thanh Giản, đang móc tiền ra
để trả thì bác tài xế nhìn bộ áo quần rách rưới
và dính đầy đất đỏ nầy hỏi anh có phải là sĩ quan
đi học tập về không. Anh gật đầu thì bác ta khoát tay
bảo không lấy tiền rồi rú máy xe bỏ chạy. Anh đứng
nhìn theo, rất cảm động, không ngờ người dân còn nghĩ
đến sĩ quan chế độ cũ như thế.
Thùy
Liên gật đầu:
-
Có chứ, bây giờ sống với chế độ mới rồi, dân
trong Nam mới biết thương chế độ cũ. Nay thì dân đã
nhận ra ai tốt, ai xấu, ai đáng ghét và ai đáng thương.
-
Ừ nhỉ, anh ở trong trại đâu có biết gì. Các nhà viết
sử sau nầy chắc chắn phải phân tích nhiều về ảnh
hưởng của biến cố 1975 vừa qua.
-
Thôi, anh đi tắm rửa đi. Em đi nấu thêm cơm. May quá hôm
nay mua được con cá tươi thì nhằm lúc anh về.
Bữa
cơm gia đình đầu tiên, ôi, hạnh phúc biết bao! Thùy
Liên cứ mãi ngồi nhìn và gắp thức ăn cho chồng. Mãi
đến khi Tân và hai con ăn xong, chén cơm độn sắn của
nàng mới vơi được phân nửa. Nàng ăn vội vừa xong thì
từ bên ngoài nhiều người hàng xóm kéo đến. Giọng bà
Ba Bún riêu ở trước nhà oang oang:
-
Mèn đét ơi, thầy Tân mới về đó hả? Cái thằng Châu
ở nhà tôi chạy vô nói với tôi là bên nhà cô Liên có
ông nào mới tới trông hơi quen nhưng ăn mặc nhem nhuốc
lắm. Tôi sợ cho cô Liên, biểu nó qua nhìn kỹ. Nó về
nói là thầy Tân. Mèn đét ơi, vợ chồng tui nghe nói thì
mừng quá đi. Rồi mấy nhà hai bên cũng hay tin. Mèn đét
ơi, ai cũng mừng. Đây nè, có mấy người tới trước,
rồi ngày mai họ tới thăm đầy nhà cho coi. Mèn đét ơi!
Tân
đứng dậy, chớp mắt cảm động:
-
Cám ơn dì Ba, cám ơn cô bác.
-
Ối cám ơn cái gì. Xóm nầy ai mà không thương thầy cô.
Hiền lành tử tế như thầy và cô Liên thì ai mà không
thương. Vậy mà vợ chồng phải chia lìa mấy năm rồi.
Ăn ở gì mà bạc ác bất nhơn. Người ta làm thầy giáo
đi dạy mà cũng bắt giam để học tập.
Tân
nhỏ nhẹ:
-
Cháu là thầy giáo nhưng trước đây có làm sĩ quan.
-
Ừa, tôi biết rồi. Chiến tranh thì hai bên đánh nhau, đó
là lẽ tự nhiên. Hòa bình rồi, buông súng xuống thì còn
tội gì nữa. Nếu nói rằng có tội bắn giết thì sĩ
quan bên mấy ổng không có tội sao?
Thùy
Liên vội ngắt lời:
-
Thôi dì Ba, chúng con được dì Ba và hàng xóm tỏ tình
thương mến thì chúng con sung sướng lắm. Còn cái chuyện
chính trị thì người trong Nam mình hiểu với nhau và nên
để trong lòng mình. Thời buổi nầy, mình trực tính nói
thẳng ra thì khó sống lắm.
Dì
Ba xuống giọng, có vẻ xuội lơ:
-
Ừa, tôi cũng biết như cô nói vậy, nhưng mà nhiều khi
nghĩ tức quá không nói không được. Ông nhà tôi cũng cứ
la rầy tôi hoài nhưng tôi chưa bỏ được. Mình là người
miền Nam mà, cấm nói thẳng thì cực trong bụng lắm.
Thùy
Liên nhỏ nhẹ:
-
Rồi cũng phải rán cho quen đi dì Ba ạ. Người dân cũng
như cục đất sét vậy, nhà nước muốn nặn con gì thì
phải ra con đó.
-
Được rồi, nhà nước nặn cho tôi thành con gì không nói
được thì tôi cám ơn lắm.
Mọi
người đều phì cười. Không khí trong nhà trở nên rộn
rã vui vẻ.
Sau
vài câu chuyện thăm hỏi, hàng xóm ra về. Thùy Liên trải
chiếu ra đất để cả nhà ngồi. Tân bế Hòa Bình trong
lòng, Thùy Dung ngồi sát bên cha, Thùy Liên ngồi đối
diện với chồng. Nàng nhìn Tân như ngây như dại trong
vài phút rồi nói:
-
Mấy tháng nay, em nghe bên Cam bốt, cộng sản giết nhiều
người, em lo sợ lắm. Em lo là vì bên đó cộng sản nắm
quyền còn bên mình thì cộng sản cai trị. Em nghe nói
trong suốt thời kỳ chiến tranh, hai đảng hợp tác với
nhau rất khắng khít, lãnh tụ hai bên thường gặp nhau và
hôn nhau rất thắm thiết. Nay, bên đó cộng sản giết
nhiều người thì cộng sản bên nầy có làm như thế
không? Nếu họ giết thì chắc chắn phải giết sĩ quan
chế độ cũ trước rồi sau đó mới tới thường dân.
Em lo quá, đi hỏi ý kiến nhiều người thì có người an
ủi và bảo rằng không sao đâu, cộng sản Cam bốt tàn
ác, còn cộng sản Việt Nam thì có lòng khoan dung, chỉ
giam các anh một thời gian rồi thả ra thôi.
-
Thế là em hết lo sợ rồi phải không?
-
Chỉ bớt phần nào thôi vì vẫn thắc mắc.
-
Thắc mắc thế nào?
-
Chủ nghĩa cộng sản là duy nhất vì do một người là
ông Carl Marx đề ra. Thế thì tại sao có thứ cộng sản
tàn ác, có thứ cộng sản nhân đạo? Cũng may, tháng rồi
có anh Đức, trước dạy cùng trường với anh, dẫn vợ
đến thăm, giải thích cho em nghe. Anh nhớ anh Đức không?
-
Nhớ chứ. Anh ấy dạy quốc văn, tốt nghiệp ban Việt
Hán ở đại học sư phạm Sài gòn, sau anh hai khóa nên
được hoãn dịch, thoát được đời lính. Anh ấy có
nhiều ý tưởng rất khá.
-
Đúng rồi, anh Đức nói chuyện hay lắm. Em đưa thắc mắc
ra hỏi thì anh Đức giải thích ngay khá rành mạch. Đúng
là ông giáo sư do đại học sư phạm đào tạo.
-
Anh Đức giải thích thế nào, em có nhớ không?
-
Nhớ đại khái thế nầy. Bản chất người cộng sản
không tàn ác cũng chẳng nhân đạo, luôn luôn chủ trương
hành động sao cho có lợi cho đảng. Giết người hay
không giết người tùy theo nhận định của lãnh tụ với
hoàn cảnh của mỗi lúc mỗi nơi. Nơi nầy tha thứ, nơi
kia giết bỏ, hôm nay tin dùng, ngày mai thủ tiêu, tất cả
chỉ nhằm phục vụ cho đảng. Anh Đức gọi đó là tính
thực dụng vì đảng chứ không phải chủ nghĩa thực
dụng vì cá nhân. Cái gì có lợi cho đảng là chân lý,
cái gì có hại cho đảng là tội lỗi, là phản động.
Rất giản dị. Ở Cam bốt, đảng xác lập uy quyền của
mình bằng cách giết thực nhiều người để gây nỗi
kinh hoàng làm cho người dân không còn lòng dạ nào chống
đối nữa. Ở Việt Nam, đảng cũng từng chủ trương tàn
sát trong cuộc đấu tố năm 1956 ở miền Bắc để xác
lập quyền lãnh đạo tuyệt đối của mình, đặc biệt
về kinh tế. Còn bây giờ, sự xác lập đó không cần
thiết nữa. Chiến thắng vang dội của họ và sự sụp
đổ nhanh chóng của miền Nam, đồng thời với sự rút
lui của quân đội Mỹ hùng mạnh nhất thế giới đã đem
đến cho đảng quá nhiều hào quang nên không cần phải
tàn sát nữa. Nhưng cũng phải bỏ tù tất cả sĩ quan
quân đội cũ một thời gian vì họ biết đó là thành
phần ưu tú, có tài và được dân chúng kính nể. Họ
phải nhốt một thời gian vì tính đa nghi của họ và vì
để thỏa mãn lòng hận thù của bộ đội họ đã từng
bị quân đội cũ quần thảo nhừ tử trên chiến trường.
Rồi cũng đến lúc nào đó đảng cũng phải thả những
người đi học tập ra vì lấy gạo đâu mà cho tù ăn mãi
trong khi nền kinh tế trong nước càng ngày càng suy sụp
và viện trợ của khối xã hội chủ nghĩa càng ngày càng
ít dần đi.
Tân
gật đầu:
-
Nhận định của anh Đức hay thật và thế là giờ nầy
anh ngồi đây với em và hai con.
Thùy
Liên ngập ngừng:
-
Đúng thì có đúng thật nhưng có lẽ không đúng hoàn
toàn.
Tân
ngạc nhiên:
-
Tại sao?
-
Nhiều ngày sau khi nói chuyện với anh Đức, em suy nghĩ
thấy anh ấy mô tả người cộng sản có vẻ ….. ừ, ừ.
-
Có vẻ thế nào?
-
Có vẻ lý tưởng, à không, có vẻ sát với lý thuyết
của cộng sản quá.
-
Em muốn nói gì, anh không hiểu.
-
Em nói người cộng sản bây giờ không còn giữ nguyên
cái lý tưởng ban đầu do ông Carl Marx đề ra nữa.
Tân
tiếp tục ngạc nhiên:
-
Tại sao em nói như vậy?
-
Có nhiều điều thấy rất rõ ràng, thí dụ, họ không
còn phụng sự lý tưởng xây đựng thế giới đại đồng
trên toàn thế giới nữa. Bằng chứng là hai đàn anh Liên
xô và Trung cộng đã choảng nhau vì tranh giành một ít
đất ở biên giới. Rồi tới phiên hai đàn em cộng sản
là Việt Nam và Cam bốt cũng choảng nhau. Từ bằng chứng
hiễn nhiên của sự gãy đổ chủ thuyết cộng sản đó,
em nhìn sang khía cạnh khác tuy không ồn ào bằng nhưng
rất cơ bản.
-
Khía cạnh gì mà cơ bản?
-
Khía cạnh đảng. Anh Đức bảo rằng người cộng sản
hành động vì sự lợi ích của đảng. Nhưng bây giờ,
nhiều bằng chứng cho thấy họ hành động không hoàn
toàn vì lợi ích của đảng nữa mà vì lợi ích cá nhân
của họ. Theo lý thuyết, đảng là cứu cánh của hành
động, bây giờ đảng lại trở thành phương tiện để
đảng viên núp sau đó mà vun vén lợi ích cho riêng mình.
Cứ nhìn tiêu chuẩn về quyền lợi dành riêng cho cán bộ
đảng viên, nhìn cách sống theo kiểu ăn trên ngồi chốc
của họ đối với nhân dân lao động thì thấy rõ. Em
nghe nói, ở miền Bắc, dân vô cùng cơ cực còn các vị
lãnh đạo sống xa hoa hơn cả những ông lớn trong miền
Nam nhiều. Dân không có ăn chứ họ thì thừa mứa, có
người làm đám cưới cho con gái tốn kém bằng lương
tháng của hàng ngàn công nhân. Có một ông lãnh đạo có
một con chó cưng chết mà làm đám ma rất tốn kém với
nhiều người đến ăn uống say sưa để chia buồn! Nhờ
núp bóng đảng mà họ có nhiều tiền như thế.
Tân
ngồi nghe, vừa ngạc nhiên, vừa thích thú. Thùy Liên hiền
lành thùy mị của anh bây giờ lại có trong đầu những
nhận định sâu sắc và xác thực đến thế ư? Anh chợt
nhớ đến hàng trăm kí gạo mà người ta đã tàn nhẫn
cướp mất của anh em trong trại cải tạo mấy tháng
trước đây. Anh định kể cho Thùy Liên nghe để củng cố
thêm bằng chứng của lý lẽ của nàng nhưng kịp tự
ngăn mình lại. Anh nhớ tới câu nói của Thành: “Sống
với cộng sản, càng biết nhiều càng thêm khổ chứ có
lợi ích gì”. Vì vậy anh nói với Thùy Liên:
-
Thôi, anh về đây với em và con, thế là may mắn lắm
rồi. Tốt hơn hết là tự bịt tai bịt mắt mình lại mà
sống.
-
Dạ, đã có lần anh Vinh cũng khuyên em như thế.
-
Ừ, anh tính bàn với em, sáng mai vợ chồng con cái mình
đến thăm gia đình anh Vinh đi. Anh rất nóng lòng gặp lại
anh ấy. Hai mươi lăm năm xa cách rồi.
-
Từ sáng sớm, cả hai anh chị đều đi làm, hai đứa con
đi học, nhà khóa cửa. Chiều mai chúng ta sẽ đến.
Nàng
chỉ hai đứa bé và nói tiếp:
-
Hai con đang ngủ gục kìa. Anh buồn ngủ chưa?
-
Chưa, anh sẽ thức suốt đêm nay với em.
Câu
nói của chồng làm mặt Thùy Liên hồng lên thực đáng
yêu. Tân nhìn nàng và thấy thèm khát dữ dội. Thùy Liên
nói nho nhỏ:
-
Em đưa con vào ngủ trước rồi ra đây ngồi nói chuyện
tiếp với anh.
Tân
đứng dậy bế Hòa Bình còn Thùy Dung thì nắm tay mẹ
khật khưởng vào giường. Tân ra ngoài ngồi một mình.
Anh nhìn khắp gian phòng thân yêu, cảm thấy một niềm
vui sướng to lớn rộn rã trong lòng. Thùy Liên trong buồng
bước ra. Tân vội đứng dậy vói tay tắt đèn. Trong bóng
tối, hai vợ chồng ôm chầm lấy nhau, đôi môi của Tân
áp mạnh vào đôi môi ngọt ngào của vợ trong khi bàn tay
của anh di chuyển khắp nơi trên làn da mịn màng của
nàng. Tân đặt vợ xuống chiếu.
Thùy
Liên nói qua hơi thở hổn hển:
-
Anh Tân, em yêu anh. Anh Tân, anh làm em chết mất!
*
*
*
Tân
giật mình thức dậy vì tiếng xe chạy ngoài đường. Anh
mở mắt ra nhìn qua cửa sổ thấy trời chưa sáng. Nhìn
sang bên thấy Thùy Liên còn ngủ say, anh rón rén vén mùng
bước xuống đất rồi đi thẳng vào bếp. Anh khép cửa
lại, bật đèn lên. Trên kệ bếp có cái lò điện. Anh
cho nước vào ấm rồi bắc lên. Nghe tiếng bước chân
nhè nhẹ sau lưng, Tân quay lại thấy Thùy Liên vừa đi
xuống. Nàng đến gần, Tân siết nàng trong vòng tay và
đặt lên môi nàng nụ hôn dài. Anh nghe giọng nàng thỏ
thẻ:
-
Anh Tân, nước sôi rồi, em pha cà phê cho anh nhé.
Hai
người ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn nhỏ trong bếp.
Thùy Liên nhìn chồng, nói nhỏ:
-
Anh Tân, ba năm nay, đêm rồi em mới được một giấc ngủ
bình yên, không hề thức giấc.
Tân
mỉm cười:
-
Nửa đêm anh thức dậy, cứ tưởng mình còn trong nhà tù,
quay sang trông thấy khuôn mặt xinh đẹp của em, anh ngỡ
mình chiêm bao.
Nàng
nhìn chồng một cách đằm thắm:
-
Bây giờ thì hạnh phúc thực sự rồi chứ không phải là
chiêm bao nữa. Anh Tân, em yêu anh vô cùng vô tận. Nếu
anh đi cải tạo luôn và không về nữa thì em cũng không
muốn sống làm chi trên cõi đời nầy.
-
Thôi, em đừng nói như thế nữa. Anh học tập cải tạo
xong rồi. Anh ở đây chơi vài ngày rồi đi Cần thơ xem
đất đai nhà cửa dưới đó thế nào, sau đó mình thu
xếp về đó làm ruộng để sống.
Thùy
Liên lắc đầu:
-
Đất và nhà dưới đó bị tịch thu mất rồi.
Tân
sửng sốt:
-
Sao? Đất và nhà của ba má bị tịch thu rồi à? Bị tịch
thu lâu chưa, sao em không nói cho anh biết?
-
Bị tịch thu ngay trong những ngày đầu sau khi họ chiếm
được Cần thơ, lý do là chủ nhân đã chạy theo quân
thù. Em không nói vì sợ anh buồn. Anh cần phải sống
trong trại cải tạo những ngày thực bình yên để hôm
nay có thể về với em và các con.
Tân
thở dài:
-
Không về quê, mình ở đây thì làm gì để sống?
-
Làm gì thì rồi cũng phải ở lại trong chính ngôi nhà
nầy. Anh Vinh dặn em phải bám vào thành phố lớn mà
sống. Đó là kinh nghiệm xương máu của anh ấy lúc còn
sống ngoài miền Bắc. Đừng bao giờ tính chuyện về
nông thôn. Mọi thứ văn minh đều đổ dồn vào thành phố
để khoe khoang với khách nước ngoài và để cho các vị
lãnh đạo cao cấp hưởng thụ. Về nông thôn, mình còn
có thể phải gánh chịu tai ách của mấy ông cán bộ xã
ấp, vừa ngu dốt, vừa tàn nhẫn, ghê gớm hơn bọn cường
hào ác bá thời Pháp thuộc nữa. Nông thôn bây giờ không
dễ chịu như nông thôn ở chế độ Cộng hòa đâu.
-
Thế mà tài liệu chính trị dạy các anh trong trại cải
tạo bảo rằng cách mạng chủ trương phát triển nông
thôn còn miền Nam trước đây theo chính sách thực dân
mới chỉ phát triển đô thị mà thôi.
Thùy
Liên gật đầu:
-
Ngoài nầy, người ta cũng dạy y như thế. Lúc đầu thiên
hạ còn tin, về sau ai cũng cho rằng cứ lật ngược những
gì trong tài liệu học tập là đúng với sự thực, và
những gì xấu xa mà tài liệu đổ cho miền Nam chính là
của miền Bắc đó. Anh Vinh dặn em đến hai lần hãy bám
lấy thành phố mà sống, đừng tin theo lời vận động
của cán bộ bỏ về nông thôn hay đi vùng kinh tế mới
thì nguy. Anh Vinh nói rằng ở nông thôn người dân bị
bóc lột tàn tệ.
-
Thế tại sao họ không nổi loạn? Lúc trước ở miền
Nam cán bộ cộng sản hay xúi giục nông dân nổi loạn
lắm mà.
-
Lúc trước họ xúi giục được vì chế độ miền Nam
trước đây tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Còn
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hệ thống công an ghê
gớm lắm. Không phải đợi đến khi có nổi loạn mới
đàn áp mà gây áp lực thường xuyên hàng ngày hàng giờ
lên đầu óc của nông dân, triệt tiêu mọi mầm mống
chống đối đến độ nông dân không còn ý thức được
nỗi cơ cực, nỗi bất công mà mình phải gánh chịu. Anh
Vinh kể rằng đã trông thấy một nông dân góp ruộng
mình cho hợp tác xã và suốt ngày quần quật ngoài đồng
để đến cuối tuần, tính công điểm xong được vài ký
lúa. Anh ta cởi chiếc áo bạc màu với nhiều miếng vá
ra bọc lấy mớ lúa, khúm núm ra khỏi văn phòng hợp tác
xã, vừa đi vừa nói: “Cám ơn đảng, ơn đảng vô cùng
to lớn, ngàn đời không quên”.
Tân
nhăn mặt:
-
Sao mà kinh tởm vậy?
-
Chưa hết đâu. Nhiều gia đình, cả hai vợ chồng đều
là thành viên của hợp tác xã thế mà công điểm không
đủ nuôi bầy con nên mùa nào cũng phải đi vay.
Tân
ngạc nhiên:
-
Ở đó cũng có người cho vay sao?
-
Vay lại hợp tác xã ấy mà. Anh biết hợp tác xã cho vay
thứ gì không? Cho vay sắn và ngô và tới mùa tính thành
lúa. Anh cũng hình dung được vay cái kiểu đó thì nợ
hợp tác xã ngày càng chồng chất. Em không biết trước
đây thế nào, chứ còn bây giờ, người ta bỏ trốn vào
Nam để xù nợ. Trong Nam chưa áp dụng chủ nghĩa xã hội
một cách triệt để nên còn sống được. Người ta nói
với nhau rằng dưới thời Pháp thuộc, nông dân là nô lệ
nhưng vẫn còn có cơm ăn áo mặc còn bây giờ, trong chủ
nghĩa xã hội, nông dân làm chủ nhưng cơm không đủ ăn,
áo không đủ mặc. Có lẽ người ta nói cũng có khi hơi
thái quá nhưng quả thực, làm nông dân trong chủ nghĩa xã
hội thì hết sức là cơ cực. Nhất thiết phải sống ở
thành phố, anh đừng bao giờ nghĩ đến chuyện về nhà
quê hay đi vùng kinh tế mới.
-
Lúc anh còn ở trong trại, tài liệu dạy chính trị có
nói đến vùng kinh tế mới do đảng và nhà nước lập
ra và khuyến khích người đi học tập trở về tình
nguyện đem vợ con đến đó để lập nghiệp.
-
Không phải khuyến khích đâu mà là bắt buộc, em cũng đã
được chính quyền gọi lên “giáo dục” rồi. Em đi
buôn nên có dịp gặp gỡ nhiều người nhất là cán bộ
ngoài Bắc vào. Họ mến em nên nói thực cho em nghe. Vùng
kinh tế mới là nơi đày đọa con người chứ không phải
như khu trù mật trước đây dành cho dân di cư sau hiệp
định Genève
đâu. Em không biết mục đích thực sự của đảng lập
ra các vùng kinh tế mới để làm gì còn thực tế cán bộ
xúi dân đi vùng kinh tế mới để họ lấy nhà chia cho
nhau. Mình mà đi kinh tế mới là lập tức có người đến
chiếm nhà nầy liền.
Tân
lo lắng:
-
Thế thì làm sao? Lúc còn trong trại, anh dự định về
thì đem em và con về nông thôn hay vùng kinh tế mới. Anh
thì được rồi, đày đọa cách nào anh cũng chịu đựng
nổi, còn em và con nếu bị họ đày đọa thì anh sẽ
liều chết với họ.
Thùy
Liên nắm tay chồng nhìn một cách say đắm:
-
Anh Tân, em biết anh yêu mẹ con em hơn bản thân anh nhiều
lắm. Anh không phải lo. Cũng may là thành phố nầy có chủ
trương dùng lại những người đã tốt nghiệp đại học
và cấp hộ khẩu cho ở lại thành phố nữa.
-
À, anh có nghe nói hộ khẩu quan trọng lắm phải không
em?
-
Vô cùng quan trọng. Đó là một trong những cái xiềng mà
miền Bắc mang vào tặng cho dân miền Nam. Nhưng nếu ai
không được họ cấp cho cái xiềng đó thì khó sống
được với họ. Những người am hiểu tình hình đều
cầu xin được xiềng vào các thành phố lớn.
-
Tại sao đảng chủ trương cho người có bằng đại học
ở lại thành phố.
-
Thành phố nầy quá lớn, có vô số nhà máy trang bị tối
tân. Khi đầu hàng, miền Nam biết rằng những thứ đó
đều sẽ rơi vào tay quân thù nhưng quân đội và chính
quyền cũ không ai nỡ phá hư những tài sản quí giá đó.
Nền giáo dục mà anh đã góp công trước đây đã đào
tạo ra những con người như thế. Cuộc đánh tư sản vừa
qua ra sức phá hoại nhưng chẳng phá hết nổi vì tiềm
năng kinh tế của thành phố mình quá lớn. Bây giờ thì
người ta đổi ý, bắt đầu cho thành phố hoạt động
trở lại. Người miền Bắc vào đây không làm gì được,
còn người của mặt trận giải phóng trong rừng ra thì
càng tệ hơn nữa. Chuyên viên cũ, một phần trốn ra
ngoại quốc, một phần nằm trong các trại cải tạo.
Tân
ngắt lời:
-
Phải rồi. Lúc mới đến trại cải tạo Trảng lớn, anh
có quen anh trung úy Hạnh, kỹ sư công nghệ, biệt phái về
nhà máy thủy điện Đa nhim. Lúc quân “giải phóng”
vào, mấy ông kỹ sư sợ quá, cho dừng máy phát điện và
trốn về Sài gòn rồi trình diện để học tập. Một
vài công nhân trên đó cùng với mấy ông “giải phóng”
phát huy “quyền làm chủ tập thể”, mở máy ra cho chạy
trở lại. Họ không hiểu trong qui trình mở máy có nhiều
công đoạn trong đó quan trọng nhất là dùng áp suất
nâng trục chính lên. Thế là “quyền làm chủ tập thể”
của họ làm hư trục turbin,
cán bộ phải lật đật về Sài gòn nhờ ủy ban quân
quản dò danh sách, móc mấy ông sĩ quan biệt phái ra khỏi
trại cải tạo, trở về Krong
Pha để giải quyết
hậu quả của “quyền làm chủ tập thể” của “giai
cấp tiền phong”!
-
Đó anh thấy chưa? Chính ông Lê nin còn bảo phải dùng
lại chuyên gia của tư sản nữa kia mà.
-
Thùy Liên, sao em hiểu biết nhiều vậy?
-
Em đọc sách để có chút hiểu biết mà sống với họ.
Nói tóm lại, anh phải trở lại nghề giáo dục.
-
Nhưng hôm nọ ở Tây ninh, em đã nói với anh rằng em
không thể phục vụ được nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa, nên em đã từ chối rồi mà.
Thùy
Liên cười:
-
Em từ chối được vì họ lỡ phát cho em cái xiềng hộ
khẩu thành phố rồi. Anh phải đi dạy lại để kiếm
cái xiềng đó rồi tính sau.
Tân
cười:
-
Hay là em cho anh dùng chung cái xiềng với em. Vợ chồng sẽ
bị xiềng dính vào nhau cả ngày cả đêm, như hồi hôm
vậy.
Thùy
Liên đỏ mặt:
-
Anh đừng nói bậy. Trước đây, anh ăn nói đứng đắn,
đi ở tù mấy năm anh học được như thế phải không?
Thôi mình bàn công việc trở lại cho nghiêm túc đi. Mục
đích chính của việc trở lại nghề là để có hộ khẩu
thôi, anh chẳng cần phải quan tâm đến giáo dục. Vả
lại, người ta cũng chẳng cần anh dạy giỏi đâu. Anh
Đức cũng trở lại dạy để giữ hộ khẩu thành phố.
Anh ấy bảo rằng dường như mục đích chính của nền
giáo dục nầy là giữ trẻ em lại trong nhà đừng cho
chúng chạy loạn ra đường chứ không phải để dạy cho
chúng nên người.
-
Thế, những vị lãnh đạo không nghĩ tới tương lai con
cái của họ à?
-
Có chứ, họ gửi chúng nó ra ngoại quốc để học. Anh
Tân, anh hãy nghe em đi. Anh phải nạp đơn đi dạy lại
nghe anh.
-
Được rồi, anh chiều ý em. Anh đã dẹp bỏ cái lý tưởng
giáo dục của anh từ lâu rồi. Bây giờ đi dạy chỉ vì
cái hộ khẩu để được tiếp tục gần gũi ba mẹ con
tại đây thôi.
-
Anh cũng nên hiểu điều nầy nữa. Lương thầy giáo bây
giờ tệ lắm, may ra vừa đủ cho anh sống. Nhưng anh đừng
lo, em buôn bán để cho hai con sống được.
-
Thùy Liên, anh làm sao chịu đựng nổi tình trạng đó.
-
Cũng phải chịu thôi anh ạ. À, còn điều nầy nữa, em
phải trình bày cho anh rõ.
-
Chuyện gì vậy?
-
Hiện nay, nhiều người đang tìm cách trốn ra nước
ngoài.
-
Lúc trong trại anh cũng có nghe nói về điều đó.
-
Ai nói với anh?
-
Một người bạn tù ở tổ kế bên. Vợ anh ấy chuẩn bị
vượt biên, trước khi đi, lên tìm cách gặp anh ấy để
nhìn mặt nhau lần cuối cùng. Chị ấy giả dạng người
đi canh rẫy, ăn nhờ ở đậu trong nhà dân suốt một
tuần lễ mới gặp được chồng trong ngày đi lao động
ngoài trại. Hai vợ chồng chui vào bụi rậm để nói
chuyện, các anh em khác vừa làm lao động, vừa canh chừng
vệ binh. Chiều về, anh ấy khóc, kể chuyện lại cho anh
em nghe.
-
Câu chuyện bi thảm quá anh nhỉ. Nhưng tại sao anh ấy
không trốn theo vợ luôn?
-
Làm sao trốn được? Ăn mặc lem luốc, lại không có giấy
tờ thì làm sao đi cho thoát từ xứ rừng núi đến quê ở
anh ta mãi tận Bạc liêu. Anh đoán sau khi ra tù rồi anh ấy
cũng sẽ vượt biên để tìm vợ con. Hình như nhiều
người muốn đi lắm phải không?
-
Hầu hết mọi người mà em gặp đều muốn ra đi.
Tân
tỏ vẻ lo sợ:
-
Nhưng nghe nói đi nguy hiểm lắm. Ghe thuyền thì nhỏ, biển
rộng mênh mông đầy sóng to cá dữ.
-
Nghe tin nhiều người đã chết nhưng người ta vẫn hăm
hở ra đi. Cái khẩu hiệu rất phổ biến ở miền Nam bây
giờ là: “Tự do
hay là chết”; còn
cái khẩu hiệu “Không
có gì quí hơn độc lập tự do”
từ ngoài Bắc đưa vô thì chẳng ai ưa. Nhiều người bảo
rằng nếu biết tình cảnh khắc nghiệt như thế nầy họ
đã nhất định xông ra mặt trận để liều chết giữ
lấy tự do cho miền Nam.
Tân
thở dài:
-
Trễ rồi, quá trễ rồi, tiếc nuối làm chi cho thêm buồn.
-
Lúc trước, khi đang còn chiến tranh, rất nhiều người
không hiểu rõ cuộc chiến đó. Họ ngây thơ nghe theo lời
tuyên truyền của cộng sản, tưởng rằng đó thực sự
là một cuộc chiến tranh giải phóng. Bây giờ thì người
ta mới hiểu rõ. Điều càng lạ lùng hơn nữa là không
phải chỉ có miền Nam tìm tự do mà miền Bắc cũng có
rất nhiều người đã ra đi. Em nghe nói ở nhiều tỉnh
ngoài đó, gần như hình thành một phong trào bỏ nước
đi tìm tự do vậy.
Tân
ngạc nhiên:
-
Em nói gì vậy? Người dân miền Bắc cũng vuợt biên ra
nước ngoài à? Tại sao bao nhiêu năm nay họ không chạy
vào Nam mà đợi bây giờ mới bỏ nước ra đi?
-
Có rất nhiều người đã tìm đường vào Nam chứ. Anh
không nhớ cả triệu người di cư sau hiệp định Genève
à? Rồi sau đó lai rai
vượt vĩ tuyến Mười bảy như anh Thảo và các người
khác.
-
Tuy nhiên, chỉ rầm rộ một thời gian thôi rồi im luôn.
-
Im là vì cộng sản đã ngăn cản được sự trốn đi.
Cũng như khi cộng sản Đông Đức xây bức tường ô nhục
chia hai Bá linh thì không còn có chuyện dân Đức vượt
biên tìm tự do ở phương Tây như thời kỳ trước nữa.
Ở miền Bắc Việt Nam, sau khi ngăn chận được rồi thì
cộng sản ra sức tuyên truyền, bưng bít, đe dọa. Những
người lớn tuổi có hiểu biết thì đành ngậm miệng và
chết dần đi, thanh niên mới lớn lên thì hoàn toàn mù
tịt, không còn biết đâu là sự thực nữa.
-
Cho đến khi hai miền thống nhất thì họ mới mở mắt
ra?
-
Dạ đúng vậy. Chưa hẳn là toàn dân đã mở mắt nhưng
nhiều người đã trông thấy đâu là sự thực, đâu là
giả dối. Chiếm được miền Nam quá nhanh, đảng và nhà
nước lúng túng không bưng bít kịp; trong Nam thì không
thể siết ngay được, ngoài Bắc thì buông lỏng phần
nào nên ý thức tự do từ trong Nam tràn ra Bắc như một
làn sóng.
Tân
ngạc nhiên:
-
Thùy Liên, tại sao em biết rành tình hình chính trị đến
thế?
Thùy
Liên cười:
-
Em đã giải thích với anh một hay hai lần rồi. Em đi
buôn bán có dịp tiếp xúc nhiều người. Trí thức miền
Nam bây giờ rất bực tức nên gặp ai chịu nghe là họ
sẵn sàng nói hết ý nghĩ của mình ra. Cũng đã có nhiều
người bị công an bắt vì ăn nói quá hăng mà không nhìn
trước nhìn sau cho kỹ. Những điều mà em mới trình bày
với anh là của anh Đức và anh Tấn, bạn của anh đó.
Thôi, hai con sắp dậy rồi .
-
Hôm nay em có đi đâu không?
-
Có đi một lát thôi và đi hơi trễ một chút cũng được.
Hôm nay, em đi thu mua hàng nhu yếu phẩm của vài gia đình
rồi mang ra cho mấy bà ngoài chợ.
Thùy
Liên chỉ vào cái túi vải treo lủng lẳng vào một cây
đinh đóng trên vách:
-
Dụng cụ hành nghề của em đó. Cho tất cả vào túi đó
mang lên vai rất gọn, đề phòng công an đuổi thì chạy.
Có khi em và người bán lẻ vừa chạy, vừa giao hàng, vừa
trao tiền. Chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa tư bản
nhiều lắm.
Tân
nhìn vợ, lắc đầu:
-
Ai mà ngờ được cảnh nầy. Cô y tá mỹ miều xưa kia
khi ra đường thì thong thả đếm bước để bọn con trai
và đàn ông nhìn ngắm mà bây giờ phải chạy trốn công
an để kiếm sống. Thùy Liên, anh sẽ nạp đơn để đi
dạy lại, nhưng ngay từ bây giờ, anh phải làm cái gì đó
để kiếm tiền chứ không thể để cho em bươn chãi mãi
thế nầy được.
Thùy
Liên cười thật tươi:
-
Rồi sẽ tính sau. Anh mới ra tù, cứ nghỉ ngơi cho khỏe
ít lâu đã. Em làm nghề nầy cũng chẳng có gì xấu xa.
Đảng và nhà nước gọi tụi em là cái bọn chợ trời
đáng khinh, nhưng em chẳng cần để ý đến luận điệu
của họ. Với cộng sản thì giá trị đạo đức bị đảo
lộn. Mình cứ làm bất cứ việc gì để kiếm sống miễn
đó không phải là chuyện bất lương và mình không tự
khinh mình là được rồi.
-
Anh nhất định tìm việc kiếm sống thay cho em. Anh đi gọi
hai con dậy nhé. Mấy giờ thì hai con vào trường?
-
Em muốn cho hai đứa nghỉ hôm nay để ở nhà chơi với
anh một ngày. Tội nghiệp, ròng rã ba năm trời rồi,
chúng nó rất thường hỏi em: “Chừng nào ba về?” Có
khi vừa nghe các con hỏi là em bật khóc ngay làm hai đứa
cũng khóc theo.
-
Các con học hành thế nào?
-
Em chẳng có thì giờ tìm hiểu các con học thứ gì nữa.
Nhưng em thấy các con thích đi học vì được các cô
thương lắm. Cả trường đều biết cha của chúng nó là
thầy giáo và sĩ quan chế độ cũ đang bị giam giữ nên
hai đứa được các thầy cô thương yêu vô cùng. Thấy
vậy nên em cũng yên tâm dành hết đầu óc mà lo kiếm
sống.
-
Tại sao thầy cô lại đặc biệt thương yêu con của sĩ
quan chế độ cũ. Thầy cô không phải là người của
cách mạng à?
-
Không, ngoài Bắc chỉ đưa được vào Nam một số người
để chỉ huy lãnh đạo thôi. Toàn bộ thầy cô giảng dạy
đều là người cũ của miền Nam. Cũng giống như thời
Pháp thuộc, thực dân chỉ đưa sang một số ông Tây bà
Đầm để chỉ huy còn các chức vụ nhỏ hơn thì giao cho
người bản xứ.
-
Người của Mặt trận Giải phóng đâu?
-
Mấy người trong rừng ra học hành bao lăm mà dạy được.
Tại vài nơi, lúc đầu cán bộ ngoài Bắc chưa vào kịp,
nên cũng phải cử người trong rừng ra cho đủ các chức
vụ lãnh đạo. Em có nghe người ta kể một chuyện thực
rất ngộ nghĩnh. Ở một huyện nọ, trưởng phòng giáo
dục là một học sinh cũ trong trường trung học tại chỗ,
nhiều năm trước phạm nhiều lỗi, lười học, đánh lộn
với bạn bè, hỗn láo với thầy cô nên bị đưa ra hội
đồng kỷ luật và bị đuổi học. Rồi nó vào khu và
sau ngày “giải phóng” thì về làm trưởng phòng giáo
dục, lãnh đạo tất cả các trường trong huyện. Các
thầy cô trước đã ở trong hội đồng kỷ luật nhận
ra cái ông trưởng phòng giáo dục nầy nên sợ quá bỏ
nghề hết.
Tân
cười:
-
Chuyện lạ trong chủ nghĩa xã hội, nói đến vài năm
cũng chưa hết. Kìa hai con dậy rồi.
Hai
đứa bé vừa dụi mắt vừa bước xuống và phóng đến
ôm cứng lấy cha.
Thùy
Liên bảo:
-
Hai con đi rửa mặt và đánh răng đi. Sáng nay, mẹ sẽ đi
mua thức ăn thực ngon về cho ba cha con ăn với nhau. Hôm
nay, hai con được nghỉ ở nhà chơi với ba, hai con có
thích không?
Hai
đứa reo lên:
-
Thích, thích lắm. Mẹ ơi!
Hòa
bình nói:
-
Ba ở nhà với con luôn đừng đi nữa nghe ba?
Tân
ôm con vào lòng chưa kịp trả lời thì Thùy Dung đã nói:
-
Ba ở nhà luôn, không đi nữa đâu. Ba đã học tập xong
và đã trở thành người công dân tốt rồi.
Thùy
Liên trừng mắt nhìn con:
-
Dung, con không được nói như vậy. Ba con bao giờ cũng là
một công dân tốt chứ không phải đi học tập về mới
thành công dân tốt. Mẹ cấm con không được nói như vậy
với ba con, nghe chưa?
Tân
vuốt tóc con gái, mỉm cười nói với vợ:
-
Thôi, em rầy la con làm gì? Có phải lỗi tại nó đâu.
Chắc chắn nhà trường đã nói với nó như thế thì nó
lặp lại thôi chứ đã biết suy nghĩ gì đâu.
-
Em vẫn biết như thế, người ta đã dạy cho những đứa
trẻ mạt sát những người lớn trong đó có cả cha của
chúng nó. Nghĩ tới điều đó, em chịu không nổi.
-
Thôi, phải chịu cho quen đi, em ạ.
Thùy
Liên không nói nữa. Nàng vui vẻ rửa mặt cho Hòa Bình
rồi đi mua thức ăn sáng.
Sau
bữa ăn, Thùy Liên ra khỏi nhà. Tân ngồi chơi với hai
con một lát rồi cởi trần ra dọn dẹp, lau chùi nhà cửa,
bàn ghế, bếp núc, sắp đặt mọi thứ thật ngăn nắp.
Đến
trưa Thùy Liên về, đứng ở cửa nhìn vào thấy nhà sạch
sẽ, sáng sủa và gọn gàng. Nàng bước vào, vuốt hai má
của chồng, giọng dịu dàng:
-
Anh giỏi lắm. Trong một buổi sáng mà nhà trông lạ hẳn
ra.
Nàng
vừa cười vừa nói tiếp:
-
Đây là tổ ấm của mình nhưng vắng anh thì tổ ấm trở
thành tổ quạ. Nay anh về rồi thì quạ phải bỏ đi để
cho tổ quạ lại trở thành tổ ấm.
Tân
mỉm cười sung sướng vì được vợ khen. Anh nói đùa:
-
Anh đã được cải tạo rồi mà.
Thùy
Liên phụng phịu:
-
Anh Tân, em không thích nghe cái từ cải tạo đó đâu.
Người trí thức miền Nam trước đây xấu lắm sao mà
phải cải tạo. Gọi là tẩy não thì đúng hơn. Họ vào
đây và bất cứ từ nào nói về miền Nam cũng đều có
tính chất vu khống và mạ lỵ, kể cả cái từ “giải
phóng” nữa. Miền Nam có bị ai áp bức đâu mà miền
Bắc phải vào đây để giải phóng?
Tân
cười:
-
Hơn ba năm rồi mà em chưa quen với những từ vu khống và
mạ lỵ đó sao?
-
Chỉ quen được khi ra đường thôi. Về đến nhà thì
không thể nào quen được. Cả bầu không khí miền Nam
nầy đã bị hoen ố vì Hà nội bôi nhọ. Em phải giữ
cho cái không gian nhỏ bé trong nhà nầy được tinh khiết.
Tân
tiếp tục cười:
-
Anh đã được tẩy não ba năm trời, thế mà chỉ mới
sống với em có mười bốn giờ đồng hồ thì cuộc tẩy
não vĩ đại đó chẳng còn tác dụng gì nữa. Không khéo
lại phải đi tẩy lần nữa.
Hai
vợ chồng cười to làm cho hai đứa bé đang ngồi chơi
dưới đất ngẩng lên nhìn một cách ngạc nhiên. Thùy
Liên nói:
-
Công việc em xong cả rồi. Bây giờ em đi làm cơm và rảnh
rỗi suốt chiều nay. Anh có muốn đi thăm các đường phố
Sài gòn không?
-
Không, anh không đi đâu cả. Anh ở nhà với em và các
con.
Tân
im lặng để ôn lại chuyện xưa rồi nói tiếp:
-
Anh nhớ cách nay hai mươi năm, anh được phóng thích từ
khám Tân hiệp ở Biên hòa trở về. Lúc đó anh thèm đi
lang thang khắp mọi đường phố Sài gòn. Thành phố nầy
là quê hương vô cùng thân yêu của anh, xa cách nó, anh
thương nhớ vô ngần. Bây giờ, cái quê hương thân yêu
đó được rút lại hết sức nhỏ bé, chỉ còn là gian
nhà nầy mà thôi. Nơi đây quá đủ để cho anh hạnh
phúc, chẳng cần phải đi đâu nữa. Tuy nhiên, anh cần
đến thăm anh Vinh. Anh mong gặp mặt anh Vinh lắm.
-
Phải hơn sáu giờ chiều, anh chị ấy mới có mặt ở
nhà. Nhưng còn phải để cho hai anh chị và hai cháu tắm
rửa và ăn cơm tối. Khoảng bảy giờ rưỡi mình đến
là vừa.
-
Mình đến đó bằng cách nào em nhỉ? À, chiếc xe gắn
máy của anh đâu rồi?
-
Em đem qua gởi ở nhà bác Sáu Tính rồi. Nhà mình chật
hẹp, lại có lúc chứa đầy hàng hóa buôn bán của em
nên phải gởi xe nhà khác. Bây giờ dân chỉ đi xe đạp,
vì không mấy ai có đủ tiền mua xăng. Chỉ có cán bộ
mới đi xe gắn máy vì họ có tiêu chuẩn được cấp
xăng hoặc mua rất rẻ.
Tân
thở dài:
-
Bài học chính trị thì bảo rằng cách mạng giải phóng
dân nghèo nhưng khi thành công rồi thì mọi thứ hưởng
thụ đều dành cả cho cán bộ đảng viên. Họ hợp thành
một giới ăn trên ngồi trốc của xã hội.
-
Đúng vậy, trước đây, em đọc sách, thấy nói đến
giai cấp nhưng không rõ lắm vì miền Nam không có giai
cấp. Bây giờ thì xã hội phân thành hai giai cấp quá rõ
rệt. Đành chịu vậy. Em cũng sẽ tìm mua cho anh một xe
đạp cũ như của em để có thể đi lại. Có xe đạp rồi
mới thấy rằng những thứ quá tầm thường trong xã hội
cũ như vỏ ruột và đồ phụ tùng bây giờ cũng phải
mua chợ đen. Nhà máy sản xuất được bao nhiều cũng
dành bán rẻ cho cán bộ rồi họ bán lại cho dân chúng
để kiếm lời. Chủ nghĩa xã hội thực là lạ lùng. Ước
chi miền Nam mình sống trở lại với tư bản chủ nghĩa
như cũ anh nhỉ.
-
Thì rồi cũng đến lúc đó thôi, chứ cứ xã hội chủ
nghĩa mãi thế nầy thì dân chúng chết và bỏ trốn hết,
cuối cùng chỉ còn cán bộ đảng viên sống với nhau
thôi. Nhưng chuyện đó còn lâu lắm, không biết anh với
em còn sống được đến ngày người ta bỏ chủ nghĩa xã
hội đi không.
*
*
*
Sau
bữa cơm chiều, Thùy Liên đi mượn thêm một chiếc xe
đạp nữa rồi hai vợ chồng chở hai đứa con đến nhà
anh Vinh, một biệt thự khá to ở đường Cao Thắng. Thùy
Liên rung chuông, một cậu con trai bước ra, nhìn qua khe
trông thấy Thùy Liên thì mở cổng. Thùy Liên khẽ hỏi:
-
Có bố mẹ ở nhà không?
Nó
không trả lời mà gật đầu. Thùy Liên quay sang nói nhỏ
với Tân:
-
Con anh Vinh đó.
Tân
định bước đến ôm lấy nó, nhưng nó đã lạnh lùng
quay vào nhà. Hai vợ chồng và hai đứa con bước vào
theo. Tân nghe giọng nó nói:
-
Bố, có cô Liên đưa chú nào đến.
Một
người đàn ông đang đọc báo trên ghế xếp, bật dậy.
Tân khẽ thốt lên:
-
Anh Vinh!
Tân
bước nhanh đến nắm chặt lấy hai cánh tay của anh, lặp
lại với giọng run run:
-
Anh Vinh, em đây, thằng Tân của anh đây!
Vinh
nhìn sững em mình. Đôi mắt anh bỗng nhắm lại vài giây
rồi mở bừng ra:
-
Chú Tân đây à? Trời ơi, thằng Tân bé nhỏ của tôi bây
giờ đã thế nầy rồi à?
Anh
đứng dang ra, nhìn Tân từ đầu đến chân, rồi gật
đầu:
-
Phải rồi, hai mươi lăm năm rồi. Anh lẩm cẩm quá đi
mất, lúc nào cũng tưởng chú vẫn còn là một đứa bé
tinh nghịch, ôm cặp nhảy nhót trên con đường đến
trường. Chú về hồi nào vậy?
-
Dạ, em về đến nhà chiều hôm qua. Suốt ngày nay, lúc
nào cũng muốn đến gặp anh nhưng biết rằng anh chị đều
đi làm cả.
Anh
Vinh gật đầu:
-
Vâng, đúng vậy, anh chị đi làm từ sáng đến chiều.
Anh
quay mặt vào phía trong và gọi to:
-
Này, mẹ nó ơi, chú Tân đi học tập về đến thăm nầy.
Có cả cô Liên và hai cháu nữa.
Có
tiếng dép lẹp xẹp rồi một người đàn bà xuất hiện
ở khung cửa. Thùy Liên nói to:
-
Chào chị ạ.
Nàng
quay sang chồng:
-
Chị Vinh đó.
Tân
ấp úng:
-
Thưa chị.
Người
đàn bà nói giọng Bắc the thé:
-
Chú Tân đấy à? Tôi thường nghe anh Vinh nhắc đến chú
luôn, bây giờ mới biết chú. Gớm, hai anh em giống nhau
thế. Anh em được gặp nhau, gia đình được sum họp rồi
thích nhỉ.
Anh
Vinh nói to:
-
Thì cũng phải cám ơn đảng ta đã khoan hồng cho người
có tội lại còn nuôi dưỡng và cho học tập đến nơi
đến chốn. Phải không chú Tân?
Tân
cảm thấy rất khó chịu nhưng anh cố gắng mỉm cười:
-
Dạ phải.
Chị
Vinh nói với Thùy Liên:
-
Thế, cô Liên dạo nầy buôn bán ra sao?
-
Dạ cũng khó khăn lắm. Em cũng muốn bỏ không buôn bán
nữa nhưng phải đợi anh Tân có công việc làm mới bỏ
được. Ngày mai anh ấy đi nạp đơn ở sở giáo dục để
xin đi dạy lại.
Chị
Vinh gật đầu:
-
Ừ phải rồi. Làm thế là đúng đấy. Với chủ nghĩa xã
hội, làm công nhân viên nhà nước là tốt nhất, buôn
bán lăng nhăng không hợp với chủ trương đường lối
của đảng ta đâu. Rủi bị địa phương để ý, bắt
phải đi vùng kinh tế mới thì khổ. Chú Tân cứ xin đi
dạy lại. Đảng ta rất khoan hồng, dù là sĩ quan ngụy
nhưng biết cãi tà qui chánh, từ bỏ tội lỗi thì cũng
được sử dụng lại. Hơn nữa, đối với chủ nghĩa xã
hội, giáo viên được ưu đãi lắm. Ngoài Bắc, mỗi giáo
viên, mỗi tháng được nhà nước bán thêm một kí đường
để bồi dưỡng.
Thùy
Liên liếc nhìn thấy vẻ mặt Tân hơi biến đổi, nàng
biết chồng đang chịu đựng sự bực bội và lo sợ anh
không tự chế được mà nói ra câu nào đó làm mất lòng
chị dâu thì nguy. Nàng vỗ nhẹ vào tay Tân và nói to, cốt
ý nhắc nhở chồng:
-
Anh Tân, chị Vinh khuyên anh như thế là có lòng tốt với
gia đình mình lắm đó. Chị Vinh là cán bộ ngoài Bắc
vào nên rất rõ chủ trương, chính sách của cách mạng.
Vợ chồng mình nên nghe theo lời khuyên của chị.
Tân
im lặng gật đầu.
Hai
người đàn bà quay sang nói chuyện với nhau trong khi hai
anh em ngồi im như lắng tai nghe. Tân cảm thấy mỗi lúc
một khó chịu hơn. Anh móc thuốc ra mời anh Vinh rồi châm
lửa hút, nhìn theo từng bụm khói mà mình nhả cho bay lên
trần nhà, lắng nghe nỗi buồn len lỏi trong lòng. Suốt
ngày nay, anh cứ tưởng tượng lúc gặp mình, anh Vinh sẽ
ôm chặt vào lòng như khi còn bé. Hai anh em sẽ tíu tít kể
cho nhau nghe bao nỗi nhớ nhung của mấy chục năm xa cách.
Thế mà, bây giờ anh ngồi đây, trước mặt anh mình
trong một không khí nhạt nhẽo vô vị, đầy phiền muộn.
Tân đứng dậy, nói to:
-
Vợ chồng em thăm anh chị và các cháu. Bây giờ chúng em
xin phép ra về.
Chi
Vinh đon đả:
-
Ngồi chơi đã nào, về gấp thế.
Tân
nhìn đồng hồ:
-
Thôi, chúng em xin về để anh chị nghỉ. Thùy Dung, Hòa
Bình, hai con chào hai bác để về đi.
Hai
đứa bé vòng tay một cách lễ phép. Tân đứng dậy nhìn
sâu vào cửa thông bên trong, hi vọng trông thấy hai đứa
con anh Vinh để nhìn cho rõ mặt cháu mình nhưng chẳng
thấy đâu cả nên đành bắt tay anh, cúi đầu chào chị
dâu rồi quay ra cửa.
Về
đến nhà, Tân mở vội cửa, dẫn xe vào, bật đèn sáng
lên rồi ngồi phịch xuống ghế, nét mặt buồn bã. Thùy
Liên đến ngồi kế bên chồng:
-
Sao trông anh buồn vậy?
Tân
thở dài:
-
Hơn hai mươi năm sống với chủ nghĩa xã hội, anh Vinh đã
biến đổi quá nhiều. Tình cảm ruột thịt ngày xưa
chẳng còn được bao nhiêu nữa.
Thùy
Liên nắm tay chồng đặt lên đùi mình:
-
Không, anh đừng nghĩ như vậy. Anh Vinh vẫn còn thương
anh nhiều lắm. Em biết chắc chắn như vậy, nhưng trước
mặt vợ thì anh Vinh có một thái độ khó hiểu, hình như
không đúng với bản chất của anh ấy.
-
Anh không ngờ chị Vinh xấu như thế.
-
Thì em đã nói với anh rồi và anh đã nói sắc đẹp
không liên can gì đến hạnh phúc gia đình mà. Có lẽ vì
vậy mà anh đi tìm lấy cho được cô vợ xấu xí là em
đây nầy.
Tân
liếc nhìn không thấy hai con nên hôn nhanh vào mắt vợ:
-
Em mà xấu xí thì thế gian nầy chẳng còn ai đáng gọi
là được mắt nữa.
Hai
vợ chồng cười xòa; không khí gia đình trở lại vui
tươi đầm ấm.
*
*
*
Vài
hôm sau, Thùy Liên mua được một chiếc xe đạp cũ, thuê
xích lô chở về. Nàng nói với chồng:
-
Chị bạn bán rẻ cho em đó. Xe của chồng chị ấy vừa
vượt biên xong, có tin đánh về là tàu đã cặp vào đất
liền rồi. Chị ấy bảo xe còn khá, đồ phụ tùng tốt
nhưng phải sửa lại chút đỉnh mới đi được. Anh đưa
ra ông thợ sửa xe, trên vệ đường ở cổng cư xá Đô
thành. Ông ấy tay nghề khá, lại tận tâm nên lúc nào
cũng đông khách. Xe hư là em đưa ra giao cho ông ấy sửa,
rất yên tâm.
-
À, anh nhớ rồi, có thể đó là ông Cung, anh ruột của
anh Kính. Kính là một người bạn thân của anh trong trại
lúc còn ở Tây ninh. Ông Cung nầy là trung sĩ cũ về sửa
xe ở Long an, bị bắt vào hợp tác xã, không sống được
nên dắt vợ con trốn về đây để kiếm sống. Gia đình
ông ấy đang ở nhờ nhà vợ của anh Kính trong cư xá Đô
thành. Ngày mai, anh đưa xe ra đó và hỏi xem có đúng là
ông Cung hay không.
Sáng
hôm sau, khi vợ và hai con đã ra khỏi nhà, Tân khóa cửa
lại và dẫn xe ra đường, băng qua cư xá Đô thành, ra
đường Phan Thanh Giản nay đổi tên là Điện biên Phủ.
Anh gặp ngay người thợ sửa xe muốn tìm. Đó là một
người đàn ông khoảng hơn bốn mươi tuổi, có dáng khỏe
mạnh, nét mặt hơi giống anh Kính nhưng vui vẻ yêu đời
hơn. Ông ta loay hoay làm việc, bên cạnh có một đứa bé
độ mười hai tuổi phụ giúp. Mới buổi sáng mà khách
đã đông, một chiếc đang sửa, hai chiếc dựng kế bên.
Ba người khách, một đàn ông và hai đàn bà đứng nhìn
có vẻ sốt ruột.
Thấy
Tân đến, ông thợ ngước lên:
-
Ông đợi một tí được không? Phải làm cho xong ba chiếc
nầy trước. Cũng nhanh thôi, hư sơ sơ ấy mà. Nếu gấp
thì xin ông dẫn đến góc đường Cách mạng Tháng Tám
vậy.
Người
khách đàn ông góp ý:
-
Nếu không gấp thì ông nên đợi sửa ở đây hay hơn.
Bác nầy làm kỹ lưỡng lại ăn công rẻ hơn nơi khác.
Tân
gật đầu:
-
Vâng, tôi đợi vì không phải đi đâu gấp.
Ba
chiếc xe lần lượt sửa xong, các chủ nhân của chúng
vội trả tiền rồi đạp đi. Ông thợ đẩy xe của Tân
vào dựng lên, bắt đầu quan sát rồi ngẩng lên nói:
-
Trục bánh sau cần thay đạn, dây sên dãn chặt bớt một
mắc thì dùng thêm một thời gian nữa cũng được. Thế
thôi, làm độ mươi phút là xong. Nhưng dù sao hôm nay ông
cũng bị trễ giờ đi làm rồi.
-
Không, tôi ở nhà chẳng đi làm gì cả.
Ông
thợ gật đầu:
-
Nếu có của mà ăn thì ở nhà sướng cái thân. Thời
buổi nầy đi làm công nhân khổ lắm. Cách mạng bảo
rằng đã dẹp bỏ cảnh người bóc lột người ở chế
độ cũ. Trước đây, người bị bóc lột lại đủ sức
nuôi vợ nuôi con. Còn bây giờ, người hết bị bóc lột
mà không tự nuôi sống được, nói chi đến vợ con. Cứ
như tôi đây, trông lem luốc trên lề đường mà sống
được.
Tân
dọ hỏi:
-
Có phải ông là dân ở tỉnh lên đây lập nghiệp không?
Ông
thợ vừa tháo bánh xe vừa cười:
-
Sao ông đoán hay vậy? Tôi ở tỉnh lên.
-
Long an phải không?
Ông
thợ dừng tay nheo mắt nhìn Tân:
-
Sao ông biết, ông là người dưới đó à?
Tân
lắc đầu, hỏi tiếp:
-
Ông bỏ hợp tác xã dưới đó lên đây phải không?
Người
thợ biến sắc đứng thẳng lên, nắm chặt chiếc kềm
trong tay. Giọng ông hơi run:
-
Ông là ai? Ông đi sửa xe hay tìm tôi có việc gì?
Tân
thấy tức cười trong bụng nhưng anh cố giữ vẻ nghiêm
nghị:
-
Tôi hỏi ông chưa trả lời lại hỏi ngược lại tôi là
ai. Được rồi, nghe đây, tôi là tôi, còn ông bỏ hợp
tác xã ở Long an lên đây phải không?
Người thợ cúi mặt nhìn
xuống đất:
-
Thưa ông, cực chẳng đã tôi mới phải từ giã hợp tác
xã lên đây. Ở dưới đó không đủ gạo cho vợ con tôi
ăn chớ tôi không có ý gì xấu đối với hợp tác xã.
-
Ông tên Cung phải không?
Người
thợ ngẩng lên, măt tái đi rõ rệt:
-
Vâng thưa ông tôi là thằng Cung đây.
-
Ông trốn lên đây ở nhờ nhà em dâu?
-
Trời đất, ông biết rõ đến thế à? Ông là ai?
Người
thợ mím môi, một nét liều lĩnh và cam chịu hiện lên
trong đôi mắt:
-
Thôi tôi biết rồi. Ông là công an phải không? Ông theo
dõi tôi từ lâu phải không?
Có
một người dẫn xe hư tới. Người thợ quay ra bảo:
-
Xin bà dẫn lại đằng kia để sửa. Tôi bận không làm
được.
Tân
ngăn lại:
-
Không, ông cứ làm việc bình thường.
Người
thợ cương quyết:
-
Bà mang lại chỗ khác đi. Tôi không nhận đâu.
Người
đàn bà dẫn xe đi. Ông thợ quay sang Tân, tiếp tục nói:
-
Thưa ông, tôi không có tội gì cả. Tôi bỏ hợp tác xã
vì không sống được. Vợ con tôi có nguy cơ chết đói
thì làm sao tôi có thể ngồi yên mà nhìn. Xin ông hiểu
cho, tôi là trung sĩ chế độ cũ, tôi hiểu thân phận tôi
nên chỉ lo làm việc nuôi vợ con chứ không làm điều gì
có hại cho cách mạng.
-
Tại sao ông không xin phép mà bỏ hợp tác xã trốn đi?
-
Thưa ông, tôi biết xin phép thì không bao giờ hợp tác xã
cho tôi đi vì thằng Ký làm việc chung với tôi chẳng
rành công việc mà lại ham uống rượu. Không có tôi,
chẳng ai thèm đem xe đến cho nó sửa. Vì vậy đời nào
hợp tác xã cho tôi ra đi. Nhưng mà tôi đâu có trộm cắp
gì của hợp tác xã. Tất cả dụng cụ trong điểm sửa
xe đều là của tôi, hợp tác xã chưa mang một thứ nào
đến cả. Khi đi, tôi chỉ mang theo một ít kềm búa còn
để lại nhiều thứ quí giá hơn cùng với cái nhà do
chính tiền của và công sức tôi dựng nên. Thế thì tôi
có tội gì đâu?
Tân
thấy đùa với con người đáng thương nầy như thế đã
quá đủ. Anh vỗ vai người thợ:
-
Anh Cung, có ai bắt tội anh đâu?
Cung
ấp úng:
-
Tôi…tôi không có tội? Đúng vậy. Thế thì ông theo dõi
tôi để làm gì?
-
Anh Cung, có ai theo dõi anh đâu?
-
Thế tại sao ông biết rõ tôi trốn hợp tác xã lên đây
mà đến tra vấn tôi?
-
Có ai tra vấn anh đâu? Tôi chỉ hỏi để tìm nhà người
quen thôi mà.
Cung
nhìn Tân sửng sốt:
-
Ông không phải công an à? Vậy thì ông là ai? Muốn tìm
nhà ai?
-
Tìm nhà anh Kính.
Cung
thối lui một bước:
-
Kính nào?
-
Kính sĩ quan chế độ cũ, em ruột của anh.
-
Hả, hả? Nó tuân lệnh ủy ban quân quản đi trình diện
học tập từ lâu rồi. Nó đã làm cái gì đó phải
không? Đúng, tôi là anh ruột nó, nhưng tội ai làm nấy
chịu. Tôi không liên can gì cả.
Tân
cười:
-
Có ai bảo anh liên can gì đâu? Anh Kính cũng chẳng làm
điều gì phi pháp. Anh ấy là người rất tốt.
Cung
nhìn sững vào mắt Tân:
-
Ông nói thực đó chứ?
-
Sao lại không thực? Tôi nói dối với anh để làm gì?
-
Vậy ông là ai? Có phải công an chìm không?
-
Không. Ngược lại, tôi là sĩ quan chế độ cũ, đi học
tập cải tạo trở về. Tôi ở chung với anh Kính một
thời gian ở trại Đông bang Tây ninh. Chúng tôi rất thân
nhau.
Cung
thối lui một bước, niểng cổ nhìn Tân từ đầu đến
chân. Đôi mắt Cung như đổi từ màu nghi ngờ và sợ
hãi sang màu tin cẩn và hân hoan. Bỗng anh cúi gập người
xuống vừa cười vừa nói:
-
Trời hỡi trời! Đúng là phe ta rồi. Thế mà cứ tưởng
là công an đến điều tra.
Cung
chỉ vào một khúc cây ngắn dựng đứng:
-
Ngồi xuống đó đi người anh em ơi. Mừng quá là mừng!
Đây, có hai điếu thuốc đầu lọc bạn bè cho để dành
từ chiều hôm qua, bây giờ mang ra đãi phe ta mới được.
Cung
moi trong túi áo ra một gói nhỏ, cẩn thận bóc ra hai lớp
giấy bao, lấy hai điếu thuốc trao cho Tân một điếu rồi
bật quẹt lửa lên. Cung nói một cách vui vẻ:
-
Hút đi phe ta. Phe ta tên gì?
-
Tên Tân, trước là trung úy bộ binh, biệt phái về bộ
giáo dục.
-
Hay lắm, phe ta mà khi nãy tưởng công an, sợ hết hồn.
Tân
cười:
-
Tại sao anh có vẻ sợ công an như thế?
-
Công an thì ai mà chẳng sợ.
-
Nhưng kẻ nào có tội thì mới sợ chứ.
-
Cách mạng về đây rồi thì mọi người miền Nam, ngoại
trừ những người hoạt động cho Việt cộng, đều có
mặc cảm có tội đối với cách mạng. Tài liệu học
chính trị đã gây nên mặc cảm đó.
-
Nhưng mà tội gì mới được chứ.
Cung
mỉa mai:
-
Tội không theo cách mạng mà theo ôm chân đế quốc Mỹ,
vì vậy ai nghe nói tới công an cũng lạnh xương sống.
-
Nhưng công an có hay bắt bớ không?
-
Cũng tùy. Nếu bị tố cáo phản động, chống chế độ
là bị bắt ngay, không cần bằng chứng. Vì vậy nghe ở
đâu đó có hoạt động chống cách mạng là công an rần
rần rộ rộ, súng ống xe cộ kéo đến trấn áp.
-
Còn những tội khác như trộm cướp thì sao?
Cung
bỉu môi
-
Thì mấy ông công an cứ từ từ uống cà phê hay nhậu
xong rồi mới thủng thẳng đến. Có khi không đến rồi
bỏ luôn. Có những việc rất nghiêm trọng mà ngày xưa
mình gọi là tội đại hình như cướp của, giết người,
hiếp dâm, công an cũng xem thường. Họ chỉ chú ý tới
phản động, nghĩa là tội chống lại chế độ thôi. Mà
cái tội đó thì người dân hiền lành cách mấy cũng có
thể là đối tượng để công an nghi ngờ và theo dõi.
Rồi họ rải điềm chỉ khắp nơi làm cho người nầy
phải sợ người kia.
-
Điềm chỉ ở đâu cho có nhiều mà họ rải khắp nơi?
-
Điềm chỉ là dân. Ai cũng có thể bị họ đến giao
nhiệm vụ. Biết là làm công việc chó săn khốn nạn
nhưng không ai dám từ chối.
Tân
cười nhìn thẳng mặt Cung:
-
Anh có bị giao không?
-
Có chứ sao không? Ở Tân an, họ bảo tôi dò xét người
đến sửa xe rồi họ cho tôi địa chỉ để đến báo
cáo nếu thấy có sự gì đáng nghi ngờ.
-
Còn lên đây?
-
Chưa thấy, nhưng rồi thế nào mấy ông cũng mò tới nếu
biết mình là người của chế độ cũ. Khi nãy nghe phe ta
hù, tôi nghĩ là công an đến bắt hoặc tổ chức điềm
chỉ.
-
Ở dưới Long an, anh thi hành nhiệm vụ cho họ được mấy
lần rồi?
Cung
lắc đầu:
-
Thi hành cái con mẹ gì. Mình đâu phải cái hạng người
đi làm việc ác đức đó. Còn phải nghĩ sau khi chết sẽ
gặp mặt ông bà dưới suối vàng nữa chớ. Đi điềm
chỉ và tố cáo người khác thì thế nào cũng bị ông bà
vặn họng cho đến chết.
-
Công an đi tổ chức người điểm chỉ thì có tội nặng
hơn, sao không thấy ông bà vặn họng ai cả?
Cung
cười:
-
Có lẽ vì công an có súng nên ông bà không dám đến gần.
Hì hì. Ông bà mình cũng sợ bị chụp mũ phản động lắm
chứ. Hì hì. Thôi, phe ta ngồi chơi một chút để tôi sửa
cho xong cái xe trước đã. Kìa có khách dắt xe đến sửa
đó. Tối nay anh đến nhà tôi chơi nhé. Tôi cần hỏi
thăm đời sống của thằng em tôi trong trại cải tạo.
Vợ thằng Kính cũng cần gặp anh lắm đó.
-
Vâng, tôi sẽ đến. Anh Kính chưa được trả tự do à?
-
Chưa. Thấy có nhiều người về rồi mà nó vẫn chưa
được tha. Có lẽ nó là đại úy hay bị quản giáo trong
đó trù dập vì lý do nào đó. Vợ nó đang lo lắng. Nghe
thím ấy nói nó đang ở trên trại Bù gia Phúc. Anh cũng ở
trên đó về phải không? Nó bị trù dập thế nào?
-
Chúng tôi chỉ ở chung trong trại Đồng bang Tây ninh. Sau
đó tôi lên Phước long trước và không gặp anh Kính nữa.
-
Tối nay anh nhớ đến nhà tôi chơi nhé.
-
Vâng, tôi có địa chỉ nhà anh Kính. Anh vẫn còn ở nhà
anh ấy chứ?
-
Còn ở đó. Tôi định mua một căn nhà nho nhỏ ở chợ
Vườn chuối, để khi thằng Kính về thì tôi dọn đi.
Nhiều người bỏ về quê hay đi vùng kinh tế mới nên
bây giờ, nhà rẻ lắm. Tuy vậy tôi đang lưỡng lự về
việc mua nhà, vì còn dự định khác.
Xe
đã sửa xong, Tân trả tiền, Cung nhất định không lấy
nên Tân đành lên xe đạp về.
Anh
mở cửa vào nhà, cởi áo quần, mặc quần ngắn, tiếp
tục dọn dẹp, lau chùi nhà cửa, giặt thau áo quần dơ
rồi lục ra một quyển sách nằm đọc. Gần trưa, Thùy
Liên về, dẫn cả hai con vào nhà. Tân ôm hôn hai con rồi
quay sang vợ:
-
Sáng nay em đi có được việc không?
Thùy
Liên cười thực tươi:
-
Cũng như mọi hôm vậy.
Nàng
bỗng đến gần Tân, nắm tay chồng, nói nhỏ:
-
Anh Tân, mấy hôm nay, ai cũng khen em trẻ và đẹp ra. Họ
nói tại anh được về với em. Anh Tân, em như cái cây,
được anh về tưới nước.
Nàng
cười, mặt hồng lên trông thực đáng yêu. Tân thèm cúi
xuống khuôn mặt đó nhưng vì có mặt hai con nên thôi.
Thùy
Liên hỏi:
-
Sáng nay anh ở nhà làm gì? Sửa xe xong chưa?
-
Xong rồi. có chuyện vui lắm?
-
Chuyện dài hay ngắn?
-
Khá dài.
-
Vậy thì anh cho em đi tắm rửa rồi lo làm cơm trước đã.
Anh đói bụng rồi phải không? Hai con cũng đói rồi.
-
Còn em?
-
Anh về đây là em chằng cần ăn cũng được. Nhìn anh là
đủ no rồi. Thôi, anh rửa ráy và thay áo quần cho Hòa
Bình đi. Chốc nữa xuống bếp, em nấu ăn, anh kể cho em
nghe chuyện vui của anh.
Nàng
nói xong, đi xuống nhà dưới.
Không
bao lâu sau, lửa trong bếp bắt đầu reo vui. Tân ngồi bên
chiếc bàn nhỏ, phì phà điếu thuốc một cách thoải
mái.
Thùy
Liên bắc nồi cơm lên bếp rồi quay lại:
-
Bây giờ, anh nói chuyện cho em nghe được rồi.
Tân
kể cho vợ nghe chuyện đến gặp anh Cung làm anh hoảng sợ
vì tưởng Tân là công an. Thùy Liên ôm bụng cười ngất.
Tân nói tiếp với vợ:
-
Anh định đùa giỡn một chút chứ hoàn toàn không ngờ,
bây giờ người dân sợ công an đến thế. Ngày xưa, mình
có bao giờ quan tâm đến mấy ông cảnh sát đâu.
Thùy
Liên gật đầu:
-
Công an bây giờ đáng sợ hơn cảnh sát ngày trước rất
nhiều. Quyền hành của công an của chế độ nầy to hơn
cảnh sát chế độ cũ nhiều lắm. Em nghe nói không phải
chỉ dân thôi đâu mà cán bộ cũng sợ công an lắm. Hôm
nọ em đến thu mua hàng nhu yếu phẩm tại nhà cán bộ
cao cấp. Cả hai vợ chồng đều do đảng cử vào công
tác luôn trong Nam như anh chị Vinh vậy. Thế mà công an
cũng hành hạ hai ông bà ấy đủ điều rồi mới cho
chuyển hộ khẩu vào trong nầy. Hình như ông bà ấy phải
chịu mất tiền.
Tân
sửng sốt:
-
Trời đất ơi, sao lạ lùng vậy? Trước đây, trong chế
độ cũ, công chức thay đổi nhiệm sở từ vùng nầy
sang vùng kia thì chỉ cần thông báo cho cảnh sát hai nơi
là họ làm tờ khai gia đình cho mình ngay và có người
mang đến tận nhà.
-
Anh còn nhắc đến thời hoàng kim đó làm chi nữa.
-
Nhưng tại sao em biết cán bộ cao cấp cũng phải mất
tiền cho công an?
-
Họ không nói rõ nhưng em thấy thái độ hậm hực cùng
câu than thở của bà: “Chuyện gì cũng phải xì tiền ra
thì mới êm”. Em đoán họ bị công an ăn tiền rồi.
-
Vậy à? Tởm nhỉ? Không biết anh chị Vinh vào Nam có bị
mất tiền không?
Thùy
Liên cười:
-
Mất sao được? Chị Vinh là con của một ông lãnh đạo
công an ngoài Bắc, ngang hàng với thứ trưởng chứ ít
đâu.
Tân
ngạc nhiên:
-
Thực vậy à?
-
Sao lại không thực? Chính anh Vinh nói với em trong lần
đầu tiên gặp em mà.
-
Nhưng sao lúc thăm anh ở Tây ninh em không nói kỹ điều
nầy cho anh rõ?
-
Em thấy nói chẳng ích lợi gì mà còn làm vẫn đục tình
thương của anh đối với anh Vinh. Trong thời gian anh đang
bị đau khổ vì mất tự do, em muốn dành cho anh tất cả
những gì tốt đẹp nhất về mặt tình cảm.
-
Cám ơn em. Em là nàng tiên mà trời phái xuống cho anh như
trong những chuyện cổ tích vậy.
Tân
ngồi im một phút rồi nói tiếp:
-
Anh không hiểu tại sao đảng lại cho công an quyền hạn
to như thế?
Thùy
Liên quay lại:
-
Anh không hiểu thực sao? Em hiểu.
-
Hiểu thế nào, nói anh nghe.
-
Chế độ độc tài nào cũng sợ dân chúng nổi loạn nên
phải có cơ quan an ninh thực mạnh để bảo vệ cho thể
chế độc tài của họ. Thí dụ, Liên xô có KGB,
phát xít Đức có Gestapo,
Việt Nam có công an mật vụ.
-
Mỹ có FBI?
Thùy
Liên lắc đầu:
-
FBI
của Mỹ thì khác hẳn. Cơ quan đó chẳng có quyền hạn
gì đối với dân thường và chính quyền. Dân không sợ
FBI,
trái lại còn thương nữa. Anh không nhớ sao? Lúc trước,
FBI
còn không có quyền mang súng, bị bọn tội phạm giết
chết nhiều quá mới được trang bị vũ khí, thực là
đáng thương.
-
Thùy Liên, một lần nữa em lại chứng tỏ hiểu biết
rất nhiều về chính trị, đặc biệt về chủ nghĩa xã
hội.
-
Em đã giải thích cho anh nghe rồi. Đi mua bán nên em thường
gặp mấy bà cán bộ hay vợ cán bộ. Họ có cảm tình
với em nên thường nói thực, chứ không nói theo kiểu
tuyên truyền. Ngay trong hàng ngũ cán bộ đảng viên cũng
có rất nhiều người chẳng ưa gì chủ nghĩa xã hội
nhưng vì đặc quyền đặc lợi mà đảng cho họ hưởng
nên họ buộc phải trung thành với đảng và với chủ
nghĩa xã hội.
Cơm
vừa chín. Tân giúp vợ soạn chén bát. Cơm và thức ăn
được Thùy Liên đưa ra. Tân gọi hai con xuống ngồi vào
bàn. Đang ăn, Tân dừng đũa, nói với vợ:
-
Nhìn thấy anh Cung sửa xe, anh cũng thích nên có ý muốn
bắt chước anh ấy.
Thùy
Liên trố mắt:
-
Bắt chước đi sửa xe hả? Nhưng anh đã có sửa bao giờ
đâu?
-
Sao không? Trước đây, lúc còn đi học, xe đạp anh hư
thì tự sửa lấy, không bao giờ đưa đến cho thợ.
-
Thôi, em không thích anh ra ngồi ngoài đường, chịu nắng
chịu gió đâu, tội anh lắm.
-
Anh chỉ mới có ý nghĩ thế thôi vì nóng ruột muốn làm
ngay việc gì đó để đỡ đần cho em. Thấy em phải tảo
tần suốt ngày, anh xót lòng, xót dạ lắm. Tuy nhiên, muốn
mở ra một điểm sửa xe đâu phải là dễ. Phải có khá
nhiều dụng cụ và một số đồ phụ tùng để thay thế
cho khách. Mình đâu sẵn có những thứ đó.
Tân
dừng lại một chút rồi nói tiếp:
-
Anh Cung mời anh chiều tối nay đến nhà chơi để anh ấy
hỏi thăm đời sống của anh Kính trong trại. Em đi với
anh nhé.
-
Và hai con nữa. Được đi chung với anh, bất cứ đến
đâu, mẹ con em đều vui thích.
Sau
bữa cơm chiều, hai vợ chồng cùng con cái đến nhà anh
Kính. Họ được đón tiếp hết sức niềm nở. Vợ chồng
anh Kính có ba đứa con còn nhỏ. Mấy đứa trẻ gặp
nhau, vài phút sau là bày trò đùa giỡn với nhau vui vẻ
ngoài sân, trong khi những người lớn nói chuyện với
nhau. Tân kể tỉ mỉ cuộc sống trong trại cải tạo và
bảo rằng sĩ quan cấp úy đang lần lượt được cho về.
Chắc chắn không lâu nữa anh Kính sẽ được trả tự
do. Mọi người nghe nói đều vui mừng.
Mười
phút sau, ba người đàn bà kéo nhau lên lầu bàn chuyện
làm ăn. Trong phòng khách còn vỏn vẹn Tân và anh Cung mà
thôi. Hai người ngồi đối diện nhau. Vừa hút thuốc,
vừa chuyện trò thân mật.
Tân
hỏi:
-
Buổi chiều, anh làm việc đến mấy giờ thì nghỉ?
-
Thường thì sáu giờ nhưng lắm khi phải trễ hơn nếu
chưa làm xong cho khách. Hôm nay biết anh đến chơi nên tôi
về sớm, có người mang xe hư đến tôi cũng từ chối.
Cả ngày, công việc quá nhiều, tôi làm không xuể. Thằng
con tôi thì nhỏ quá chỉ sai vặt thôi. Nó mới tròn mười
hai tuổi. Anh nó mười sáu rồi nhưng nhất định theo bạn
bè đi phụ thợ hồ chứ không chịu sửa xe với tôi.
Tân
ngập ngừng:
-
Hai cháu vẫn còn tuổi đi học mà.
Cung
bỗng thở dài sườn sượt:
-
Vâng, hai cháu đang đi học thì phải nghỉ. Thằng lớn
đang học lớp chín, thằng nhỏ lớp sáu. Đứa nào cũng
học giỏi. Trước ngày “giải phóng”, vợ chồng chúng
tôi quyết tâm cho hai đứa con học cho đến nơi đến
chốn, phải tốt nghiệp đại học như chú nó. Không bao
giờ chúng tôi có thể tưởng tượng đến lúc phải để
cho con bỏ học thế nầy. Đau lòng lắm anh ơi.
-
Anh chị không nuôi nổi nên cháu phải đi làm sớm à?
-
Không phải đâu. Có nghèo thực, nhưng chưa đến đổi
bắt con phải bỏ học. Nhưng anh coi, lúc còn dưới Long
an, hợp tác xã đến ăn cướp cái chỗ sửa xe của mình,
hất đổ nồi cơm, đẩy gia đình tôi xuống dưới cái
nghèo xa lắm. Cách mạng hô hào xóa đói giảm nghèo, thực
chất là tạo đói, gây nghèo cho dân. Sau một tuần lễ
chạy vạy, vợ tôi xin được một chân quét chợ, nhưng
tôi nghĩ với tình cảnh bị áp bức cùng cực thế nầy,
có lúc mình nổi giận không dằn được thì có thể đổ
máu. Trước đây mình là dân nhà binh mà. Tuy đã đầu
hàng, cởi áo lính để sống đời con giun con dế mấy
năm rồi, nhưng cái máu nhà binh bất khuất và liều mạng
sợ e lại nổi dậy, cản không được thì nguy to. Vì vậy
nhất quyết phải bỏ xứ mà đi.
-
Bây giờ, kinh tế gia đình anh chị ổn rồi chứ?
-
Vâng tạm ổn mà còn có thể dư chút đỉnh để dành
nữa. Mấy tháng nay, vợ tôi xin được một chân làm bếp
của một nhà giữ trẻ.
Tân
suy nghĩ một chút rồi nói:
-
Anh Cung, tôi muốn hỏi anh điều nầy nhưng sợ anh tự
ái.
-
Ồ, sao anh nói vậy? Mình là phe ta với nhau mà. Anh cứ
nói đi.
-
Tại sao bây giờ đủ ăn đủ mặc rồi mà anh không cho
hai cháu đi học lại?
Lông
mày Cung như dựng đứng lên:
-
Sao lại không? Ngay cái ngày đầu tiên mới đến đây, vợ
chồng chúng tôi và cả thím Kính nửa đã chạy đôn chạy
đáo để tìm chỗ học cho hai đứa. Anh cũng biết bây
giờ đâu còn trường tư nữa, toàn là trường nhà nước.
Đến chỗ nào, người ta cũng đòi đủ giấy tờ mới
xét.
-
Tôi hiểu rồi. Chuyển trường phải có hồ sơ của
trường đang học. Thế thì nan giải rồi. Anh chị bỏ
trốn đi, các cháu bỏ học thì ai mà cấp học bạ và
giấy giới thiệu chuyển trường.
-
Không, giấy đó không khó. Mình trốn đi là trốn hợp
tác xã và công an nơi mình cư trú chứ nhà trường thì
đâu có biết tí gì. Có người quen bảo với tôi rằng
muốn có mọi giấy tờ chuyển trường thì chỉ cần biếu
ông hiệu trưởng và bà hiệu phó mỗi người nửa kí
thịt heo là xong.
Tân
trố mắt nhìn:
-
Phải hối lộ sao? Hiệu trưởng, hiệu phó là người của
ngành giáo dục mà?
-
Bây giờ người ta không gọi là hối lộ mà gọi là “bồi
dưỡng” hoặc “xử lý tình cảm” hoặc là “quà tình
thương”. Chuyện đó đang tràn lan khắp nơi trong xã hội.
Tôi biết, trước đây ở miền Nam cũng có ít nhiều
tiếng xấu về tham nhũng và hối lộ nhưng không bao giờ
xảy ra trong ngành giáo dục. Bây giờ thì chuyện “bồi
dưỡng” đó chỗ nào cũng có. Bất cứ việc gì cũng
phải có quà hay bao thư đựng tiền mới giải quyết
nhanh chóng.
-
Nhưng hiệu trưởng, hiệu phó mà đi ăn hối lộ nửa kí
thịt à? Sao nghe thảm thương và bần tiện thế?
-
Vậy thôi, giấy chuyển trường không quan trọng lắm thì
chẳng phải tốn nhiều. Ký giấy quan trọng như kinh tế
hay an ninh thì phải chi nhiều hơn.
-
Nhưng mà…, nửa kí thịt cho người lãnh đạo một
trường trung học, nghe có vẻ khôi hài và nhục mạ quá.
Hiệu trưởng mà đi nhận hối lộ như thế sao?
-
Anh mới về nên chưa hiểu chủ nghĩa xã hội hiện giờ
ở Việt Nam đâu. Chỗ nào cũng phải hối lộ mới xong.
Anh cứ thắc mắc mãi về cái giá trị của món hối lộ
à? Nửa kí thịt đâu phải là ít đối với một viên
chức nhà nước. Trừ cán bộ đảng viên ra, mọi người
đang đói, thiếu chất đạm trầm trọng. Tôi không nói
“bần cùng sinh đạo tặc” nhưng bây giờ phẩm giá con
người bị hạ quá thấp so với nhu cầu vật chất. Ngày
trước trí thức được xã hội tôn trọng, được có
đời sống vật chất xứng đáng nên ông thầy gìn giữ
tư cách trí thức của mình. Bây giờ, trí thức chẳng
còn có nghĩa lý gì nên người ta không cần phải giữ
gìn phẩm giá của mình nữa. Nhưng thôi, chuyện đó còn
dài lắm, rồi từ từ anh sẽ thấy. Bây giờ trở lại
điều anh thắc mắc tại sao hai đứa con tôi phải bỏ
học. Một khi có giấy chuyển trường rồi thì đến một
thứ khác mà mình không thể nào lo nổi.
-
Thứ gì vậy?
-
Giấy chứng nhận có hộ khẩu thường trú tại thành
phố! Gia đình chúng tôi trốn lên đây thì mất hộ khẩu
và trở thành những công dân sống bất hợp pháp trên
chính cái đất nước mà mình đã sinh ra và lớn lên.
Không có hộ khẩu thì con cái phải bỏ học, bệnh nặng
cũng không được vào nhà thương để được cứu sống.
-
Hả? Anh nói sao? Đi nhà thương cũng phải có hộ khẩu à?
-
Chớ sao. Không trình được hộ khẩu chứng nhận mình
đang sống trong địa phương thì người gác cổng bệnh
viện không cho vào. Tôi đã chứng kiến một bà già bệnh
nặng ban đêm được con mang đến bệnh viện nhưng bị
từ chối vì không có hộ khẩu tại chỗ. Thân nhân năn
nỉ đến khuya vẫn không được nên bà già tắt thở
ngay trên lề đường ở kế cổng bệnh viện!
-
Tàn nhẫn đến thế à? Nhưng bây giờ, anh nói mọi thứ
giấy tờ có thể lo bằng hối lộ. Thế thì tại sao
không hối lộ để có cái hộ khẩu. Nửa kí thịt thì
có tốn kém gì lắm đâu.
Cung
ôm bụng cười đến suýt ngã xuống đất:
-
Nửa kí thịt là đủ cho ông hiệu trưởng vì ông ấy
quá nghèo. Còn đối với công an, đem đến bao nhiêu đó
để hối lộ thì chết với họ ngay. Làm một cái hộ
khẩu tốn kém nhiều lắm, chúng tôi không thể nào lo
nổi.
Cung
thở dài:
-
Nhưng rồi, chúng tôi cũng phải tính phương cách để các
cháu đi học lại. Đó là nguyện vọng vô cùng tha thiết
của vợ chồng chúng tôi. Nếu không làm được điều đó
thì sau nầy khi chấm dứt cuộc đời, chúng tôi khó có
thể nhắm mắt xuôi tay được.
-
Anh chị tính phương cách nào?
-
Vượt biên! Ra ngoại quốc thì các cháu mới có cơ hội
thành tài được. Ở đây, nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa chỉ có mục đích uốn nắn trẻ con theo lý thuyết
của họ. Tôi lo sợ rồi có lúc con mình quay lại mắng
mình là bán nước, là ôm chân đế quốc Mỹ. Nghĩ đến
điều nầy, đêm tôi không ngủ được. Cái tội lớn
nhất của con người là tội chửi cha mắng mẹ. Mình
thấy trước con mình có thể mang tội đó mà không tìm
cách ngăn chận thì chính mình phải gánh cái tội tày
trời đó.
Lời
nói của Cung gây cho Tân một nỗi lo lắng làm cho lòng
anh trĩu xuống một cách nặng nề.
Cung
nói tiếp:
-
Thôi chuyện đó sẽ từ từ tính sau. Bây giờ phải nổ
lực lo cái sống trước đã. Có sống sót thì mới tính
đến chuyện vượt biên. À nầy, anh đã tính đến chuyện
sinh sống của gia đình anh thế nào chưa?
-
Chưa. Tôi đã nạp đơn cho sở giáo dục để xin đi dạy
lại.
-
Anh còn thích dạy học à? Tôi biết bây giờ làm thầy
giáo không phải là làm giáo dục đúng nghĩa, cũng không
phải là nghề kiếm sống.
-
Tôi cũng biết thế nhưng có đi dạy thì mới có được
hộ khẩu ở thành phố để có thể sống hợp pháp với
vợ con. Sĩ quan chế độ cũ chúng tôi sống bất hợp
pháp thì khó có thể ở yên với công an.
-
Vâng tôi hiểu và hoàn toàn thông cảm với thân phận các
anh. Họ còn thù các anh lắm nên các anh phải cố tránh
những hoàn cảnh nào để họ có thể tiếp tục trả thù
sau khi đã nhốt các anh trong nhiều năm trường. Nhưng mà
đi dạy thì lương giáo viên tệ lắm không sống nổi
đâu. Hay là anh đi sửa xe như tôi đi. Bây giờ, mọi
người đều đi xe đạp, đồ phụ tùng do các nhà máy
quốc doanh trong nước sản xuất thì xấu lắm, nên xe đạp
hư quá nhiều, sửa không xuể. Làm nghề nầy sống được
lắm.
-
Khi sáng, thấy anh làm việc, tôi rất thích nhưng với tôi
thì có hai trở ngại.
-
Trở ngại gì, tôi có thể nghe được không?
-
Thứ nhất là tôi không có sẵn dụng cụ. Muốn sắm cho
đủ đồ nghề như anh không phải là dễ.
-
Không sao, anh cứ đến làm chung với tôi. Tôi đã nói với
anh, công việc tôi làm không hết phải từ chối bớt
khách. Anh cứ dùng chung dụng cụ với tôi. Tiền công anh
nhận được bao nhiêu thì giữ lấy tất cả để về phụ
giúp kinh tế với vợ.
Tân
lắng nghe, tỏ vẻ cảm động:
-
Anh Cung, anh muốn tôi trở thành kẻ lợi dụng lòng tốt
của người khác sao?
Cung
nghiêng mình tới trước vỗ nhẹ vào bàn tay Tân:
-
Phe ta với nhau mà anh ăn nói như thế sao? Thời buổi nầy,
kẻ chiến bại chúng mình không biết thương yêu giúp đỡ
nhau thì đợi ai giúp đỡ nữa. Vả lại giúp anh như thế,
tôi có bị thiệt hại gì đâu. Vậy là giải quyết xong
cái trở ngại thứ nhất của anh rồi đó nhé. Còn trở
ngại thứ hai?
-
Tôi đã nạp đơn, không biết đến bao giờ người ta gọi
tôi đi dạy.
-
Anh cứ bắt đầu làm việc với tôi ngay đi. Khi anh đi
dạy thì vẫn tiếp tục sửa xe vào những buổi nào không
đến trường. Ngoài chỗ sửa xe có đèn đường, nếu
muốn, có thể làm cả ban đêm vẫn có khách. Giờ dạy
thì làm thầy, hết giờ dạy thì làm thợ. Đồng ý nhé!
Tân
lưỡng lự:
-
Ở đất Sài gòn nầy, tôi đã có rất nhiều học trò.
Khi trở lại đi dạy thì số học trò càng tăng thêm. Thế
nào cũng có đứa hư xe dẫn đến gặp ngay ông thầy thì
chướng lắm.
Cung
cười to:
-
Trước ngày “giải phóng”, quả thực điều đó không
chấp nhận được vì vị trí xã hội của ông thầy rất
cao. Quân sư phụ mà. Thầy còn hơn cả cha nữa. Bây giờ
thì đảo ngược rồi. Giai cấp vô sản mới đáng quí.
Trí thức có giá trị gì đâu. Lãnh tụ vĩ đại của
mình còn bảo rằng trí thức có khi không bằng một cục
phân bón ruộng nữa kia mà. Ông thầy giáo đi sửa xe
ngoài đường và nhận được của học sinh một đồng
bạc tiền công là điều hết sức bình thường. Tôi biết
chắc chắn có vài ông thầy, hết giờ dạy thì vội vàng
đi thuê xích lô đạp đến khuya mới về nhà. Tôi có
quen thân với một anh thầy giáo trước đây là giáo sư
trung học đệ nhị cấp, oai phong lẫm liệt. Bây giờ,
anh ta hiện đang đi dạy nhưng mỗi buổi chiều và ngày
nghĩ đến quét dọn và săn sóc vườn tược trong ngôi
biệt thự của một cán bộ cao cấp. Công việc và cách
ăn mặc đúng là của một người tôi tớ trong gia đình.
Thế mà đứa con gái của lão cán bộ đó lại là học
sinh trong lớp mà ông thầy giáo tôi tớ làm chủ nhiệm.
Một thí dụ khác là một cô giáo dạy tiểu học ở gần
đây thôi, có hai đứa con còn nhỏ, chồng đã tử trận
trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Mỗi
bữa đi dạy cô giáo đó mang một túi kẹo vào lớp để
giờ chơi bán cho học sinh của mình. Làm như thế, mỗi
ngày cô cũng mua được thêm một củ khoai hay một cái
bánh tráng nướng chiều đem về cho con. Hầu hết thầy
cô giáo bây giờ đều phải làm thêm một nghề gì đó
để có tiền mua thêm con cá, bó rau cho bữa ăn. Thông
thường thầy cô phải làm những nghề trước đây dành
riêng cho những người không có chữ nghĩa và, dĩ nhiên,
toàn là những nghề lương thiện. Lúc nầy là lúc có thể
xem như trí thức miền Nam đang lâm nạn, nhưng họ vẫn
giữ được phẩm chất đạo đức của họ. Thực là
đáng thương và đáng kính phục. Anh cũng thuộc vào hàng
ngũ trí thức lâm nạn đó. Anh cứ ra làm việc với tôi,
đừng ngại gì cả.
-
Vâng, cám ơn anh, tôi xin nhận lãnh lòng tốt của anh.
-
Thế thì ngay ngày mai, anh bắt đầu công việc đi. Mình
sẽ cùng làm việc chung và khi rảnh rỗi, mình đốt điếu
thuốc và ngồi hàn huyên với nhau, nhắc lại những ngày
hạnh phúc trong chế độ Việt Nam Cộng hòa. Đó không
phải là những phút vui thích và an ủi trong quãng đời
bất hạnh nầy của chúng mình hay sao?
*
*
*