Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

Chương 11: Những ngày cải tạo (3)



Một cuộc chiến tranh dài
Tập IV
Chương 11: Những ngày cải tạo
(3)

Khoảng ba tháng sau đợt thăm nuôi, một buổi chiều sau khi ăn cơm xong, có lệnh tập họp lên hội trường. Tập họp vào giờ nầy là điều bất thường, chắc chắn không phải là học chính trị. Tuy nhiên, sau hơn một năm bị giam cầm, anh em đã có được một thái độ thờ ơ đối với những việc xảy ra cho mình.
Quản giáo trưởng từ từ bước ra đứng sau bục thuyết trình. Như thường lệ ông ta cầm ống vi âm lên gõ mấy cái. Những tiếng lốp bốp vang dội trong hội trường. Từ trong loa phát ra tiếng khó nghe và khó cảm tình:
- Các anh im lặng nghe quyết định của cấp trên. Sáng mai các anh sẽ di chuyển đi nơi khác. Đi đâu? Để làm gì? Các anh sẽ đến một nông trường để lao động sản xuất. Trước đây, các anh làm lính đánh thuê cho thực dân, đế quốc, các anh không biết lao động là vinh quang, các anh chỉ biết cầm súng chống lại nhân dân chứ không hề biết lao động là gì.
Người kế bên bấm vào tay Tân và nói nhỏ:
- Nó nói như thế mà không ngượng miệng, khi đứng trong cái hội trường to lớn nầy do anh em mình dựng lên chỉ nội một tuần lễ, trong điều kiện ngặt nghèo không có một cái búa, cái kềm, cây đinh, sợi kẽm.
Tân vội quay qua nói nhanh:
- Suỵt, đừng tức giận, hãy nghe lão nói tiếp.
Tiếng nói trên loa vẫn oang oang:
- Các anh đã học chính trị xong phần cơ bản và đã hiểu được con đường chính nghĩa mà mình phải theo. Bây giờ các anh mới thực sự bước vào cải tạo. Cải tạo bằng lao động. Lao động là phương cách duy nhất để cải tạo cho con người trở nên lương thiện. Các anh phải vui mừng bước vào giai đoạn cải tạo đó. Ngày mai các anh sẽ lên đường. Khuya nay nhà bếp sẽ nấu cơm cả ngày và cấp phát cho mỗi người mang theo phần ăn của mình. Thôi, các anh giải tán về phòng.
Anh em đứng dậy và chậm rãi ra khỏi hội trường. Về đến phòng, mọi người bàn tán về lệnh di chuyển vừa rồi nhưng không còn sự háo hức như trước nữa. Đêm xuống, các “câu lạc bộ uống trà” vẫn sinh hoạt bình thường.
Quát rót nước ra chén:
- Bắt đầu nhâm nhi đi anh em. Hôm qua anh Tấn lén gởi cho bộ đội mua được nửa ký đường tán và hôm nay mang tất cả ra đãi anh em mình uống trà. Đây là bữa cuối cùng, anh em mình uống trà và nói chuyện nơi nầy. Đây tuy là nhà tù nhưng đi khỏi nơi nầy mình sẽ nhớ nó vì nó đã chứng kiến những ngày đau khổ của những người lính bại trận là chúng mình đây.
Trí cười khẩy:
- Chắc gì đi. Lần trước cũng cho lệnh di chuyển, lừa gạt chúng mình ra khỏi phòng để tịch thu dao và các dụng cụ khác. Lần nầy e lại bị gạt nữa. Sao, ý kiến tổ trường Định thế nào?
Định thủng thẳng trả lời:
- Theo tôi, lần nầy, người ta không lừa gạt theo kiểu cũ nữa. Họ phải hiểu mỗi cách lừa gạt chỉ có thể áp dụng một lần thôi. Hơn nữa, quản giáo trưởng cho hay trước cả một đêm để chuẩn bị thì chắc là đi thực rồi, nhưng đi với mục đích gì?
- Đi nông trường để cải tạo bằng lao động.
Định bỉu môi:
- Nông trường là cái gì? Tù thì chỉ có đi từ nơi giam nầy đến nơi giam khác mà thôi. Còn cải tạo bằng lao động là cái gì? Đó chỉ là một từ hoa mỹ để lừa bịp thân nhân của chúng ta và để chống đỡ với sự công kích và phản kháng trong dư luận thế giới về số tù nhân kỷ lục ở Việt Nam hiện nay.
- Nhưng tại sao phải chuyển chúng ta đi nơi khác?
- Tôi nghĩ rằng các ông ấy không muốn chúng ta ở chung một chỗ quá lâu sợ sinh biến. Có lẽ các ông làm công việc gọi là “biên chế” để xáo trộn tập thể tù chúng ta. Tôi đoán chúng ta sẽ bị chia thành nhiều nhóm, sát nhập với các nhóm của những trại khác để thành lập những trại mới. Chúng ta sẽ chịu sự “biên chế” nhiều lần như thế trong quãng đường tù đày của chúng ta.
Tân thở dài:
- Như vậy có nghĩa đêm nay là đêm cuối cùng mình ngồi uống trà đông đủ thế nầy. Nghĩ cũng đáng buồn.
Định mỉm cười:
- Một nỗi buồn quá nhỏ so với nỗi buồn khổng lồ của cả miền Nam. Thôi, chúng ta nên dửng dưng với mọi trạng huống. Đó là thái độ tốt nhất của người tù.
Câu nói có tính triết lý của Định làm cho tất cả cảm thấy nhẹ nhàng và cùng nhau vui vẻ như những đêm trước.

Một đêm đi qua. Từ sáng tinh mơ, anh em đã được lãnh cơm và tập họp ra sân cờ trước văn phòng quản giáo. Ở đầu sân rộng, một dãy xe đậu im lìm. Vẫn là những quân xa vận tải do Liên xô chế tạo. Mọi người đang đợi lệnh lên xe thì quản giáo trưởng xuất hiện, bước đến trụ cờ, nói trong loa cầm tay:
- Các anh tập họp thành hàng cho ngay ngắn rồi ngồi xuống.
Mọi người im lặng tuân lệnh. Ai cũng tự hỏi:
- Chuyện gì nữa đây? Có thực chuyển trại không? Với cách mạng thì mọi sự đều có thể xảy ra bất ngờ vào giờ chót.
Tiếng loa vang lên:
- Chỉ một bộ phận trong các anh được lên đường đi lao động kỳ nầy. Những người khác đi vào dịp khác. Các anh nghe gọi tên, ai được gọi thì lên xe.
Tân quay sang Định nói nhỏ:
- Có kẻ ở người đi. Anh nói đúng rồi. Đây là một cuộc biên chế tù.
Định gật đầu:
- Tôi mong anh và tôi lại được ở chung sau sự biên chế nầy.
- Tôi cũng mong như thế.
May mắn thay, một lát sau cả hai người cùng những người khác trong tổ đều được gọi tên lên xe.
Không bao lâu sau, nắng đã lên cao, đoàn xe mở máy và lăn bánh. Tân nhìn về phía sau qua quãng trống. Những luống rau xanh um lấp ló sau những dãy nhà tôn, mái hội trường vượt lên trên tất cả, dãy hàng rào chạy dài, nhiều khoảng dây leo đã phủ kín. Tân thu vào tầm mắt mình lần cuối cùng khung cảnh quen thuộc sắp trở thành vùng đất của quá khứ với biết bao kỷ niệm buồn đau, sẽ mãi mãi còn lưu lại đậm nét trong tâm khảm mình.
Xe đi qua chiếc cổng mở rộng. Lần đầu tiên, Tân được ra ngoài vòng rào của trại. anh nhìn lên tấm bảng màu đỏ kẻ chữ vàng sặc sỡ: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”. Qua khoảng trống bên dưới tấm bảng, anh thấy lố nhố những cánh tay đưa lên vẫy chào tạm biệt. Anh cảm thấy thực bùi ngùi. Hơn một năm rồi, cả ngàn con người bị tước đoạt tự do và bị giam cầm trong một khu đất chật hẹp được cách mạng gọi tên là “không có gì quí hơn độc lập tự do”!
Xe chạy rất chậm trên con đường đất có nhiều vũng to và sâu chứa đầy nước do trận mưa của những ngày trước để lại.
Ồ! Đây đúng là khu nhà của bộ tư lệnh sư đoàn Mười tám trước kia. Kìa là trung tâm hành quân, và ôi chao, đó là dãy nhà của khối chiến tranh chính trị, nơi anh đã làm việc trong những tháng tái ngũ với thiếu tá Bảo, vị chỉ huy nhân từ! Không biết người sĩ quan đáng kính đó đã hi sinh vì Tổ quốc hay vẫn còn sống trong một trại cải tạo hoặc ở một vùng đất xa xôi nào đó trên bản đồ thế giới!
Đoàn xe thẳng đường về Sài gòn, đến trưa thì đổi hướng chạy về Tây ninh và rẽ lên biên giới. Xe lăn bánh rất chậm trên con đường đá gồ ghề và cuối cùng dừng lại. Mọi người được lệnh xuống xe, nhìn thấy hai bên toàn cây cối xanh um.
Tân đến gần Đại, một người bạn tù cùng tổ:
- Tôi nhớ trước đây anh là sĩ quan của tiểu khu Tây ninh phải không?
- Đúng, tôi công tác ở đó gần ba năm trước khi Tây ninh thất thủ.
- Anh đến đây lần nào chưa?
- Chưa, nhưng tôi biết đây là Đồng bang, đi thêm khoảng hơn mười cây số nữa là đến chợ Cà tum nằm trên biên giới Việt Nam Cam bốt. Trước kia đây là vùng oanh kích tự do. Đó anh xem cái hố to đầy nước đằng kia kìa. Hố bom do B52 rải thảm đó. Trong rừng có nhiều hố lắm, rải rác khắp nơi. Tôi đã cùng với các sĩ quan tiểu khu bay trên vùng nầy nhiều lần.
- Ở đây trông hoang vu quá nhỉ?
- Trước đây cũng có nhiều nhà dân sống hai bên đường. Nhưng từ khi Việt cộng hoạt động mạnh, vùng nầy bị oanh kích liên miên thì dân bỏ nhà cửa về thành phố để ở, bây giờ hòa bình rồi họ mới bắt đầu trở lại. Có lẽ chúng ta sẽ bị đưa vào rừng để lập một trại tù, sống biệt lập trong đó chứ vùng nầy thì đâu có nhà cửa gì như các khu gia binh ở Long khánh.
Quả như lời dự đoán của Đại, cả đoàn được dẫn theo một đường mòn nhỏ chui vào rừng già. Sau một đoạn đường độ một cây số, anh em được lệnh dừng lại. Nơi đây, đoàn người bị rừng già vây bủa, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Chung quanh toàn là những thân cây thẳng băng cao vút, bên trên, bầu trời chỉ còn là những đốm sáng lung linh giữa cành lá và dây leo um tùm. Cả đoàn tập họp lại, chia thành nhiều tổ. Mỗi tổ được phát vài con dao và cưa.
Anh em dọn sạch ngay một vùng be bé và đêm đó mọi người nằm dưới đất để ngủ. May mà trời tốt, không có mưa đêm.
Trong nhiều ngày tiếp theo, tiếng dao chặt, tiếng cưa kéo vang lên từ sáng đến chiều. Không bao lâu, trong rừng già xuất hiện một khu trống khá quang đãng, nhiều dãy nhà được dựng lên kế tiếp nhau, xa ra một khoảng là hai dãy nhà dài làm nơi ở của quản giáo, bộ đội cùng là văn phòng và kho thực phẩm. Sau hai tuần lễ thì mọi việc xong xuôi. Mỗi tổ gồm mười người cất xong một gian nhà dài thậm thượt, nên chỗ ở rộng thênh thang.
Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, các đoàn tù từ các nơi khác đổ về. Họ được chia vào các dãy nhà. Mỗi dãy bây giờ chứa đến năm mươi người, họp thành một đơn vị gọi là “bê”. Người mới, người cũ bắt tay nhau hỏi thăm tíu tít. Tất cả đều là sĩ quan cấp úy trước kia, trình diện ở nhiều địa điểm và đã bị giam giữ ở nhiều nơi khác nhau. Có những người trước là bạn thân hay cùng chung đơn vị hoặc nhiệm sở, ôm nhau mừng cho dịp may đưa họ gặp nhau tại chốn nầy. Mọi người tiếp tục bận rộn với nhiều công việc. Người thì đi chặt tre về đan vách cho nhà được kín gió, kẻ thì đi đẵn cây về vạt nhọn làm thành một hàng rào kiến cố để nhốt tập thể mình trong đó.
Mùa mưa lặng lẽ đi qua, mùa nắng bắt đầu với bầu không khí mát dịu. Một buổi sáng, Tân cùng một số anh em được cảnh vệ dẫn vào rừng để đốn cây về làm hội trường. Đẵn được cây thứ nhất, một mình Tân vác về trại. anh bước đi một cách khó khăn trong khu rừng đầy những dây leo và lùm bụi cản bước chân. Bên trên, nhiều tầng lá cây che khuất bầu trời làm cho ánh sáng trong khu rừng mờ nhạt như sắp bước vào buổi hoàng hôn. Thoát ra khỏi khu rừng, Tân gặp ngay một cái trảng rộng lớn phủ đầy cỏ thấp xanh mượt. Cả bầu trời bỗng chốc như nở rộng ra. Vài cụm mây trắng xốp như bông gòn treo lơ lửng trên một nền xanh lơ cao thăm thẳm. Ngọn gió đông bắc mát lạnh thổi ào qua làm cho khu rừng sau lưng cất tiếng ca và trảng cỏ trước mặt dợn sóng theo một điệu múa nhịp nhàng.
Tân đặt thân cây nặng trên vai xuống, cởi áo ra cuộn lại lau mồ hôi trên mặt. anh đứng yên, say sưa ngắm phong cảnh tĩnh mịch, đẹp tuyệt vời. Trảng cỏ rộng thênh thang được bao bọc bởi những thân cây trắng và xám của những khu rừng già chung quanh. Từng bầy chim bay lượn qua trảng cỏ rồi đáp vào bìa rừng kêu ríu rít.
- Anh vác nặng, mệt lắm phải không?
Tân giật mình vì giọng nói thực đột ngột và rõ ràng sau lưng. anh vụt quay lui, thấy một chú vệ binh đứng gần tự lúc nào. Tân đáp vội vã:
- Vâng, cây nầy gỗ tốt nên khá nặng. Tôi nghỉ một chút rồi vác về trại ngay.
Nói xong anh mặc áo vào rồi khom xuống định nhấc cây lên. Chú vệ binh cản lại bằng một giọng nhỏ nhẹ đáng ngạc nhiên:
- Không vội gì. Anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi hẳn đi. Anh ngồi xuống đây nói chuyện với tôi một chút cho vui.
Tân hết sức ngạc nhiên về thái độ lạ kỳ của chú bộ đội nầy. Tuy vậy, anh cũng ngồi yên trên thân cây đối diện với chú. Tân liếc nhìn và thấy một khuôn mặt còn khá trẻ, khoảng ngoài hai mươi. Đôi mắt chú nhìn ra xa có vẻ mơ màng và không có chút gì đáng gọi là xảo quyệt cả. Tân cảm thấy yên tâm nhưng vẫn ngồi lặng yên.
Đột nhiên, chú bộ đội quay lại hỏi:
- Anh theo đạo nào?
Tân lại giật mình. anh biết tôn giáo là cái thứ mà người cộng sản quan tâm và thù ghét nên suy nghĩ một chút và đáp lời một cách thận trọng:
- Trong lý lịch tôi khai là đạo Phật vì tôi nghĩ rằng ba má tôi theo đạo đó. Tuy nhiên, tôi chưa làm lễ qui y và rất ít khi đi chùa.
- Thế anh có cảm tình với đạo Thiên Chúa không?
Nỗi nghi ngờ trong lòng Tân tăng lên. anh nghĩ rằng hắn đang gài mình vào một cái bẫy gì đây. Mặc, đã là thân tù rồi thì còn sợ gì nữa. anh nói một cách thẳng thắn:
- Có, tôi dành rất nhiều cảm tình với đạo Thiên Chúa. Tôi có một ân nhân là con chiên ngoan đạo. Bạn bè tôi nhiều người theo đạo đó. Tôi cũng biết nhiều linh mục và nhiều nữ tu sĩ rất đáng khâm phục vì họ hi sinh cả đời để làm việc phước thiện cho xã hội. Đôi khi tôi cũng theo bạn bè đến nhà thờ để dự thánh lễ.
Chú bộ đội nhìn Tân với cặp mắt sáng lên niềm vui thích:
- Thế à? Hay lắm. Anh có biết hôm nay là ngày gì không?
Tân nhíu mày suy nghĩ, chưa kịp trả lời thì chú đã nói nhanh:
- Hôm nay là ngày hai mươi bốn tháng mười hai. Đêm nay Chúa ra đời trong máng cỏ ở thành Bê lem.
Tân sửng sốt, há hốc mồm nhìn chú bộ đội. Chú cười thực dễ thương:
- Anh ngạc nhiên lắm phải không? Để tôi kể rõ cho anh nghe. Bố tôi ngoan đạo lắm nhưng phải tuyên bố bỏ đạo vì tương lai của chị em tôi.
Tân hỏi một cách dè dặt:
- Tại sao cụ làm như thế?
- Vì ngoài Bắc, lý lịch quan trọng lắm. Mình không có đạo nhưng bố mẹ có đạo thì cũng gay go về việc thăng tiến lắm. Tôi biết bố tôi rất khổ về điều nầy. Cái bàn thờ Chúa, tài sản duy nhất do ông nội tôi để lại, bố tôi cũng dẹp bỏ, chỉ giữ lại cây thánh giá đem cất kỹ dưới đáy rương. Thỉnh thoảng tôi lại thấy bố tôi lấy thánh giá ra hôn rồi cất lại cẩn thận. Hằng năm, vào đêm Giáng sinh, đợi mọi người đi ngủ hết, bố mẹ tôi lấy thánh giá ra, đặt lên bàn và quỳ xuống lầm thầm đọc kinh.
Chú bộ đội cúi mặt nhìn xuống đất rồi nói nhỏ rất nhanh như muốn vội vàng trút hết tâm sự của mình:
- Tôi có hai người chị và một đứa em gái. Tôi là con trai duy nhất trong gia đình. Lúc tôi vừa tròn hai mươi tuổi, chuẩn bị vào Nam chiến đấu thì trong ngày Giáng sinh cách nay đúng ba năm, bố tôi đã nói với tôi rằng, lúc tôi mới sinh ra đời, bố mẹ đã xin lễ cho tôi nhưng rồi sau đó, đảng và chính phủ về tiếp quản vùng tôi, cha xứ bỏ vào Nam nên nhà thờ ngưng hoạt động. Bố tôi muốn rằng trong lý lịch của tôi cứ khai là không có tôn giáo để được thăng tiến như người khác nhưng trong thâm tâm thì phải nhớ rằng tôi đã là con chiên của Chúa và khi có dịp hãy trở về với Chúa. Có lần tôi vào đây thấy nhà thờ khang trang đẹp đẽ, tôi thèm bước vào quỳ trong nhà thờ để nhớ đến bố mẹ tôi, nhưng tôi cố dằn lòng ham muốn của mình lại. Tôi là người bộ đội của đoàn quân giải phóng miền Nam, đã trải qua bao gian nguy mới đi đến chiến thắng hoàn toàn. Tôi đang phấn đấu để được vào đảng và cố quên lời dặn của bố tôi đi. Năm ngoái, chị tôi nhắn tin vào cho biết bố tôi đã mất, tôi khóc cả một ngày trời. Bố tôi mất một ngày trước lúc Chúa sinh ra trên trần thế. Hôm nay được đúng một năm và một ngày. Mấy hôm rồi tôi muốn có ai đó để nói chuyện nhưng không biết nói với ai. Nếu không nói ra được thì tôi khổ sở trong lòng.
Tân ngắt lời:
- Chú không có bạn thân trong đơn vị à?
- Có chứ, có mấy thằng thân lắm nhưng chuyện như thế thì không thể nói cho chúng nó nghe được, nguy hiểm lắm. Chúng nó bắt buộc phải phản ánh cho chính ủy nghe thì tàn cuộc đời tôi. Mà không nói ra thì cực lòng lắm.
Chú bộ đội bỗng đứng phắt dậy, nhìn thẳng vào mặt Tân. Anh ngạc nhiên thấy trong đôi mắt của chú có nét hung dữ. Chú gằn giọng:
- Tôi cám ơn anh đã ngồi nghe tôi nói. Nhưng những điều tôi nói với anh vừa rồi, anh phải tuyệt đối giữ kín. Nếu lộ ra mà thủ trưởng của tôi biết được thì anh đừng trách tôi nhé.
Nói xong, chú quay lưng bỏ đi vào rừng. Tân nhìn theo cho đến khi chú khuất sau lùm cây rậm rạp. anh đứng dậy, vác cây gỗ về trại.
Buổi chiều, khi Tân đốn xong cây gỗ cuối cùng thì gặp chú vác súng đi ngang qua với nét mặt lạnh lùng và hoàn toàn xa lạ.




*
* *


Sau khi “biên chế” lại, tổ của Tân chỉ còn ba người cũ là Định, Tân và Trí. Bảy người kia được đưa sang khối khác và thay thế bằng bảy người ở trại giam của đảo Phú quốc vừa được đưa về. Định vẫn được anh em bầu làm tổ trưởng. Người cũ, người mới trong tổ rất nhanh chóng thân mật với nhau vì tất cả đều là sĩ quan chế độ cũ và nay cùng chia sẻ thân phận tù đày.
Khi nhà cửa xong xuôi, cuộc sống khá ổn định là đêm đêm các “câu lạc bộ uống trà” hoạt động trở lại và rất thuận lợi vì ở đây củi hết sức dồi dào, tha hồ mà nấu nước. Cây trong rừng già được cả ngàn tù khai thác mỗi ngày. Thân cây to dùng cất trại và xẻ gỗ để quản giáo chia nhau bán, gốc và cành chất thành những đống to tướng để làm củi. Ban đêm ánh lửa bập bùng khắp nơi.
Đêm nay là đêm Giáng sinh, khí trời đổ lạnh hơn những đêm trước. Tân và các bạn ngồi quanh bếp lửa do Định vừa nhóm lên. Củi nổ tí tách, ngọn lửa hồng nhảy múa reo vui, hơi ấm tỏa ra chung quanh làm mọi người cảm thấy rất dễ chịu.
Trí lôi trong bọc ra một gói giấy. Anh trao cho Định và nói với vẻ trịnh trọng:
- Hôm nay là kỷ niệm này Chúa sinh ra đời. Sáng nay tôi đi đốn cây trong rừng, may gặp được một ông già là dân mới đến đây làm rẫy. Ông ta vác rựa đi tìm mây về đan giỏ. Tôi nhớ tới anh Định là người công giáo nên nhờ ông ấy mua cho một ít bánh hay kẹo về làm quà Noel cho anh. Ông ấy bảo chung quanh đây chẳng có ai bán gì cả phải đi đến Cà tum mới có chợ. Nhưng gần đây có một lò đường nho nhỏ của một gia đình chuyên làm theo lối thủ công, đường tán trông không đẹp mắt nhưng rất ngon. Tôi vội đưa tiền và nhờ ông ấy mua một kí. Anh Định, quà Giáng sinh do ông già Noel gởi cho anh đây. Anh hãy vui lòng nhận lấy đi.
Định rất ngạc nhiên. Anh đứng dậy, đưa cả hai tay trịnh trọng nhận lấy món quà từ tay Trí, rơm rớm nước mắt:
- Cám ơn anh vô cùng. Đây là món quà Giáng sinh quí giá nhất mà tôi nhận được từ trước đến nay và mãi mãi sau nầy nữa.
Anh dừng lại nuốt nước bọt rồi nói tiếp:
- Tôi cũng xin giới thiệu với anh em, trong tổ mình còn hai con chiên của Chúa, mới ở trại giam Phú quốc về. Anh Kính và anh Chuyên.
Định chỉ hai người trước mặt mình và nói tiếp:
- Cả hai anh đều là trung úy bộ binh. Anh Kính là sĩ quan của sư đoàn Bảy Bộ binh còn anh Chuyên thì ở đơn vị Ba quản trị địa phương. Món quà Giáng sinh quí báu mà anh Trí vừa trao tặng cho tôi cũng là quà cho anh Kính và anh Chuyên nữa. Anh Trí đồng ý nhé.
Trí gật đầu:
- Như thế thì càng vinh dự cho tôi. Tôi cũng xin lỗi, hai anh mới “biên chế” qua nên tôi không biết là hai con chiên của Chúa.
Kính và Chuyên cùng đứng dậy, Định trao cái gói cho Chuyên và ngồi xuống. Chuyên mỉm cười, chớp mắt:
- Thực là cảm động, vô cùng cảm động! Một đêm Giáng sinh có ý nghĩa nhất trong đời tôi mặc dù không được dự thánh lễ và dâng mình cho Chúa. Suốt ngày hôm nay, tôi và anh Kính rất buồn nhưng bây giờ thì chúng tôi không buồn nữa vì tôi nghĩ rằng Chúa đã mượn tay anh Trí để trao lại cho ba anh em tôi một sự an ủi đầy tính nhiệm mầu.
Định tiếp lời một cách trang trọng:
- Cái điều tuyệt vời là Chúa đã mượn tay anh Trí, một người ngoại đạo mang niềm an ủi đến cho những con chiên của Chúa.
Ba anh làm dấu thánh giá, đọc một đoạn kinh ngắn, kết thúc bằng tiếng “amen”. Chuyên mở gói đường tán ra chia cho mọi người.
Tân nhận viên đường trong tay, nhìn Định và nói:
- Anh Định, sáng nay, lại có một kẻ ngoại đạo được Chúa sai bảo nhận lấy tâm sự của một con chiên như là một sự an ủi cho người con đáng thương của Chúa.
Định ngạc nhiên:
- Vậy sao? Chuyện gì vậy?
Tân kể lại cuộc gặp sáng nay của mình với chú bộ đội và nói tiếp:
- Chú bộ đội yêu cầu tôi giữ kín chuyện nầy, nhưng kể lại với các anh thì chẳng có hại gì cho chú ấy.
Định gật đầu:
- Phải, chú ấy sợ thủ trưởng biết và trù dập không cho vào đảng còn anh em mình biết thì chẳng có hại gì cho chú ấy. Anh bảo rằng câu chuyện sáng nay mà anh gặp là do sự sắp đặt của Chúa, tôi tin như vậy. Chúa đã mượn tay anh để ban ân sủng cho chú bộ đội đó. Đã là ân sủng của Chúa thì nên phổ biến cho người khác biết để tôn vinh Chúa.
Tân nói:
- Suốt ngày hôm nay, tôi cứ suy nghĩ mãi về câu chuyện đáng thưong của chú bộ đội đó. Ở ngoài Bắc, tôn giáo bị ngăn cấm dữ dội lắm phải không?
Kính lắng tai nghe tự nãy giờ, bắt đầu lên tiếng:
- Về mặt công khai thì không ngăn cấm. Trước khi trình diện học tập vài ngày tôi may mắn gặp được một người bà con từ ngoài Bắc vào. Trước kia, anh ta là người có đạo nhưng sống ở Hà nội thì đành phải bỏ đạo.
- Tại sao vậy? Bị bắt buộc à?
- Chẳng bắt buộc mà cũng như bắt buộc. Sống trong chủ nghĩa xã hội, mọi sự hướng tới những giá trị cao cả đều bị đả kích để tôn vinh đảng mà thôi. Người cộng sản không thể chấp nhận tôn giáo được vì người có đạo vẫn đặt đấng giáo chủ của mình cao hơn đảng. Phải dẹp hết để đề cao riêng đảng mà thôi. Nhân dân thấy rõ đường lối đó nên dần dần phải chấp nhận vai trò độc tôn thực sự của đảng. Tuy nhiên, trong xã hội miền Bắc hiện nay, người ta coi đảng là độc tôn không phải vì một ý nghĩa cao cả mà vì đảng đem lại cho người ta danh và lợi. Vào được đảng rồi thì đương nhiên sẽ có danh tức là được đề cử vào một chức vụ nào đó và có lợi vì được chia chác nhiều quyền lợi vật chất. Dân chúng mỗi ngày một xa rời tôn giáo vì thiếu người rao giảng niềm tin để giữ chân họ lại. Sau hai mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, hầu hết các nhà thờ của miền Bắc đều thiếu linh mục. Người ta không bắt buộc linh mục phải cởi áo tu nhưng ngăn cản một cách triệt để sự đào tạo linh mục. Rất nhiều biện pháp về hành chánh, an ninh và kinh tế buộc các nhà dòng chuyên đào tạo linh mục phải tự giải tán, ngăn cản sự tấn phong linh mục mới, dù có quyết định của Toà Thánh Vatican. Sau hiệp định Genève, một số lớn linh mục di cư vào Nam, số còn lại dần dần già và chết đi không có người thay thế. Một linh mục còn sót lại, phải cai quản rất nhiều giáo phận nên không thể làm hết chức năng mình được. Trong Nam, mỗi nhà thờ cần hai linh mục hay nhiều hơn nữa mà còn chưa làm hết công việc nên cần có nhiều thầy tu và nhiều giáo dân tình nguyện giúp sức. Vì vậy ở ngoài Bắc, hầu hết các nhà thờ đều ngưng làm lễ, trở nên hoang tàn, dần dần biến thành các kho chứa thóc và chứa dụng cụ hay hàng hóa của các hợp tác xã. Con chiên xa rời nơi hành đạo, dần dần bỏ luôn đạo. Con cái của họ lớn lên bị nhồi nhét lý thuyết vô thần, không còn biết đến tôn giáo nữa. Chủ trương của đảng và nhà nước là không công khai cấm đoán tín ngưỡng nhưng tìm cách triệt hạ tôn giáo tận gốc rễ để mọi người chấp nhận đảng là trên hết không còn gì cao hơn nữa.
Tân ngắt lời:
- Họ có làm được điều đó không? Nên nhớ rằng, trong nền văn hóa lâu đời của của dân tộc Việt Nam, khía cạnh tôn giáo rất sâu đậm dù không cuồng tín như nhiều dân tộc khác. Vì vậy, mỗi nhà từ thành thị đến thôn quê đều có một bàn thờ để thờ Chúa, thờ Phật hoặc thờ ông bà.
Kính gật đầu:
- Đúng vậy. Tuy nhiên, sau hai mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội những người cộng sản Việt Nam rất thành công trong sự triệt bỏ ý thức tôn giáo trong dân chúng. Những bàn thờ truyền thống và lâu đời đó biến mất. Một vài nhà, phần lớn là nhà của cán bộ, sau khi dẹp bỏ bàn thờ truyền thống thì lập một bàn thờ khác để thờ lãnh tụ và những ông tổ cộng sản. Đó, tình hình tôn giáo ngoài Bắc là như thế đó. Họ triệt hạ tôn giáo nhất là Thiên Chúa giáo nhưng không có vẻ gì là đàn áp cả. Tôi lo lắng, trong miền Nam, tôn giáo sẽ bị tiêu diệt nhanh hơn miền Bắc nữa vì đảng đang chủ trương “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đối với người công giáo chúng tôi, niềm tin ở Chúa là lẽ sống, không được đi nhà thờ hàng tuần và không được xưng tội là một nỗi bất hạnh to lớn.
Tân gật đầu:
- Tôi là người ngoại đạo nhưng tôi biết sự quan trọng của việc xưng tội trong đạo Thiên Chúa. Đó là một sinh hoạt độc đáo của riêng tôn giáo nầy.
Kính có vẻ hài lòng:
- Làm người thì ai mà tránh được lỗi lầm. Sau khi phạm lỗi lầm thì người ta hối hận, đau khổ và bị lương tâm dằn vặt. Nếu được đi nhà thờ xưng tội với linh mục và được cha la rầy, giảng giải và an ủi thì có thể chấm dứt được sự hành hạ trong nội tâm. Về việc nầy, tôi xin kể cho các anh nghe một câu chuyện đã xảy ra cách nay mấy tháng trong trại tù Phú quốc.
Kính uống một ngụm trà rồi với lấy cái ống điếu cày, rít một hơi thuốc lào thực dài rồi mới nói tiếp:
- Trong khối Ba của chúng tôi có anh Siễm, trước ngày mất nước là đại úy quận trưởng của một quận thuộc tỉnh Ba xuyên. Tôi còn nhớ rõ, câu chuyện xảy ra vào một buổi chiều anh em được về trại sớm vì trời mưa to, biển động mạnh.
Tân tò mò:
- Tại sao biển động mạnh lại về sớm. Các anh đi đánh cá cho trại tù à?
Kính cười:
- Không phải đánh cá. Chúng tôi đi mò lấy đá vôi san hô đem về để người ta cho vô lò nung làm vôi, chở về đất liền bán. Công việc cực khổ và nặng nhọc lắm.
Tân ngắt lời:
- Tôi nhớ một bài sử ký mà trước đây tôi dạy các em, có đoạn mô tả hành động tàn ác của nhà Minh bên Tàu khi đô hộ nước ta. Đoạn đó thế nầy: “Chúng bắt dân ta xuống biển mò ngọc trai, lên rừng tìm ngà voi và sừng tê giác”. Nghe anh Kính nói tôi thấy hai cảnh xưa và nay sao mà giống nhau đến thế, và đều là cảnh người phương Bắc đày đọa người phương Nam.
Kính mỉm cười:
- Đúng như anh nhận xét. Suốt ngày mò dưới đáy biển, cực nhọc vô cùng. Vừa phải đổ sức ra lại thêm gió biển nữa nên cơ thể đòi hỏi phải ăn cho nhiều. Thế mà các anh đã biết, ở trại cải tạo nào, tiêu chuẩn gạo cũng rất thấp, chất đạm lại vô cùng thiếu thốn nên ai cũng bị cái đói hành hạ. Sống ngoài hải đảo thì cái đói đó thực là khủng khiếp, phần cơm của mỗi bữa chẳng thấm vào đâu đối với cái dạ dày thèm khát của mỗi người. Nhưng tôi tạm gác chuyện đó sang một bên, để tôi kể tiếp câu chuyện phạm tội của anh Siễm cho các anh nghe. Anh Siễm là người công giáo, biết tôi cũng là người công giáo ngoan đạo và hơn nữa bố tôi là trùm một xứ đạo ở Gia kiệm. Anh ấy hỏi tôi trong trại có ai là sĩ quan linh mục tuyên úy hay không. Tôi trả lời rằng không có. Anh ấy ngồi buồn một lát rồi nói với tôi thế nầy: “Tôi muốn tìm một linh mục tuyên úy để xưng tội nhưng nếu không có thì xin anh, trong tình đạo hữu với nhau, anh nghe tôi nói, may ra tôi bớt ray rứt trong lòng”. Tôi trả lời: “Được, anh cứ nói đi. Tôi rất muốn nghe tâm sự của anh. Chúng ta đều là con của Chúa, chúng ta phải có bổn phận chia sẻ cho nhau niềm hạnh phúc cũng như điều bất hạnh, sự vui mừng cũng như nỗi buồn phiền. Đó là lời phán dạy của Chúa”. Anh ta cám ơn tôi rồi bắt đầu kể: “Tôi là sĩ quan bộ binh ra quân trường rồi về làm phó quận trưởng của một quận rất trù phú. Sau đó tôi được thăng chức lên quận trưởng kiêm chi khu trưởng. Với chức vụ nầy, tôi có thể làm giàu hết sức nhanh chóng nhất là trong đợt đền bù ruộng đất cho điền chủ khi thực hiện chính sách “người cày có ruộng” của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Tôi đã tận tình hướng dẫn cho nông dân được lãnh bằng khoán và cho điền chủ được đền bù thỏa đáng. Vì vậy, không cần phải ăn bẩn, chỉ cần chịu nhận sự đền ơn thực lòng của họ là đủ giàu rồi. Tuy nhiên, tôi không ăn một đồng xu nhỏ của ai. Gia đình tôi sống tằn tiện với đồng lương của tôi. Khi cách mạng vào thì chuyện trước hết là tra hỏi tài sản của tôi. Tôi khai chẳng có gì. Nhà cửa, xe cộ, tất cả đều là của chính phủ, tôi giao nộp cả rồi. Cán bộ cách mạng không chịu tin rằng tôi nghèo khi giữ chức quận trưởng nên tiếp tục tra hỏi tôi đến cả tháng trời cho đến khi tôi đi trình diện học tập mới thôi”.
Kính bỗng dừng câu chuyện và quay sang đề tài khác:
- Ở trại tù Phú quốc, mỗi tổ phân công một người trực luân phiên hàng ngày. Người nầy được về sớm mang thau đi lãnh cơm và cá khô nướng về chia cho mỗi người. Nhà bếp cách chỗ ở một quảng khá xa, đến hai trăm mét, ngang qua một bãi đất hoang có nhiều lùm bụi. Anh Siễm nói với tôi: “Cách nay hai bữa, đến phiên tôi lãnh cơm. Buổi trưa nhưng trời im mát, tôi bưng thau cơm về, hơi nóng của cơm bốc lên mũi làm cho cái bụng đói của tôi cồn cào dữ dội. Nhìn quanh không thấy bóng người, tôi lẻn vào ngồi sau một bụi rậm, cho thau cơm lên hai đùi và bốc ăn lấy ăn để, rồi đứng dậy về trại. Hôm đó phần cơm của anh em ít đi một chút nhưng chẳng ai nói gì. Có ít đi hay không thì cái bụng cũng chẳng bao giờ được no. Nhưng riêng tôi thì no thực sự. Lần đầu tiên trong cả năm nay, tôi được no, có cái cảm giác thích thú trong cơ thể, nhưng đau buốt trong tâm hồn!”.
Giọng Kính trở nên ngậm ngùi:
- Anh Siễm lấy khăn chặm nước mắt. Con người đàn ông rắn rỏi như thế mà ngồi khóc vì ăn vụng, lạ lùng chưa? Anh ấy khịt mũi mấy cái rồi nói tiếp: “Trong bao nhiêu năm, người ta đưa cả núi của đến tận nhà năn nỉ tôi nhận và tôi đều từ chối, thế mà bây giờ tôi nỡ ăn cắp cơm của anh em trong khi mọi người ai cũng đói và phải làm công việc của người tù khổ sai. Tôi muốn chết đi cho đỡ cực lòng”.
Kính lại rít một hơi thuốc lào rồi nói tiếp:
- Nghe Siễm nói như thế, tôi đâm hoảng. Tôi nắm chặt lấy hai vai, nhìn thẳng vào mắt anh ấy và nói: “Anh Siễm, người công giáo không bao giờ được nghĩ đến chuyện tự tử. Đó là điều cấm hết sức nghiêm nhặt của giáo hội. Riêng cái chuyện ăn vụng của anh thì anh chỉ chịu phân nửa trách nhiệm thôi. Khi nhu cầu vật chất bị hạ thấp xuống dưới mức tối thiểu mà con người có thể chịu đựng được thì người ta bị bản năng chi phối, có khi không tự chủ được”. Siễm thở dài: “Lúc đó con người hành động như cầm thú phải không?” Tôi vội trả lời: “Gần đúng như thế. Bản năng là tính chất nguyên thủy do ý Chúa Trời sinh ra cho mọi loài để sinh tồn. Sau đó Chúa đã khiến loài người tự phấn đấu để có hoàn cảnh vật chất lẫn tinh thần ngày càng cao hơn nên sự sống càng tách khỏi bản năng nguyên thủy của cầm thú. Hiện tại người ta đang cố tình triệt bỏ các giá trị tinh thần, đồng thời hạ mức sống của chúng ta xuống quá thấp đến cái độ mà bản năng nguyên thủy vùng dậy và chúng ta không cưỡng nổi. Ở thời đại nầy mà chúng ta bị đẩy vào một cảnh ngộ bi đát như thế thì quả thực người ta quá tàn ác. Tôi cho rằng đó là điều cố ý, một chủ trương của họ để thỏa mãn lòng thù hận của họ đối với chúng ta. Trong việc nầy, anh cũng có tội nhưng anh là một nạn nhân thì đúng hơn là một tội nhân. Chúa hiểu điều đó và tha thứ cho anh.
Định góp ý:
- Anh Kính phân tích sự việc như thế là khá lắm. Sau đó, anh Siễm được an tâm phải không?
- Đúng vậy, anh ấy về chỗ nằm của mình với vẻ mặt thanh thản hơn nhiều.
Tự nãy giờ, Trí ngồi yên bây giờ mới hỏi:
- Nhưng liệu anh ấy có tiếp tục ăn vụng nghĩa là hành động theo bản năng vì cho rằng đó không phải là một lỗi của mình?
Kính cãi lại:
- Tôi có bảo Siễm vô tội đâu nhưng tội của Siễm phát sinh là do người khác cố tình tạo nên hoàn cảnh với đầy ác ý, nên tội nầy được tha thứ. Chắc chắn anh Siễm phải hiểu rằng tội chỉ được tha thứ khi nào người ta không phạm phải nữa.
Định vội nối lời:
- Tôi đồng ý với anh Kính. Con người của anh Siễm biết ăn năn tới mức độ muốn tự tử và phải đi xưng tội với một tín đồ ngang hàng với mình thì nhất định không bao giờ phạm tội nữa. Anh Kính thực đáng khen khi giải quyết được một vấn đề thuộc lĩnh vực tâm linh của một người bạn đáng thương hơn là đáng trách. Từ câu chuyện có tính cá nhân nầy, tôi đang nghĩ đến phạm vi to lớn hơn. Đó là đời sống của nhân dân miền Bắc và sắp tới của nhân dân miền Nam nữa. Từ hai mươi năm nay, chủ nghĩa xã hội đã hạ thấp mức sống của đồng bào miền Bắc đến cái mức mà người chỉ còn nghĩ đến chén cơm manh áo, xem thường tình cảm, truyền thống gia đình và mọi giá trị tinh thần khác. Đó là cách sống gần như theo bản năng cầm thú. Rồi miền Nam cũng sẽ như thế nếu vẫn còn duy trì cái chủ nghĩa xã hội. Thế hệ chúng ta thì vứt đi được rồi, nhưng thế hệ con cháu chúng ta thì sao?
Mọi người im lặng không nói gì thêm cho đến khi bếp lửa tàn và anh em đứng dậy vào nhà.
Đêm Giáng sinh đã đi qua thực buồn.



*
* *



Cuộc sống trong trại diễn ra đều đặn hàng ngày. Nhà cửa đã xong xuôi, mỗi ngày anh em được vệ binh dẫn đi phá rừng. Những thân cây được cưa thành từng đoạn ngắn chất đầy trong các khoảng trống của trại. Xe vận tải vài ngày một lần đến chở đi. Các người lái xe nói rằng đưa những khúc cây nầy về thành phố để làm củi đốt. Những cây dầu, bằng lăng, căm xe, gõ, giáng hương, trắc, cẩm lai, vân vân, tất cả đều thành những khúc củi để đốt lò. Những cành cây thì chất thành đống to, vài hôm sau châm lửa đốt, khói bốc lên bao trùm cả một vùng suốt ngày suốt đêm. Rừng già chung quanh trại dần dần biến thành những khoảng đất trống phẳng phiu, phủ đầy tro bụi.
Buổi chiều, Tân thường ra phía sau trại nhìn qua khe trống giữa hai cây gỗ hàng rào. anh để ý thấy mép rừng càng ngày càng lùi xa và thở dài một cách buồn bã. anh nhớ lại, trong những bài học địa dư xưa kia dạy cho học trò, anh đã ca tụng rừng vàng biển bạc của Việt Nam để gây cho các em lòng yêu nước khi hiểu được giá trị vô song của tài nguyên Tổ quốc mình. Bây giờ, những khu rừng quí giá đó đang bị người miền Bắc vào đây phá tan tành.
Ôi miền Nam thân yêu, ôi Tổ quốc thân yêu!
- Anh Tân, sắp tối rồi, về phòng điểm danh.
Tân giật mình quay lại thấy Định đang đứng bên trong đưa tay vẫy lia lịa. Tân thủng thẳng bước về. Định nói:
- Tới giờ điểm danh rồi, nhanh lên.
Mỗi buổi chiều, trước khi trời tối, anh em phải ngồi ngay ngắn hai bên đường đi trên mép giường để người đại diện gọi là “bê trưởng” đi đếm số người và báo cáo lại cho quản giáo. Sau đó vài người treo mùng lên chui vào, đa số lại phân thành từng nhóm đến những chỗ quen thuộc trong sân để nấu nước trà, nhâm nhi và tâm sự với nhau. Rải rác trong sân, những bếp lửa được nhúm lên, ngọn lửa bập bùng reo vui.
Nhóm của Tân cũng tập họp đông đủ như mọi khi. Sau vài ba câu chuyện rời rạc, Định hỏi Tân:
- Khi nãy, anh ra đứng làm gì sát hàng rào vậy? Gần tới giờ điểm danh tôi nhìn quanh không thấy anh, chạy sang các nhà khác để tìm mà không có, tôi đâm lo.
Tân cười:
- Anh sợ tôi bỏ trốn mà không rủ anh đi theo à? Tôi đứng nhìn cảnh rừng già bị chúng ta tàn phá rồi suy nghĩ vẫn vơ quên cả giờ giấc.
Chuyên hỏi:
- Anh suy nghĩ về điều gì?
- Tôi nhớ, trước khi rời nhà tù Long khánh, quản giáo nói đưa chúng mình lên đây cải tạo bằng lao động để trở thành người lương thiện. Thế mà mấy tháng nay, chúng ta chỉ làm được công việc hủy diệt cả một khu rừng già quí giá. Ở Long khánh thì chúng ta phá nhà, lên đây thì chúng ta phá rừng. Công việc nầy làm cho chúng ta trở thành người lương thiện hay kẻ phá hoại?
Định cười to:
- Thì tôi đã có nói một lần rồi. Cách mạng nói điều gì, chúng ta cứ nghĩ ngược lại là đúng. Nhưng anh nhớ đừng ra đứng gần hàng rào lúc trời sắp tối, rất nguy hiểm. Bộ đội gác bên ngoài có thể bắn chết vì cho rằng anh có ý định vượt ngục.
Vĩ, một người trong tổ, thường ngày rất ít nói cũng góp ý:
- Ừ, anh Tân và tất cả chúng tra nên cẩn thận, người ta có thể giết chết chúng ta dễ dàng như thằng Trị ở trại của tôi trước đây vậy.
Tân tò mò:
- Trị là ai, tại sao chết?
- Trước kia nó là thiếu úy chiến tranh chính trị của sư đoàn Hai mươi mốt Bộ binh, chịu không nỗi sự tẩy não nên phát điên. Nó thuộc về loại điên hiền lành, không đánh đập, không phá phách gì cả nên anh em cứ cho nó đi lang thang từ nhà nầy sang nhà khác, đêm thì ngủ trong nhà, đêm thì ngủ ngoài sân, có hôm thấy nó xuống chuồng heo nằm chung với bầy heo nữa.
Tân chép miệng:
- Tội nghiệp. Thế anh em không báo với quản giáo à?
- Có chứ, nhưng quản giáo không giải quyết. Thế là nó cứ lang thang như con thú hoang. Một hôm nó mon men đến sát hàng rào kế cận một vọng gác. Người bộ đội bảo nó tránh xa hàng rào. Nó nhìn anh ta rồi im lặng quay lại đưa tay lên nắm vào cột trụ và chân thì đặt lên dây kẽm gai. Anh bộ đội hét to một tiếng nữa rồi lên đạn. Một người đứng bên trong nghe tiếng hét và tiếng lên đạn thì hoảng hốt la to: ”Đừng bắn, đừng bắn, nó là thằng điên để chúng tôi dẫn nó vào”. Đùng đùng, hai tiếng nổ liên tiếp vang lên, thằng Trị gục xuống chết ngay.
Tân thốt lên:
- Trời đất hỡi! Thế thằng bộ đội trên vọng gác không biết nó là thằng điên à?
- Sao lại không? Mọi người đều biết nó điên vì nó đi lang thang khắp nơi. Anh em ra mang nó đi chôn, ai cũng khóc. Nó chưa có vợ con gì cả. Cha mẹ nó đều là giáo sư đại học.
Định lắc đầu:
- Con nhà trí thức như vậy thì chịu sao nổi sự tẩy não. Điên là phải!
- Nhưng nó đã chết oan, thực là đau đớn.
Khải, một người khác mới được biên chế về, góp tiếng nói:
- Ở trại tôi trước đây cũng có một người chết oan còn đáng thương hơn nữa. Nó là thằng thiếu úy Đào của một trung tâm huấn luyện ở Nha trang. Nó theo các đơn vị chạy dần về Sài gòn và cuối cùng trình diện học tập chung với tôi. Nó là một đứa hết sức hiền lành, cha chết sớm, chỉ còn mẹ già và một thằng anh mà thôi. Anh nó làm thợ, đã có vợ con, đời sống chật vật thiếu thốn. Mẹ nó buôn bán tảo tần để nuôi nó đi học. Nguyện vọng duy nhất của nó là học hết đại học thì đi làm để nuôi mẹ. Nhưng vừa tốt nghiệp xong thì bị gọi động viên. Nó buồn bực lắm nhưng cũng phải từ giã mẹ để vào quân trường. Lúc nghe tổng thống tuyên bố đầu hàng, chẳng những thằng Đào không buồn mà còn mừng rỡ vì từ nay hết chiến tranh nó được sống trong hòa bình làm thuê, làm mướn để nuôi mẹ nó. Không ngờ chưa kịp làm gì cả thì phải chui đầu vào trại học tập, nói là mười ngày nhưng bị giam giữ vô thời hạn. Có hôm nó nhớ mẹ nằm khóc thút thít. Có lần nó nói với tôi là giữa mẹ và Tổ quốc, nếu buộc phải chọn một thì nó chọn ngay mẹ nó không chút do dự. Ngày thăm nuôi đầu tiên, mẹ nó mang lên cho nó một cái giỏ to tướng với đủ thứ đồ dùng và đồ ăn: áo quần, thuốc men, bánh kẹo, có cả lạp xưởng, cái thứ mà bây giờ bên ngoài quí như vàng. Những ngày sau đó, trong khi anh em ăn uống thỏa thích với những thực phẩm được tiếp tế cho bõ những ngày thiếu thốn thì nó vẫn giữ nguyên những món mà mẹ nó mang lên. Nó vẫn tiếp tục mặc bộ áo quần đã rách bươm chứ không chịu mặc áo quần trong số hàng của mẹ nó. Thức ăn trong các gói thì nó mở ra nhìn rồi gói lại, cột dây cẩn thận. Ngày hai buổi, trưa và chiều, sau khi đi làm lao động về, nó soạn tất cả ra chỗ nằm, ngồi yên, thẩn thờ nhìn từng món một rồi lại cẩn thận xếp thực gọn vào cái bao mà mẹ nó mang lên rồi treo lên vách, ngày nào cũng như ngày nấy. Anh em có người chế giễu, có người khuyên bảo nhưng nó giữ nguyên thái độ khác đời đó. Nó cũng đã tốt nghiệp đại học, cũng đã là sĩ quan của quân đội, nghĩa là một trí thức và bắt đầu có một địa vị trong xã hội cũ, thế mà nhìn nó ăn mặc rách rưới, lom khom bên các đồ vật mà nó nâng niu một cách thành kính thì tôi có cảm tưởng nó như một con người cổ đại đang thờ phụng các linh vật vậy. Ở đây có nhiều chuyện thực lạ thường tôi không hiểu nổi.
Định ngắt lời:
- Tôi có đọc một quyển sách tâm lý nói về các nhà tù. Cái không gian chật hẹp và tù túng, cái thời gian kéo dài lê thê dễ làm cho người ta khủng hoảng về tâm lý dẫn đến những hành động thất thường. Người bị giam cầm càng cho rằng mình vô tội thì càng dễ bị khủng hoảng.
- Vâng, nó bị khủng hoảng và kết cục thực là bi thảm.
- Bi thảm thế nào?
- Một buổi chiều, cơm nước xong rồi, thằng Đào soạn các đồ vật ra như thường lệ, bỗng tiếng kẻng báo động vang lên vì một cảnh vệ báo cáo hình như có tù vượt ngục. Lập tức nhà tù ra lệnh tập họp khẩn cấp để điểm danh. Theo qui định từ trước, mỗi khi lệnh báo động và tập họp được ban ra, anh em phải nhanh chóng lên hội trường, không được chậm trễ. Lần nầy cũng vậy, mọi người nhanh chóng ngồi ngay vào hàng, hai tay đặt lên gối, cúi đầu xuống và im lặng tuyệt đối. “Bê trưởng” và quản giáo đi đếm số người. Bỗng có tiếng la to ở gian nhà kế cận hội trường. Đó là giọng quen thuộc của một quản giáo: “Tại sao mày không đi tập họp? Mày đang chuẩn bị đồ đạc để trốn trại phải không?” Vài giây sau, cũng chính cái giọng nầy la bai bải: “Thằng nầy, ối cái thằng nầy nó giết tôi. Cứu với, nó giết tôi”. Có hai tiếng súng nổ vang lên thực to làm cho anh em trong hội trường hoảng hốt và bắt đầu nhốn nháo. Ông quản giáo trưởng thét to trong loa cầm tay: “Tất cả ngồi yên và im lặng. Nếu ai không tuân lệnh thì bị bắn bỏ”. Nhiều bộ đội chạy rầm rập về phía có tiếng súng. Vài phút sau, một ông quản giáo từ dưới đó đi lên, một tay che mắt, một tay vuốt lại áo quần, phía sau một chú bộ đội cầm súng đi theo. Ông quản giáo trưởng bước ra. Hai người dừng lại bên ngoài hội trường và nói nhỏ với nhau. Sau đó hai người vào hội trường, đứng sau bục thuyết trình. Không khí thực im lặng và căng thẳng trong khi bên ngoài, nhiều bộ đội súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Ông quản giáo trưởng nói to trong loa: “Các bê trưởng báo cáo sĩ số”. Lần lượt các đại diện báo cáo đủ, chỉ thiếu thằng Đào ở ‘bê’ tôi mà thôi. Quản giáo trưởng tằng hắng trong loa rồi lên tiếng: “Trong số các anh có một người ngoan cố không chịu cải tạo lại mưu đồ trốn trại. Hắn đang chuẩn bị đồ đạc thì bị quản giáo phát hiện nên nó đã tấn công quản giáo và gây thương tích. Nó đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ để sát hại nhân dân. Bây giờ được đảng và nhân dân khoan hồng đưa về đây nuôi nấng tử tế để học tập cho trở thành người tốt. Thế mà nó vẫn ngoan cố mưu đồ trốn trại lại toan sát hại cả quản giáo là người được đảng cử đến để dạy dỗ các anh. Đó là một tên ngoan cố vẫn tiếp tục chống lại cách mạng và có hành vi toan giết chết cán bộ. Theo các anh, tên ngoan cố đó có đáng tội tử hình hay không?”. Lão nói xong, cả hội trường im phăng phắc. Lão gằn giọng: “Thế nào, các anh trả lời đi, nó có đáng tội tử hình không?”. Mọi người vẫn im lặng nhìn trân trân về phía trước. Một lần nữa quản giáo trưởng hét to: “Tôi nói, tên ngoan cố đó đáng tội tử hình, ai không đồng ý thì đưa tay lên. Tôi nhắc lại, ai không đồng ý tội tử hình của nó thì đưa tay lên cho biết ý kiến”. Lại vẫn im lặng, im lặng đến độ nghe cả tiếng chim ríu rít bên ngoài gọi nhau về tổ. Giọng quản giáo trưởng dịu lại: “Các anh không ai phản đối có nghĩa là đồng ý tên ngoan cố đó đáng tội tử hình. Nó sẽ bị xử tử đúng theo nhận định và nguyện vọng của các anh. Thôi được rồi, bây giờ ban văn nghệ của các anh đâu? Mời ban văn nghệ lên hát , các anh cùng hát chung để phấn khởi lên nhé. Mời ban văn nghệ lên nào. Các anh muốn ca bài gì? Tôi đề nghị bài ‘Bác cùng chúng cháu hành quân’. Nào hát lên đi!”
Khải ngừng nói, thở dài. Định hỏi:
- Thế là anh thiếu úy Đào chết phải không?
Khải gật đầu:
- Nó bị người bộ đội bắn chết ngay phát đạn đầu tiên. Về sau có người thương nó quá nên tìm cách điều tra.
Định hỏi:
- Làm sao điều tra được?
- Anh ấy hối lộ cho một chú cảnh vệ để nhờ tìm hiểu sự thực và nói lại.
Tân hỏi ngay:
- Sự thực thế nào?
- Lúc có lệnh tập họp thì thằng Đào thu mọi thứ vào bao. Nó làm quá cẩn thận nên khi quản giáo và bộ đội vào kiểm tra thì thấy nó còn lom khom trên giường. Quản giáo bảo nó đi tập họp ngay thì nó xin quản giáo cho nó dọn dẹp mọi thứ trước đã. Quản giáo không chịu, mắng chửi nó và nhảy lên đá tung những thứ mà nó sùng kính như linh vật của người tiền sử. Thế là nó đứng lên cho quản giáo một đấm thực mạnh vào mặt làm cho ông nầy ngã xuống đất, la cầu cứu. Chú bộ đội lên đạn và bóp cò hai phát liền. Lúc đó mũi súng cách đầu thằng Đào chưa đầy hai mét. Thế là chấm dứt một kiếp sống đầy đau khổ!
Mọi người nghe xong đều thở dài.



*
* *




Mùa nắng đi qua, mùa mưa ngập ngừng đến với một trận mưa to và sấm chớp đầy trời. Rừng già bị triệt hạ một vùng rộng lớn quanh trại và đất đã được dọn sạch. Nước mưa và tro làm cho mặt đất có màu xám đen trông thực mầu mỡ. Anh em tù nhân được lệnh chuẩn bị làm mùa. Trước khi bắt tay vào việc, anh em được trại cho phép gặp gia đình trong một đợt thăm nuôi. Mỗi người được gửi một lá thư về nhà để thông báo cho gia đình ngày bắt đầu đợt thăm nuôi, đồng thời xin gia đình mang lên những hạt giống để gieo trồng.
Lần nầy thư phải dán tem. “Bê trưởng” bị bệnh nên nhờ Định đi thu tiền để nạp cho quản giáo. Khi trở về, Định lôi Tân ra ngoài hàng hiên và nói nhỏ:
- Anh Tân, có chuyện nầy lạ và buồn cười lắm.
- Chuyện gì vậy?
- Anh em mình mỗi người phải góp gấp đôi số tiền tem cho mỗi bao thư.
- Tại sao anh biết? Không lẽ quản giáo ăn chận của anh em mình sao? Số tiền đâu có đáng là bao.
- Tôi biết là vì tuần trước khi đi đốn tre về, tôi ghé vào nhà dân xin nước uống và thấy một lá thư trên bàn, rõ ràng có con tem dán vào ghi hai hào. Bây giờ quản giáo bảo tôi thu mỗi người bốn hào là gấp đôi. Tôi bực quá nên bậm gan hỏi quản giáo lý do thì ông giải thích rằng chúng ta là người đi cải tạo chứ không phải là công nhân viên nhà nước nên phải mua tem “giá ngoài” chứ không phải “giá trong”. Tôi hỏi “giá ngoài, giá trong” là thế nào thì quản giáo giải thích, giá trong là giá chính thức, giá ngoài là giá chợ đen. Mỗi tháng, mỗi cán bộ công nhân viên tức là cán bộ và công chức được nhận một số hàng hóa thay cho một phần lương. Số hàng hóa nầy được mang ra ngoài bán chợ đen nếu không dùng đến.
Tân thắc mắc:
- Hàng hoá là những thứ gì?
- Đủ mọi thứ. Một thước vải, một cục xà bong, một cây kim may, vài con tem gửi thư, một số thuốc trị bệnh.
- Thuốc trị bệnh? Nhưng là thuốc gì? Nếu bệnh thì phải có bác sĩ khám mới biết thuốc gì cần dùng chứ.
- Chẳng cần. Thuốc đau bụng, thuốc nhức đầu, thuốc trị sốt rét, thuốc ho, thuốc sát trùng, thuốc trụ sinh, vân vân, tháng nầy thứ nầy, tháng sau thứ kia.
- Vậy trong tháng, được nhà nước phát thứ thuốc gì thì chỉ được bệnh đó thôi à?
Định cười:
- Có lẽ vậy. Chủ nghĩa xã hội mà. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, dân phải nhất nhất tuân theo sự quyết định của đảng và nhà nước, không còn chút tự do nào nữa. Lành mạnh hay bị bệnh cũng phải theo sự lãnh đạo của đảng. Đảng cho phép bệnh gì thì chỉ được có bệnh đó mà thôi! Tháng nầy đảng cho phép bệnh nầy nên phát thuốc nầy, tháng sau, đảng cho phép bệnh kia nên phát thuốc kia, cứ thế mà thi hành. Ở miền Nam bây giờ, người ta cũng đã áp dụng rập theo khuôn kiểu của miền Bắc. Thôi, đợi mười ngày nữa, chúng ta được gặp gia đình thì hiểu rõ hơn.

Mười ngày trôi qua khá nhanh. Anh em lần lượt được ra gặp gia đình và nhận hàng tiếp tế. Theo lời ban chỉ huy trại, vì anh em cải tạo có tiến bộ nên kỳ nầy các qui định về thăm nuôi được nới rộng. Anh em được gặp thân nhân suốt ngày và ngồi bất cứ chỗ nào trong khu thăm nuôi rộng lớn.
Tân vẫn được gọi tên ngày đầu tiên. Thùy Liên đi một mình không dẫn con theo. Thấy chồng buồn vì không được gặp con để ôm chúng vào lòng nên Thùy Liên giải thích:
- Thùy Dung và Hòa Bình vừa mới bị bệnh sởi, lành rồi nhưng còn yếu, đường sá lại xa, phương tiện giao thông rất khó khăn, em ngại hai con không đủ sức để đi.
Tân lo lắng:
- Hai con có ốm lắm không?
- Bình thường đã ốm, bệnh xong lại ốm thêm. Tình hình bên ngoài càng ngày càng xấu hơn, mọi người đều thiếu ăn, ngoại trừ cán bộ đảng viên.
- Vậy sao? Chuyện buôn bán của em thế nào?
- Gay go lắm. Nhưng anh đừng quá lo lắng cho mẹ con em. Vận rủi của đất nước mà, mọi người đều khổ như nhau. Sài gòn bây giờ rất tiêu điều, chẳng còn tí gì đáng gọi là hòn ngọc Viễn đông nữa. Những con đường trước kia rộn rịp tấp nập người mua kẻ bán, khách du lịch chen vai thích cánh thì bây giờ vắng hoe. Đường Lê Lợi, đường Tự do, đường Nguyễn Huệ ở Sài gòn, đường Đồng Khánh, đường Tổng đốc Phương ở Chợ lớn đều như nhau, mọi căn phố đều đóng cửa im ỉm, trên mặt đường chỉ có vài chiếc xe đạp mà thôi. Trong cái cảnh hoang tàn vắng lặng đó, những chiếc loa gắn ở một vài ngã tư đường phát ra những lời ca tụng chủ nghĩa xã hội nghe rõ mồn một.
- Có lẽ ngoài Bắc cũng khổ như trong Nam bây giờ vậy thôi.
- Khổ hơn nhiều, khổ gấp bội. Từ khi đất nước thống nhất đến giờ, dân ngoài Bắc nườm nượp kéo vào Nam. Họ vô cùng xanh xao, rách rưới và nghèo khổ, trông thấy thực đau lòng. Ngoài đó đồng bào mình đều nói với nhau rằng vào Nam là vào thiên đường nên ai cũng muốn vào đây để hưởng. Có gia đình vào đây mà còn vác theo một cái giường tre cũ kỹ đã được tháo rời. Họ bảo đó là một phần gia tài của họ. Thảm thương không thể nào tưởng tượng được
Tân ngạc nhiên:
- Ủa, tại sao kỳ trước, em bảo dân Bắc cho rằng dân Nam quá cơ cực vì bị Mỹ bóc lột nên phải vào đây để giải phóng?
- Đó là điều xảy ra trước đây và vài tháng sau ngày “giải phóng”. Nhưng sự thực rồi cũng bị phơi bày, dù đảng và nhà nước ra sức ém nhẹm. Sau ngày thống nhất, dân hai miền đều muốn đi thăm cái phần đất nước đã bị chia cắt hơn hai mươi năm rồi nhưng lực lượng công an ra sức ngăn cản. Chỉ có cán bộ đi công tác và những người đặc biệt được đảng ưu ái mới được ra Bắc hoặc vào Nam. Nhưng rồi lằn ranh chia cắt không còn nữa thì làm sao ém nhẹm sự thực mãi được. Thế là cả một làn sóng di dân ồ ạt đổ vào Nam để hưởng một chút cái “thiên đường” mà đế quốc Mỹ để lại.
- Có ai trong Nam xin ra Bắc để sinh sống và hưởng “thành quả của chủ nghĩa xã hội” không?
- Chẳng ai điên rồ làm chuyện đó. Chỉ có con buôn, đi đi về về mà thôi. Chính cái thành phần không kiểm soát nổi nầy làm vỡ tung nổ lực ém nhẹm sự thực của đảng. Vì thế, đảng rất ghét bọn con buôn nầy nhưng không làm gì họ được vì đa số là vợ, là mẹ, là chị em của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ đảng viên ngành công an thì chẳng ai dám đụng đến. Công an mạnh lắm, họ chi phối mọi ngành sinh hoạt của dân chúng. À, vợ của anh Vinh cũng là con của một ông công an ở ngoài Bắc.
Tân tỏ ra ngạc nhiên:
- Vậy sao? Em có thường gặp anh Vinh không?
- Dạ có. Em có đến thăm anh chị Vinh đến ba lần và anh Vinh có trở lại thăm mẹ con em một lần. Anh ấy tỏ vẻ thương hai đứa bé lắm và rất mong anh trở về để anh em gặp nhau.
Tân chớp mắt cảm động:
- Vợ con anh ấy thế nào? Kỳ trước, em nói anh Vinh có hai đứa con trai phải không?
- Dạ phải, một đứa mười hai tuổi, một đứa tám tuổi.
- Chúng nó dễ thương không?
Thùy Liên im lặng khá lâu. Tân nhắc lại câu hỏi. Nàng cười gượng rồi nói:
- Em nói thực anh đừng buồn nhé. Chúng nó không dễ thương chút nào.
Tân thở dài:
- Còn chị Vinh, người thế nào, tính tình ra sao?
Thùy Liên ngập ngừng:
- Thôi em không dám nhận xét gì đâu. Khi nào anh về thì tự anh biết.
- Anh đoán rằng em không có cảm tình với chị Vinh phải không? Có phải vì chị ấy con ông công an?
- Không. Công an thì chẳng có liên can gì đến tình gia tộc. Nhưng mà…. Thôi, em không thể nói gì thêm.
Tân nhíu mày, vẻ bất an lộ rõ trên mặt:
- Nhưng chị ấy đối xử với em và các con thế nào? Em phải cho anh biết chứ. Anh Vinh, em và hai con là bốn người thân yêu nhất của đời anh. Chị ấy là vợ của anh Vinh mà.
- Thôi, anh nài nỉ quá, em cũng phải nói chút ít về chị ấy. Tuy nhiên em tránh trình bày nhận định chủ quan mà chỉ mô tả một sự việc nho nhỏ đã xảy ra thôi. Em và hai con đến thăm tất cả ba lần vào chiều tối và cả ba lần đều gặp chị ấy. Lần đầu tiên chị ấy tiếp em với vẻ mặt lạnh nhạt và kênh kiệu của người chiến thắng và giàu có. Em cảm thấy bị xúc phạm. Anh đừng rầy la em nhé. Em vẫn muốn kết tình chị em với chị Vinh lắm chứ, vì em là vợ anh mà. Nhưng anh cũng hiểu em là con gái miền Nam. Người miền Nam thì rất hiếu khách nhưng cũng rất tự trọng, thấy ai tỏ vẻ bất thân thiện với mình thì chẳng muốn gặp mặt nữa. Có lẽ, anh Vinh thấy điều đó vì anh cũng gốc miền Nam. Khi em ra về, anh ấy tiễn đến cổng và nói nhỏ với em: “Lần sau đến thăm, cô nên có món quà nho nhỏ tặng chị”. Em ra về, vừa đau khổ, vừa mừng vì đã hiểu được chút nào tính tình của chị dâu mình để có thể kết thân. Em suy nghĩ luôn mấy hôm xem tặng chị ấy món quà gì hay nhất. Đối với dân miền Nam lúc nầy, quà tặng tốt nhất là một kí gạo, một miếng thịt hay một con cá.
Thùy Liên ngừng lại moat chút rồi nói tiếp:
- Sao anh nhìn em như thế, anh cho lời nói của em là bịa đặt hay thái quá phải không?
- Không đâu. Anh chỉ ngạc nhiên về những thứ quà mà em kể đó thôi. Em cứ nói tiếp đi.
- Dạ, đúng như vậy, anh ngạc nhiên cũng phải. Trước ngày “giải phóng”, quà như thế thì chỉ dành để cho ăn mày thôi, nhưng bây giờ thì đó là những món quà người ta tặng cho người mình yêu quí. Bây giờ ai cũng đói và thèm ăn. Cái ăn là trên hết. Đó là cái giá mà miền Nam phải trả để được “giải phóng”. Một chị bạn cùng buôn bán với em kể rằng một hôm đi ngoài đường, tình cờ gặp một ông thầy già trước kia dạy lớp mười hai của chị ấy đi thất thểu ngoài đường, trông ốm nhom và bệ rạc lắm. Chị mừng quá mời ông thầy già khả kính vào tiệm, kêu một tô hủ tiếu. Nhìn ông giáo sư cũ của mình ăn một cách ngon lành, thấy thương quá. Sau đó chị mua cho thầy một điếu thuốc đầu lọc và chia tay. Nhìn cái dáng cao gầy của thầy lủi thủi đi lẫn với bộ hành trên đường phố, nhớ lại cái vẻ đạo mạo của thầy trước đây trên bục giảng, chị ấy suýt bật khóc.
Thùy Liên kể dài dòng làm Tân hơi sốt ruột:
- Thế rồi em mua tặng cho chị Vinh mấy món thức ăn à?
Thùy Liên lắc đầu:
- Em đâu có khùng mà làm công việc đó. Dân chúng mới đói chứ cán bộ có tiêu chuẩn của nhà nước mà. Miền Nam của mình trước kia thì bình đẳng còn bây giờ phân chia giai cấp rõ rệt lắm. Cán bộ cỡ như anh chị Vinh thì tiêu chuẩn hàng tháng cao lắm. Thịt cá do nhà nước cung cấp hay bán rẻ, gia đình họ ăn không hết phải đem bán bớt đi.
Tân ngạc nhiên:
- Họ đưa ra chợ bán à?
- Không, họ nhờ cửa hàng phân phối bán giúp. Nhiều cán bộ không cần tiền thì đem về cho chó berger ăn.
- Trời hỡi, sao lại có chuyện như thế được?
- Đúng như vậy đó. Nhưng thôi anh ạ, cũng đừng nên buồn phiền làm gì, đó cũng là lẽ công bằng. Họ cực khổ quá nhiều mấy chục năm rồi, nay cho họ sướng để bù lại. Mình ở miền Nam sung sướng mấy chục năm rồi, nay khổ để bù lại. Chỉ có điều khó chịu là họ vừa hưởng vừa rêu rao đạo đức cách mạng và tự xưng là đầy tớ của nhân dân. Người miền Nam nghe luận điệu đó thì bực mình và chán ghét vô cùng. Nhưng thôi, số phận của đất mước mình đến cái giai đoạn bỉ cực nầy thì đành chịu thôi. Nghiệp chung, mọi người hai miền phải gánh chịu. Thôi để em trở lại việc tặng quà cho chị Vinh.
- Ừ, em nói ngay chuyện đó đi. Anh thấy bây giờ em ăn nói dài dòng hơn trước nhiều, có lẽ bị ảnh hưởng của cán bộ phải không?
Thùy Liên cười khúc khích:
- Ngoài đời, người dân gọi cán bộ là những người nói dai, mở miệng là tuôn ra đường lối chính sách tràng giang đại hải. Dân miền Nam bây giờ cũng nói nhiều, không phải bắt chước cán bộ đâu mà nói cho đỡ tức.
- Và nói để tranh thời gian và không gian cho cán bộ bớt tuyên truyền đi.
Hai vợ chồng nhìn nhau cười vui vẻ. Tân nhắc:
- Nhập đề hai ba lần rồi. Bây giờ, nói cho anh biết em tặng chị Vinh món gì?
- Em tặng chị ấy một cây son thoa môi và một xấp vải may áo dài. Anh có nhớ không, trước ngày “giải phóng”, trong lần kỷ niệm sau cùng ngày cưới của mình, anh mua cho em một xấp vải Tô châu tuyệt đẹp, em thấy mắc tiền quá nên chưa dám đưa ra tiệm may. Chị Bạch Mai thì cho em một cây son và một hộp phấn thoa mặt của Pháp chính hiệu. Hộp phấn thì em đang dùng dở dang, cây son thì còn nguyên vẹn.
Tân nhìn vợ bằng cặp mắt ái ngại:
- Anh biết em quí mấy thứ đó lắm mà. Bây giờ làm sao sắm lại được cho em.
Thùy Liên cười thực tươi:
- Sắm cho em làm gì nữa. Đối với thân phận chúng mình bây giờ, những món đó cao hơn cả đồ xa xỉ nhiều lắm.
Thùy Liên vỗ nhẹ vào má của chồng, vừa cười vừa nói:
- Sau nầy, anh rán “phấn đấu” trở thành cán bộ cấp tỉnh hay cấp trung ương thì sắm lại cho em mấy món đó.
Tân nhìn vợ, lắc đầu:
- Em ăn nói khôi hài mà dễ thương quá!
Thùy Liên trở lại vấn đề tặng quà cho chị dâu:
- Anh có biết tại sao em chọn hai món đó làm quà tặng không?
- Vì đàn bà nào cũng thích trang điểm.
Thùy Liên gật đầu:
- Dạ phải. Với chị Vinh điều đó càng quan trọng hơn.
- Tại sao vậy?
- Tại vì chị ấy….chị ấy không được xinh đẹp lắm. Đàn bà càng thiếu nhan sắc thì nhu cầu trang điểm càng cao.
- Sao? Chị ấy xấu lắm à?
Thùy Liên không trả lời mà hỏi lại:
- Lúc còn trẻ, anh Vinh đẹp trai lắm phải không?
Tân trả lời một cách sốt sắn:
- Phải, đẹp trai. Hơn hai mươi năm rồi nhưng anh còn nhớ rõ gương mặt, dáng đi đứng của anh ấy.
Thùy Liên ngập ngừng:
- Về phương diện đó, anh Vinh và chị Vinh khác nhau quá xa.
Tân thong thả nói:
- Theo anh, điều đó chẳng quan trọng. Sắc đẹp đâu phải là điều kiện tuyệt đối cần thiết cho hạnh phúc gia đình. Rồi chị ấy có nhận quà của em không?
- Có, em và hai con đến tặng quà và được chị ấy đón tiếp niềm nở khác hẳn lần trước.
- Rồi thôi, em không thích lui tới nữa, có đúng không? Anh hiểu cái tính hiền lành thân ái nhưng cương trực của em.
- Có, em có đến lần thứ ba cách đây mấy hôm để báo cho anh Vinh biết em đi thăm anh. Anh Vinh có vẻ xúc động. Anh ấy muốn gởi cho anh một món tiền nhưng em không nhận. Em đoán anh ấy không có nhiều tiền đâu. Nhìn qua gia đình, em biết chính xác ai là người nắm tài chính trong nhà.
Tân không nói gì, đưa mắt nhìn ra xa. Thùy Liên nắm chặt tay chồng đưa lên môi mình:
- Anh Tân, em nói chuyện làm anh buồn phải không? Em xin lỗi anh.
Tân vuốt tóc vợ:
- Buồn thì buồn, chẳng sao. Có lẽ sau ngày “giải phóng”, ở miền Nam chẳng còn chuyện gì vui để người ta nói với nhau.
- Dạ phải, ở Sài gòn có tổ chức nhiều buổi lễ thực rình rang, nhưng chỉ có ồn ào và xô bồ chứ chẳng thấy vui gì cả.
Thùy Liên im lặng một chút rồi chợt ngẩng lên nhìn mặt chồng:
- Anh Tân, cách nay ba tháng, anh Đảnh có đến tìm em.
Tân giật mình:
- Anh Đảnh?
- Dạ, anh Đảnh lúc trước hoạt động cho Việt cộng, cùng tổ chức với anh đó.
- Vậy hả? Anh ấy bây giờ ra sao?
- Anh ấy ở ngoài Bắc được vào đây công tác. Anh ấy kể với em rằng, lúc trước được đưa ra Bắc rồi được cử đi học ở Đông Âu.
- Bây giờ là cán bộ cao cấp?
- Chắc chắn là vậy. Anh ấy đến bằng xe du lịch có tài xế lái.
- Vậy à, to nhỉ! Anh ấy có nói tìm anh để làm gì không? Để thanh toán?
Thùy Liên cười:
- Không phải đâu. Anh ấy tỏ ra còn có cảm tình với anh nhiều lắm. Anh ấy bảo rằng trở về miền Nam, nhớ lại biết bao kỷ niệm, nhất là thời hoạt động cho sinh viên học sinh với anh. Có hai người mà anh ấy muốn tìm gặp là chị Bạch Mai và anh.
- Tìm Bạch Mai? Anh ấy có vợ chưa?
- Có vợ và ba con rồi.
- Thế tìm Bạch Mai để làm gì?
- Để xem thằng con của anh ấy bây giờ ra sao và nếu cần thì anh ấy hết lòng giúp đỡ. Nghĩ cũng tội, dù không nuôi dưỡng nhưng cũng là giọt máu của mình.
Thùy Liên kể tiếp:
- Anh Đảnh biết nhà của chị Mai nên đến đó tìm. Nhà đã cấp cho một cán bộ rồi. May mắn, còn hàng xóm cũ, họ chỉ anh ấy đến nhà mình. Nghe nói đến tên anh và là bạn thân của chị Bạch Mai nên anh Đảnh biết và mừng rỡ cho xe lái qua ngay. Cũng may, lúc đó em có ở nhà.
Tân lặp lại câu hỏi khi nãy:
- Anh ấy muốn tìm anh để làm gì?
- Đó cũng điều em thắc mắc khi tiếp chuyện với anh ấy. Anh Đảnh hỏi anh đi đâu rồi. Em nói anh đi học tập cải tạo. Anh ấy có vẻ ngạc nhiên nên hỏi em: “Anh Tân là sĩ quan ngụy à?” Tự nhiên em thấy nổi giận trong bụng ngay lập tức. Từ khi anh đi học tập, em luôn luôn tức giận khi nghe ai xúc phạm đến danh dự của anh. Sĩ quan ngụy, quân đội ngụy! Đó là những từ mạ lỵ có tính hạ cấp do Hà nội đưa vào. Em cố kìm chế để giữ vẻ thản nhiên và hỏi anh ấy: “Có lẽ anh đi tìm thăm một đồng chí cũ. Nếu biết trước anh Tân không còn đi theo cách mạng và trở thành sĩ quan của chế độ thù nghịch thì anh đâu có đi tìm làm gì phải không?” Anh Đảnh hơi giật mình nhưng cũng mỉm cười và trả lời: “Chị nghĩ về tôi như thế à? Không, tôi đoán biết anh Tân giã từ cách mạng từ lần cuối cùng tôi gặp anh ấy trong cái nhà kho ở Chợ lớn. Tôi không đi tìm đồng chí mà tìm một người bạn cũ. Hiện nay tôi có quá nhiều đồng chí còn bạn thực sự thì chẳng có mấy người. Tôi vẫn còn quí mến anh Tân lắm. Giữa chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm trong một quãng đời đẹp nhất, đó là thời gian giữa tuổi thơ ấu và tuổi trưởng thành”. Em rất ngạc nhiên khi nghe lời nói đó. Trước mặt em là cái ông cán bộ cộng sản đội nón cối màu xanh của bộ đội nhưng lời nói không phải là luận điệu tuyên truyền nhàm chán mà là những ý nghĩ vừa có tình người lại vừa có tính lãng mạn nữa.
Tân tiếp lời:
- Anh cũng ngạc nhiên khi nghe em kể điều đó. Xưa kia anh Đảnh rất cuồng tín đối với chủ nghĩa cộng sản. Có lẽ tuổi tác rồi sự chứng kiến cái xã hội xã hội chủ nghĩa miền Bắc và Đông Âu mà anh ấy mới thấy đâu là thực, đâu là hư, đâu là chân lý, đâu là ngụy tạo, đâu là đáng yêu, đâu là đáng ghét trong cuộc đời. Anh ấy có nói gì thêm không?
- Có, nhiều lắm.
- Có nói gì về anh không?
- Có, anh Đảnh nhắc lại khi anh bị bắt vào Catinat và bị tra khảo thì anh đã chịu đựng một cách kiên cường và bảo vệ được toàn bộ các đồng chí cùng cơ sở hoạt động bên ngoài. Dù sau khi ra tù, anh không hoạt động cho cách mạng nữa nhưng các đồng chí vẫn không quên anh. Anh Đảnh hỏi có phải anh là sĩ quan biệt phái cho bộ giáo dục không? Em ngạc nhiên hỏi sao anh biết thì anh ấy bảo rằng lúc gặp anh lần cuối cùng thì anh chuẩn bị thi vào đại học sư phạm. Anh Đảnh nói rằng anh thi thì nhất định phải đậu vì anh là cán bộ thông minh nhất của thành đoàn lúc bấy giờ. Em bảo rằng anh chỉ thực sự làm sĩ quan trong bốn năm thôi rồi sau đó trở về dạy học nghĩa là không cầm đến cây súng nữa, như vậy hi vọng sẽ được cách mạng trả tự do sớm hơn các sĩ quan khác. Anh Đảnh lắc đầu. Anh ấy bảo rằng cán bộ miền Nam thì hiểu rõ vấn đề biệt phái nhưng mấy ông lãnh đạo miền Bắc cứ nhất mực cho rằng biệt phái là người của cơ quan tình báo Mỹ. Lý do là ở miền Bắc, sĩ quan quan biệt phái là những đảng viên cốt cán được quân ủy giao cho sứ mạng đặc biệt ở cơ quan khác. Em nghe nói thì lo lắng quá.
Tân an ủi:
- Thôi, em đừng lo nghĩ làm gì cho mệt xác. Chuyện gì phải đến thì sẽ đến, có lo cũng chẳng ích gì. Anh Đảnh còn nói gì thêm nữa không?
- Có, anh ấy hỏi thăm công việc của em hiện nay. Khi nghe em nói đi buôn thì anh ấy nhíu mày có vẻ không bằng lòng. Anh Đảnh giải thích rằng tiểu thương là cái thành phần mà đảng rất ghét. Em hỏi tại sao thì anh ấy giải thích rằng nếu là thương gia cỡ lớn nghĩa là có cửa tiệm như của chị Bạch Mai trở lên thì đảng và nhà nước chụp cho cái mũ tư sản là đánh cho ngã quị ngay và tịch thu tài sản. Còn tiểu thương như em thì chẳng biết chụp cho cái mũ gì để đánh mà có đánh thì cũng chẳng tịch thu được bao nhiêu. Thành ra rất khó dẹp được tiểu thương, nhưng trước sau gì cũng phải dẹp. Em hỏi anh Đảnh tại sao phải dẹp tiểu thương thì anh ấy cười bảo rằng đảng phải lãnh đạo mọi sinh hoạt trong xã hội. Muốn được thế, đảng phải làm sao cho mọi người phải lệ thuộc kinh tế vào đảng.
Tân nghe nói không tự chế được, phải ngắt lời:
- Đảng cũng như người dạy thú. Bắt những con thú chịu đói khát rồi đưa cục thức ăn ra nhử, thế là thú phải ngoan ngoãn làm theo người dạy.
Thùy Liên mỉm cuời:
- Thời buổi nầy, anh không nên nói như thế, nguy hiểm lắm.
- Thôi được rồi. Từ nay anh sẽ khóa cái miệng anh lại. Khuyên em đừng làm tiểu thương, thế rồi anh Đảnh đề nghị em làm cái gì để kiếm tiền mà nuôi con?
- Anh ấy đề nghị em đi làm việc cho nhà nước.
- Là làm gì?
- Thứ nhất là muốn về cơ quan anh ấy để làm việc thì anh ấy sẽ đề nghị phòng tổ chức nhận ngay.
- Cơ quan gì?
- Em đâu có biết và em cũng không hỏi vì em đâu có bằng lòng đề nghị đó.
- Còn thứ hai?
- Đề nghị thứ hai là trở lại nghề cũ của em là y tá. Anh ấy có thể giới thiệu em vào một bệnh viện nào đó. Em từ chối.
Tân nhìn sững Thùy Liên:
- Tại sao vậy?
- Em muốn quên đi những ngày tận tụy săn sóc thương binh. Anh còn nhớ cái giường bệnh của quân y viện Cần thơ, nơi anh nằm để cho em thay băng cho anh không? Cái hình ảnh đó, cái nghề nghiệp đó, em muốn vĩnh viễn đưa chúng vào quá khứ ở vị trí cao sang nhất trong ký ức của em nên không muốn trở lại nghề cũ để làm kế sinh nhai, nhất là trong giai đoạn nầy. Cuối cùng, anh Đảnh bảo rằng em có thể chuyển sang nghề dạy học là nghề của anh. Nếu bằng lòng thì anh ấy có thể lo liệu cho, vì anh ấy có quen với mấy vị lãnh đạo ngành giáo dục của thành phố. Nghĩ đến cái nghề mà anh yêu thích, em muốn nhận lời anh Đảnh nhưng thắc mắc rằng mình chưa hề được đào tạo về sư phạm. Anh Đảnh bảo rằng không lo, rồi sẽ được bồi dưỡng nghiệp vụ sau khi vào ngành. Trước khi ra về, anh ấy còn cho em địa chỉ để em đem đơn, bằng tú tài và sơ yếu lý lịch đến cho anh ấy đích thân đem đi làm việc với các “đồng chí” trong ban lãnh đạo sở giáo dục.
- Em đi nạp chưa?
- Không, em phải hỏi ý kiến anh trước đã chứ. Anh có bằng lòng thì em mới nhận lời. Tuy nhiên, lúc đó em suy nghĩ mãi mà không tìm ra cách nào để hỏi ý kiến của anh.
- Bây giờ hỏi được rồi. Anh bằng lòng, em về nạp đơn ngay đi.
Thùy Liên lắc đầu:
- Không, bây giờ thì khác rồi. Em không bao giờ nạp đơn xin đi dạy đâu. Em dứt khoát không theo cái nghề dạy học của anh .
Tân nhíu mày:
- Tại sao vậy? Em chê nghề của anh à?
Thùy Liên lắc đầu:
- Ngược lại, em quí vô cùng vì đó là nghề của người chồng yêu thương của em mà. Và vì quá quí trọng nên em từ chối đi dạy. Để em giải thích cho anh rõ. Thực là dường như có một sự sắp đặt mầu nhiệm nào đó cho quyết định dứt khoát của em. Đúng một ngày sau khi anh Đảnh đề nghị em đi dạy thì anh chị Tấn đến thăm.
- Anh chị Tấn? À, cả hai vợ chồng cùng dạy ở trường của anh trước kia?
- Vâng đúng vậy. Hai năm nay, từ khi anh đi học tập, các thầy cô đồng nghiệp của anh còn ở lại Việt Nam thỉnh thoảng có đến thăm mẹ con em và tặng quà cho hai con. Thực là đáng quí và cảm động.
- Anh chị Tấn hiện làm gì?
- Sau ngày “giải phóng”, anh chị ấy đi dạy lại được đúng môt niên khóa thì xin nghỉ, đến nay được một năm rồi. Cả một năm nằm nhà, chẳng có việc gì để làm nên hai người đến từ giã em để về quê làm ruộng. Quê ở tận Cà mau lận.
- Tại sao vậy? Đó là hai giáo sư dạy giỏi và yêu nghề có tiếng trong trường.
Thùy Liên gật đầu:
- Dạ em còn nhớ, lúc đi dạy, anh thường khen hai đồng nghiệp đó. Hai năm nay, hai anh chị cũng thường đến thăm em và các con. Nghe họ nói chuyện thì em cũng biết đó là hai giáo sư đáng quí của học sinh. Em có hỏi lý do bỏ việc thì hai anh chị nói nền giáo dục bây giờ rất khác với nền giáo dục của miền Nam trước đây. Người ta đưa chính trị quá nhiều vào các môn học, nhiều khi trở thành trơ trẽn làm cho thầy cô phát ngượng khi giảng bài cho học sinh. Cái nghề dạy học không còn cao quí nữa vì thầy cô trở thành công cụ tuyên truyền, nhiều khi láo khoét. Anh chị Tấn buồn bực lắm nhưng cũng rán dẹp bỏ cái lý tưởng giáo dục cũ của mình để thích nghi với nền giáo dục mới. Tuy nhiên, có một sự việc vượt quá mức chịu đựng của anh chị ấy nên đành phải bỏ nghề.
- Chuyện gì ghê vậy?
- Anh chị ấy kể thế nầy nè. Phòng giáo dục biết anh chị ấy là thầy cô giỏi và yêu nghề nên mời phụ trách một điểm chống nạn mù chữ ban đêm.
Tân ngắt lời;
- Nhất định anh chị ấy nhận lời, phải không? Anh biết thiện chí của anh chị Tấn.
- Dạ phải. Anh chị ấy rất thích thú và làm việc hăng say, vừa dạy vừa điều hành công việc. Các lớp học tuy không đông lắm nhưng rõ ràng học có kết quả, thầy trò đều rất mến nhau. Vài tháng sau, phòng giáo dục bảo anh chị Tấn làm bản báo cáo trong đó phòng cho sẵn con số học viên lên đến nhiều ngàn người và tỉ lệ đạt yêu cầu, tức là hết mù chữ lến đến 99,6%. Anh chị ấy vô cùng sửng sốt. Ở điểm chống nạn mù chữ mà anh chị Tấn phụ trách, không có tới một trăm người mà bây giờ phải báo cáo lên đến nhiều ngàn thì làm thế nào được. Hai anh chị lưỡng lự, không nạp báo cáo đúng thời hạn nên được phòng giáo dục gọi lên để “đả thông tư tưởng”. Cán bộ của phòng giáo dục giải thích rằng theo tài liệu bồi dưỡng chính trị từ Hà nội đưa vào thì Sài gòn có nhiều trăm ngàn người mù chữ và tất cả đã được chính quyền cách mạng đưa vào các lớp bình dân học vụ. Mỗi quận huyện phải có nhiệm vụ báo cáo lên số học viên theo học sao cho, khi thành phố cộng lại vừa đủ số người mù chữ do chế độ cũ để lại đúng với tài liệu chính trị mà Hà nội đưa vào. Vì vậy, quận của anh chị Tấn đã chia số học viên phải báo cáo cho các điểm chống nạn mù chữ. Nhiều nơi không có học viên nào cũng phải báo cáo lên đến cả ngàn. Còn ở điểm của anh chị Tấn thì từ gần một trăm phải nâng lên thành vài ngàn.
- Rồi anh chị ấy có làm báo cáo không?
- Phải làm chứ không làm mà ở yên được với họ à. Sau đó anh chị ấy xin rút lui vì lý do sức khỏe.
Tân cười:
- Xin nghỉ vì lý do sức khoẻ là đúng vì làm xong cái báo cáo thì anh chị ấy phải phát bệnh nặng.
Thùy Liên cười theo:
- Anh Tấn nói người làm giáo dục không thể nào chấp nhận sự dối trá. Thôi, không theo được cái nghề mà mình chọn làm lý tưởng thì đành về cuốc đất mà ăn.
- Vì việc xấu xa xảy ra cho anh chị Tấn mà em bỏ ý định làm cô giáo?
- Dĩ nhiên là phải bỏ. Nghe anh chị ấy trình bày như thế thì em đâu còn có can đảm nộp đơn xin đi dạy học.
Tân tỏ ra lo lắng:
- Nhưng em bảo rằng nhà nước đang tìm cách dẹp tiểu thương thì ba mẹ con làm sao sống được?
Thùy Liên đưa hai bàn tay áp vào hai bên má của Tân, giọng dịu dàng:
- Anh Tân, anh đừng lo cho mẹ con em. Người ta sống được thì mình sống được. Còn nếu họ bắt hai triệu dân Sài gòn hay ba triệu dân thành phố Hồ chí Minh ngày nay chết hết thì mình cũng vui lòng chết theo. Anh ở trong nầy đáng lo hơn mẹ con em ngoài đó.
Nàng ngừng một chút rồi nói với giọng đầy cảm xúc:
- Anh Tân, em mong anh cố gắng thực hiện hai điều.
Tâm vuốt tóc vợ:
- Hai điều gì? Em nói đi.
- Thứ nhất là phải giữ gìn sức khỏe. Thứ hai là đối với quản giáo và bộ đội phải hết sức nhịn nhục để có ngày về với mẹ con em.
Tân gật đầu nói trong cảm xúc:
- Anh nghe lời khuyên của em, nhất thiết anh phải làm được như lời em nói. Nguyện vọng duy nhất của anh hiện giờ là được về sống cùng em và hai con.
Thùy Liên bỗng ôm chầm lấy Tân khóc thút thít:
- Anh Tân, hằng đêm, em nhớ đến anh, thèm quay quắt cái hơi ấm của anh. Chúng mình đã có những năm dài hạnh phúc dù đất nước đang bị chiến tranh dày xéo. Bây giờ hòa bình rồi, lại chịu bất hạnh. Nỗi bất hạnh tràn lan trên khắp miền Nam mình!



*
* *

Đợt thăm nuôi chấm dứt. Ban đêm những nhóm uống trà lại quây quần bên bếp lửa. Anh em tranh nhau kể những mẫu chuyện ngoài đời mà gia đình đem vào. Định có nhận xét đầy tính triết lý:

- Trại cải tạo bây giờ gần như là ốc đảo bình yên. Xã hội bên ngoài đang chịu đựng biết bao xáo trộn và đổi thay. Bây giờ tôi mới hiểu là tại sao cách mạng phải nhốt chúng ta lại trong nầy.

Trí nói:

- Thì để trả thù chứ còn gì nữa.

- Trả thù chỉ là một lý do. Lý do thứ hai quan trọng hơn là với đường lối cải tạo xã hội theo kiểu phá hoại thế nầy thì chúng ta không thể ngồi yên được. Người ta hiểu rằng, chúng ta là thành phần ưu tú của xã hội miền Nam trước đây. Họ phải nhốt chúng ta lại trong nầy để họ tự do hành động cho đến khi nào phá xong xã hội miền Nam rồi thì mới thả chúng ta ra.
Trí thắc mắc:
- Nhưng tại sao cách mạng cho gia đình chúng ta lên thăm để kể những điều tệ hại bên ngoài cho chúng ta nghe. Họ phải giấu chúng ta những điều đó chứ.
- Lúc đầu thì họ giấu. Bây giờ thì chẳng cần giấu nữa, trái lại còn muốn cho chúng ta biết cho quen đi để đừng bị sốc khi ra khỏi trại tù. Hiện nay, đồng bào của mình ngoài kia còn khổ hơn mình trong nầy nữa.
Kính góp ý:
- Đúng như anh Định nói, bên ngoài khổ lắm. Vợ tôi bảo rằng Sài gòn bây giờ tiêu điều, nếu mình trở về thì thấy lạ hẳn ra. Đường sá không còn rộn rịp vì dân số giảm đi khá nhiều. Một phần đã bỏ ra ngoại quốc trước ngày thủ đô thất thủ, một phần về quê sinh sống và một phần tuân lệnh hay bị buộc phải đi vùng kinh tế mới lập nghiệp. Những nhà để trống, nếu tốt thì cán bộ chiếm lấy còn xấu thì người ta đến phá phách tan tành. Thực là đáng thương cho cái thành phố có tiếng là văn minh bậc nhất của vùng Đông Nam Á. Tôi yêu Sài gòn nên khi nghe vợ tôi kể thì cảm thấy đau buốt trong lòng.
Định nói:
- Không riêng gì thành phố. Nghe nói nhà quê cũng khổ lắm. Ruộng đất bây giờ bỏ hoang còn nhiều hơn thời còn đánh nhau nữa.
Tân hỏi:
- Sao lạ vậy?
- Đất đai bây giờ không còn là tài sản của nông dân nữa mà thuộc về nông trường hay hợp tác xã. Những giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân bỗng nhiên bây giờ trở thành tờ giấy lộn dù cho quyền sở hữu nầy là do ông bà để lại hay do chính phủ Việt Nam Cộng hòa cấp trong chính sách “người cày có ruộng” trước đây của chế độ cũ. Tất cả nông dân phải góp ruộng cho hợp tác xã và đi làm thuê trở lại rồi cuối mùa, sau khi thu hoạch xong được lãnh một số lúa không đủ nuôi sống gia đình. Thế là đành bỏ quê hương đi kiếm công việc gì khác mà sống.
Kính góp ý:
- Chẳng kiếm được việc gì bền đâu. Chỉ tạm sống được khi hợp tác xã chưa với tay đến. Làm việc nầy phải lo nghĩ đến việc khác, vì một khi việc làm có lợi tức đủ sống thì không bao lâu có cán bộ đến mời vào hợp tác xã, thế là xong. Một thí dụ rõ ràng nhất là anh Cung, anh ruột của tôi ở Long an. Anh ấy là trung sĩ thuộc binh chủng quân xa. Sau ngày miền Nam đầu hàng, anh Cung đi học tập ba ngày, được cấp giấy chứng nhận, mang vợ con về quê làm ruộng. Làm xong một mùa lúa thì được vận động tự nguyện vào hợp tác xã. Thế là đành từ giã ruộng vườn, mang gia đình ra huyện lỵ, cất một nhà nho nhỏ trên miếng đất hoang và bày dụng cụ ra sửa xe đạp trước hàng hiên. Sau “ngày giải phóng”, hầu như mọi người đều đạp xe đi làm, phụ tùng lại quá xấu nên xe hư nhiều lắm. Anh tôi là hạ sĩ quan quân xa, tay nghề khá lắm, có nhiều dụng cụ sửa chữa trong nhà, lại thêm cái tính siêng năng và chân thật dễ thương nên có rất đông khách hàng, làm ban ngày không hết việc nên phải làm cả ban đêm nữa. Nhờ vậy, gia đình sống rất thong thả. Chưa được một năm thì cán bộ đến mời vào hợp tác xã.
Tân thốt lên:
- Trời đất, sửa xe đạp mà cũng có hợp tác xã nữa sao?
Kính gật đầu:
- Có chứ. Nghề nào làm ra lợi tức là có hợp tác xã. Đảng và nhà nước phải cai quản cho được bất cứ sinh hoạt nào thuộc lĩnh vực kinh tế. Chủ trương đó ác độc lại thêm một bọn lợi dụng để trục lợi thành ra hợp tác xã biến thành tai ách cho nhân dân lao động. Các anh nghe tôi kể tiếp mới thấy cái tai ách đó. Khi thấy cán bộ đến vận động vào hợp tác xã thì anh Cung không dám từ chối. Lính chế độ cũ mà, cãi lại họ bị chụp mũ phản động thì nguy khốn đến vợ con ngay. Trong khi chưa tìm được công việc gì khác thì đành ký vào đơn xin “tình nguyện” vô hợp tác xã. Thế là ngay ngày hôm sau, hợp tác xã đưa đến thêm hai nhân viên để làm việc, một người là thợ nhưng uống rượu giỏi hơn sửa xe, người kia là tổ trưởng kiêm thư ký, kiêm thủ quỹ.
Tân lại thốt lên:
- Trời đất! Sửa xe ngoài hiên nhà mà cũng có tổ trưởng và thư ký, thủ quỹ nữa à?
- Có chứ. Nhưng bây giờ không phải sửa ngoài hàng hiên nữa mà chiếm nguyên cái nhà của anh Cung để trở thành một điểm sửa xe của hợp tác xã, có bảng hiệu, bảng nội qui và bảng giá cả đàng hoàng. Anh tôi phải đi mua tôn cũ về che thêm phía sau cho gia đình trú mưa nắng.
- Còn công việc thì sao, có tiếp tục sống được không?
- Không sống được. Mỗi khi có khách đưa xe hư tới, tổ trưởng ra tiếp, xem chỗ hư của chiếc xe, định giá, thu tiền, vô sổ và chỉ định một trong hai người thợ. Anh Cung được phân công ít hơn người thợ kia vì hắn có bà con với tổ trưởng. Cuối tháng, tổ trưởng tổng kết, công khai tài chính. Một phần tiền góp cho hợp tác xã, một phần là lương của tổ trưởng, một phần đưa vào quỹ khấu hao dụng cụ, còn lại chia cho hai người thợ theo tỉ lệ việc làm do tổ trưởng chấm công trong tháng. Người thợ kia lãnh nhiều hơn anh tôi. Anh Cung nhận món tiền chỉ còn bằng một phần năm tháng trước mà thôi. Anh ứa nước mắt khi nghĩ đến sự sống của vợ và hai con. Anh ấy biết rằng tháng sau món tiền nầy sẽ còn teo lại nữa do khách hàng bỏ đi nhiều vì họ chê tay nghề của người thợ kia quá kém.
Tân lắc đầu:
- Vậy thì phải kiếm nghề khác mà sống.
- Đã đành là như thế nhưng cũng gay lắm. Nếu không làm nữa thì phải dọn đi nơi khác, nhà cửa dụng cụ phải để lại cho hợp tác xã.
- Trời đất, mất hết sao? Anh ấy giải quyết thế nào?
- Trốn!
- Trời đất!
- Anh Cung cho cả gia đình đi ngày hôm trước, giả bộ về thăm quê ngoại. Đến tối, anh ấy gom được một ít đồ đạc rồi dông.
- Dông đi đâu?
- Đi lên nhà tôi, ở nhờ với vợ con tôi và mở chỗ sửa xe ngoài đường. Cũng may, hai năm trước đây vợ chồng tôi dành dụm được một số tiền, lên một lầu nên mới có đủ chỗ ở cho gia đình anh Cung.
- Vợ anh bằng lòng à?
- Bằng lòng chứ. Vợ tôi rất tốt. Vả lại, trong hoàn cảnh hoạn nạn nầy, người dưng còn phải cứu giúp huống chi là anh em cốt nhục.
Tân gật đầu và tiếp tục hỏi:
- Nhà anh ở đâu?
- Ở cư xá Đô thành
- Thế thì gần nhà tôi ở đường Vườn chuối.
Kính tỏ vẻ mừng rỡ:
- Đúng rồi, nhà chúng mình gần nhau. Khi nào về, mình sẽ qua lại chơi với nhau. Anh Cung tư cách cũng khá lắm, tôi sẽ giới thiệu với anh để mình làm bạn với nhau.
- Anh Cung bây giờ sống được không?
- Cám ơn anh, khá lắm. Nghe vợ tôi nói anh ấy sửa không kịp. Chắc chắn là như thế vì anh có tay nghề lại làm ăn đàng hoàng. Tuy làm không kịp mà không dám thuê người, sợ lại bị chụp mũ tư sản thuê công nhân để bóc lột. Chỗ sửa xe của anh ấy trên đường giao thông thuận lợi nên rất đắt khách.
- Ở đâu vậy?
- Ở ngay ngõ vào cư xá Đô thành, gần bệnh viện Bình dân.
- Tôi biết chỗ đó. Anh ấy có sợ bị bắt vào hợp tác xã nữa không?
- Có lẽ không đâu. Sài gòn quá lớn, người ta phải lo biết bao nhiêu chuyện khác, đâu có thì giờ để ý đến thằng sửa xe ngoài đường như ở nhà quê.
- Anh ấy trốn đi rồi cái nhà ở Tân an thế nào?
- Đành bỏ vì cái nhà đó đã chính thức trở thành một cơ sở của hợp tác xã rồi mà.
- Đau nhỉ?
- Không đau lắm vì nhà đó thô sơ lại cất bất hợp pháp trên đất hoang. Nhiều nhà to hơn ở khu sầm uất của thành phố vào hợp tác xã mua bán ít lâu cũng mất nhà luôn. Các trường hợp nầy mới là đau.
- Suy cho cùng thì cái đau đó chẳng riêng cho ai. Ruộng vườn, nhà cửa bây giờ thuộc về tài sản của đảng và nhà nước hết chứ dân đâu có gì. Chính sách nầy được áp dụng bao nhiêu năm nay ở miền Bắc đã tỏ ra rất hữu hiệu, nay bắt đầu đem áp dụng ở miền Nam.
- Anh nói hữu hiệu là thế nào?
- Hữu hiệu cho sự lãnh đạo của đảng. Đảng là chủ nhân thực sự của toàn bộ lãnh thổ. Người dân không còn sở hữu ruộng vườn nhà cửa nữa nên luôn luôn có mặc cảm rằng mình ăn nhờ ở đậu và sinh sống tạm bợ trên miếng đất không phải của mình. Vì vậy, nhất nhất phải tuân theo lệnh của chủ là đảng, không được có hành động hay có ý chống đối. Vì vậy, đảng nói ra một tiếng là nhân dân luôn luôn đồng tình một trăm phần trăm.
- Dưới quê tôi, người ta đồn rằng ở miền Nam sắp có cải cách ruộng đất và đấu tố như ở miền Bắc vào năm 1956, hai năm sau hiệp định Genève. Bây giờ “giải phóng” cũng được hai năm rồi. Những gia đình trước đây có ruộng đất đang rất lo lắng, sợ bị lôi ra tòa án nhân dân kết tội địa chủ ác ôn. Bây giờ thì nhiều người đã biết trong những đợt đấu tố xưa kia ở miền Bắc, người ta đã xử tử bằng cách chôn sống nhiều người vô tội.
Định mỉm cười:
- Theo tôi thì ở miền Nam không có chuyện đấu tố đâu.
- Sao anh nói vậy?
- Đây nầy. Tôi hỏi mấy anh, ở miền Bắc dạo đó người ta đấu tố để làm gì?
- Để trừng trị bọn địa chủ đã gây tội ác với nhân dân.
- Vâng, đó là lời giải thích chính thức của đảng nhưng trên thực tế, ở Việt Nam, địa chủ không quá hà khắc với tá điền. Nếu có thì chỉ là một số ít và cũng không tới mức gọi là tàn ác. Giữa hai giới địa chủ và tá điền thường có mối liên hệ đầm ấm đầy tình người. Tôi đoan chắc như thế, không phải vì ông nội tôi là địa chủ đâu.
Định dừng lại cười khì khì rồi nói tiếp:
- Tôi dự định, sau khi trình luận án tiến sĩ về triết học Trung hoa trong thời Đông Chu thì tôi sẽ làm một luận án khác về xã hội học, đề tài là xã hội nông thôn Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Do đó tôi đã sưu tầm dần dần các tài liệu và đi chuyện trò với nhiều điền chủ và tá điền lớn tuổi đã bỏ ruộng vườn để về thành phố tránh chiến tranh. Vậy thì tôi khẳng định nông dân Việt Nam không thù địa chủ đến mức bắt chôn sống họ.
- Vậy tại sao ở miền Bắc có chuyện nông dân đấu tố, đánh đập, ném đá và chôn sống địa chủ.
- Không, tôi không tin nông dân đã làm như thế. Đó chỉ là mấy thằng oắt con bị đảng viên sách động, cũng giống như tụi hồng vệ binh của Trung cộng mười năm sau vậy. Người nông dân ở miền Bắc không làm việc tàn ác đó, ngược lại họ còn lén lút che chở, tiếp tế thức ăn cho người bị đấu tố nữa. Tôi cam đoan với các anh đó là sự thực. Một sự thực khác còn đau lòng hơn nữa, những người bị đấu tố đã chết oan. Hầu hết họ không phải là địa chủ. Ở miền Bắc lúc đó không còn địa chủ nữa. Suốt chín năm chiến tranh những người gọi là địa chủ đã bỏ đất đai, về thành phố ở. Sau hiệp định Genève, gần hết di cư vào Nam. Vậy thì làm sao có đủ một trăm ngàn người để đem ra đấu tố trong thời kỳ đó?
- Thế thì những người bị chết là ai?
- Là những người rủi bị cán bộ đảng viên cho vào danh sách đen, không nhất thiết là địa chủ hay bà con thân thuộc với địa chủ.
- Nhưng tại sao đảng cho phép giết họ để gây ra một cuộc rối loạn dữ dội ở miền Bắc lúc đó. Trên nguyên tắc, nhà cầm quyền nào cũng cầu mong sự ổn định chính trị để củng cố chế độ chứ ai lại cố tình gây xáo trộn trong xã hội mà mình đang cai trị.
- Với cộng sản thì khác. Có khi vì một mục đích nào đó, cộng sản sẵn sàng gây xáo trộn trong chính xã hội của họ. Thí dụ rõ ràng nhất là việc đập phá của hồng vệ binh bên Trung cộng do đảng xúi dục.
- Ở Việt Nam, đảng gây xáo trộn bằng cuộc đấu tố đẫm máu ở miền Bắc để làm gì?
- Vì đảng muốn dằn mặt nông dân, nhất là trung nông, những người có ruộng, vừa đủ ăn đủ mặc cho gia đình mình. Đảng muốn mọi người phải sợ hãi, không dám sở hữu đất đai nữa, nghĩa là phải giao hết cho nông trường quốc doanh hay cho hợp tác xã do đảng lãnh đạo.
- Và đảng đã thành công?
- Thành công hoàn toàn. Đó là một cú đánh rất ngoạn mục, không nhằm đập tan giai cấp địa chủ - còn đâu nữa để mà đập - mà nhằm triệt hạ óc tư hữu của nông dân.
- Với cái giá phải trả là hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội?
- Bao nhiêu đó nạn nhân thì nghĩa lý gì đối với người cộng sản. Các anh có hiểu tại sao cộng sản phải triệt hạ óc tư hữu như thế không?
- Để nông dân hiến đất cho nông trường hay tự nguyện vào hợp tác xã, anh nói rồi.
- Như vậy để làm gì?
- Để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
-Không đúng. Người cộng sản Việt Nam đã giải thích như thế chỉ để tuyên truyền mà thôi chứ không đúng với chủ trương thầm kín của họ. Người cộng sản Việt Nam không thực sự muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội và họ cũng hiểu rằng không thể nào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình trạng đói khổ tột cùng của miền Bắc lúc đó được. Theo Carl Marx, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội phồn vinh, đảm bảo một mức sống cao cho mọi người chứ đâu phải là một xã hội bần cùng như ở miền Bắc cho tới ngày nay. Marx bảo rằng chủ nghĩa xã hội chỉ được xây dựng với cơ sở vật chất dồi dào sẵn có do chủ nghĩa tư bản làm ra và để lại chứ đâu phải xây dựng chủ nghĩa xã hội với con trâu đi trước cái cày. Các anh cũng biết chủ nghĩa cộng sản có tính giáo điều rất gắt gao, người cộng sản đề cao tuyệt đối lý thuyết của ông tổ Carl Marx. Thế mà tại sao trong cái vấn đề then chốt nầy, họ lại chủ trương ngược lại với ông tổ của họ? Họ bảo rằng đó là sáng tạo tài tình. Nói láo đó. Họ chẳng có ý muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội đâu. Đó chỉ là một trò lừa bịp ghê tởm.
- Thế thì họ muốn gì?
- Chiếm cho được miền Nam! Vũ khí thì có Liên xô và Trung cộng cung cấp rất đầy đủ nhưng người thì phải tự lo lấy. Liên xô không chịu đưa quân sang đâu vì sợ đụng độ trực tiếp với Mỹ. Trung cộng thì đã chán ngán vì chết quá nhiều ở chiến tranh Triều tiên nhiều năm trước. Muốn cho có đủ lính đưa vào Nam thì phải nắm chặt cái dạ dày của dân miền Bắc. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội chỉ là cách tước đoạt toàn bộ các phương tiện sinh sống cá nhân, bắt mọi người phải sống nhờ vào đảng và nhà nước. Khi thanh niên bị gọi đi lính là phải đi ngay. Không tuân theo lệnh gọi thì dứt khoát phải chết đói, không phải một mình mà cả gia đình. Nếu một người trốn lính thì chẳng cần chính quyền phải ra tay như trong Nam chúng ta mà chính cha mẹ, anh chị của đương sự sẽ đi tố cáo hay bắt đương sự đến giao nộp cho chính quyền để khỏi bị đảng cúp mất phương tiện sinh sống của cả gia đình.
- Thực là khiếp đảm!
- Vâng, khiếp đảm nhưng rất thành công, bằng chứng rõ rệt nhất là hôm nay chúng ta phải nằm đây để học tập cải tạo.
- Vậy theo anh, cuộc đấu tố ở miền Bắc năm 1956 có mục đích tối hậu là chiếm cho được miền Nam. Miền Nam chiếm được rồi thì không cần đấu tố nữa. Nhưng tại sao đảng vẫn hô hào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mà hễ có xây dựng chủ nghĩa xã hội thì vẫn phải thực hiện đấu tố để cải cách ruộng đất trước đã.
- Tôi đã giải thích cho các anh rồi. Thực sự không có việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mà đó chỉ là một cái cớ hầu nắm lấy dạ dày của nhân dân miền Bắc để bắt lính đưa vào Nam. Bây giờ hô hào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Nam cũng chỉ là một cái cớ để ngụy trang cho một mục đích có phần nhẹ hơn trước đây nhiều; đó là hợp thức hóa và củng cố độc quyền cai trị của đảng, ngăn cản sự đòi hỏi các quyền tự do dân chủ, củng cố địa vị cùng quyền lợi của một nhóm người mà đảng cho hưởng đặc quyền đặc lợi. Sau chiến thắng vừa qua, đảng đã thực hiện được tất cả những điều trên nên không cần thiết gây xáo trộn xã hội bằng chủ trương đấu tố đẫm máu nữa. Tóm lại, ngày nay, đảng hô hào xây dựng chủ nghĩa xã hội để duy trì nền độc tài thì nhẹ nhàng và dễ chịu hơn cái chiêu bài xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục đích xâm lược.
- Nhưng sau khi chiếm được miền Nam rồi thì người cộng sản Việt Nam còn có nhiệm vụ bành trướng lãnh thổ của đệ tam quốc tế sang những nước khác ở Đông nam Á nữa chứ.
- Chuyện đó nằm trong tương lai xa. Vã lại các nước Đông Nam Á cũng đã hoảng sợ nên thành lập liên minh để bảo vệ nhau rồi. Có lẽ chúng ta và cả con cháu chúng ta chưa có dịp đi chinh chiến nước ngoài đâu.


* *
*

Khi mùa mưa sắp chấm dứt, có một cuộc biên chế quan trọng trong các trại cải tạo. Trong tổ chỉ có Tân được gọi tên ra đi, mọi người khác đều ở lại. Tân rất buồn, khổ nhất là phải xa rời Định. Trước giờ chia tay, hai anh em rầu rĩ. Suốt hơn hai năm rồi họ đã sống bên nhau, chia sẻ đắng cay và an ủi nhau. Bây giờ thì kẻ ở người đi!
Khi có lệnh khởi hành, Tân siết chặt tay bạn rồi lủi thủi xách gói lên xe.
Sau một ngày di chuyển, xe dừng lại ở một vùng đồi núi chập chùng. Mọi người xuống xe và gặp ngay lớp đất đỏ nhớp nháp trên mặt đường, cái thứ mà Tân cùng rất nhiều anh em khác đã quá quen thuộc trong hơn một năm ở trại cải tạo Long khánh.
Anh em được dẫn vào một khu trống trải với hai dãy nhà lụp xụp khá dài đã hư hỏng, dột nát nhiều nơi. Sau khi ăn hết nắm cơm mang theo, Tân bước ra ngoài. Anh đứng nhìn quanh thấy khung cảnh khá lạ lùng. Con đường đất đỏ chạy dài thăm thẳm, hai bên là những rẫy sắn và ngô xanh um. Xa hơn nữa là rừng già thâm u. Tân quay lại thấy Thành, thuộc về “bê” kế cận lúc còn ở trại cải tạo Tây ninh, nên hỏi:
- Anh có biết đây là đâu không?
Thành trả lời ngay:
- Bù gia mập, thuộc tỉnh Phước long.
- Anh biết vùng nầy à?
- Biết chứ, tôi đã từng hành quân ở đây và đã đụng nhiều trận khá lớn. Đơn vị tôi cũng đóng một thời gian dài dưới chân núi Bà rá mà chúng ta vừa mới đi ngang qua khi nãy.
Tân hỏi:
- Có phải núi Bà rá trong vùng rừng thiêng nước độc, rất nổi tiếng với nhà tù của thực dân Pháp không?
Thành gật đầu:
- Đúng rồi. Ngày xưa thực dân Pháp lập ra nhà tù ở vùng nầy để đày những người yêu nước. Ngày nay cộng sản cũng đày chúng ta lên vùng Bà rá nầy. Có khác gì thời thực dân đâu.
Anh chép miệng rồi nói tiếp:
- Còn hơn cả thời thực dân, bây giờ nhà tù có ở khắp nơi, từ Nam chí Bắc.
Tân cười:
- Tài liệu dạy chính trị cho chúng ta có nói rằng miền Nam trước đây là một nhà tù khổng lồ sao anh lại nói ngược lại.
Thành hứ một tiếng rồi nói:
- Tài liệu dạy chính trị của họ thực là kinh tởm. Miền Nam bây giờ dưới sự cai trị của họ mới đúng là một nhà tù khổng lồ. Đi từ tỉnh nầy qua tỉnh kia, làng nầy qua làng kia cũng phải làm đơn xin phép công an cho đi mới được đi. Ở quê, mẹ chết, muốn về lo chôn cất cho tròn chữ hiếu cũng phải chầu chực chờ công an cấp giấy phép đi lại và có khi nhận được giấy nầy thì mẹ đã nằm yên dưới mồ từ nhiều ngày rồi. Thực là kinh khủng! Với chế độ công an trị nầy, xã hội miền Nam bấy giờ là nhà tù khổng lồ. Trại cải tạo nhốt chúng ta là nhà tù trong nhà tù.
Tân nói:
- Thôi, mình hãy chịu đựng, không nên tức tối làm gì.
Thành lại hứ tiếng nữa. Anh có vẻ không tự chế được:
- Không tức sao được. Cái xấu của họ thì họ đem đổ hết cho mình rồi còn bắt mình phải ngồi nghe và thảo luận nữa. Họ nói mình là hiếu chiến, thế thì ai gây ra cuộc chiến tranh vừa rồi? Họ nói mình là xâm lược, thế thì ai xua quân vào xâm chiếm miền Nam? Họ bảo mình bóc lột, thế thì trong hai mươi năm, đồng bào miền Bắc làm quần quật mà không đủ ăn, đó là do ai bóc lột? Họ bảo chúng ta phá hoại sản xuất, thế thì ai đào đường phá cầu để cản trở lưu thông, ai đặt mìn để phá tan các nhà máy, ai bày ra các hợp tác xã làm cho nông dân bỏ đất hoang để tha phương cầu thực?
Tân cười:
- Trong đợt học tập lúc thảo luận tổ, anh có nói như thế không?
Thành cười bẽn lẽn:
- Sự thực như thế mà không nói được cho nên mới tức. Bây giờ chỉ có anh và tôi ở đây thôi thì cứ nói cho sướng miệng. Trong các buổi thảo luận có quản giáo ngồi nghe tôi cũng biết tự kìm chế và phát biểu khớp với tài liệu lắm chứ.
Tân gật đầu:
- Được rồi, anh cứ nói đi, tôi sẵn sàng nghe. Anh cứ xả cái bực tức vào lỗ tai tôi đây.
Thành hăng hái nói tiếp:
- Họ càng mạ lỵ miền Nam thì người ta càng thấy rõ thực trạng của miền Bắc. Mấy cái ông gọi là giảng viên học thuộc lòng tài liệu rồi cứ như thế mà xổ ra, bộ mặt vênh váo làm như như mình có kiến thức nhiều lắm. Thực ra, mấy ông ấy dốt và bị nhồi sọ một cách thảm thương. Anh có đồng ý không?
Thấy Tân im lặng. Thành nói tiếp:
- Đây tôi kể cho anh nghe một chuyện có thực xảy ra trong trại cải tạo cũ của tôi để chứng minh cái dốt và lố bịch của họ. Hôm đó, người đứng trên bục giảng là ông đại úy chính trị viên tiểu đoàn. Bài học hôm đó chủ đích là đã kích chế độ tư bản. Dĩ nhiên, với đề tài nầy thì tài liệu phải nhắc đến Các Mác. Khi đọc hết tài liệu rồi, ông chính trị viên nổi hứng hỏi: “Các anh có biết đồng chí Các Mác là người nước nào không?” Thằng Đạt ngồi ngay phía trước tôi bỗng nổi hứng đứng dậy trả lời: “Thưa anh, ông Các Mác là công dân Đức”. Nói xong nó ngồi xuống. Ông chính trị viên quát to: “Anh nói như thế mà nghe được à? Các Mác là con người vĩ đại thì phải là công dân của đất nước Liên xô vĩ đại. Đức đã từng là nước phát xít, thế mà anh bảo con người vĩ đại đó là công dân Đức sao được. Con người là sản phẩm của xã hội. Xã hội có vĩ đại mới sinh ra được con người vĩ đại, anh hiểu chưa?”. Thằng Đạt nghe nói như thế thì chực đứng lên cãi. Nhưng tôi kịp nắm quần nó kéo xuống. Cái quần nó mặc cả một năm rồi nên dây thun đã dãn, vì vậy nó hoảng hồn chụp ngay lấy và không dám đứng thẳng lên. Tôi kéo mạnh hơn cho nó ngồi hẳn xuống và quát khẽ: “Ngồi im, thằng ngu”.
Tân bụm miệng cười:
- Anh với nó là bạn với nhau à?
- Phải, bạn khá thân vì cùng đơn vị ở ngoài đời. Nó nổi tiếng là con mọt sách. Trước kia, đi hành quân mà lúc nào cũng có vài quyển sách trong ba lô. Ham đọc sách nên kiến thức nó rộng nhưng tính tình thì hơi khờ và hiền lành dễ thương.
- Nghe anh quát, nó có chịu ngồi im không?
- Nó chịu ngồi yên và may thay, ông chính trị viên tuyên bố buổi học chấm dứt. Lúc về trại, nó cự tôi: “Tại sao lúc nãy mày không cho tao cãi? Ông Các Mác đúng là người Đức, tại sao mày nói tao ngu?”
- Rồi anh trả lời thế nào?
- Tôi nói với nó thế nầy: “Tao hỏi mày câu nầy: Nếu mày gặp một người đang đứng cãi nhau với một con bò có cặp sừng nhọn hoắc thì mày cho rằng người đó khôn hay ngu”. Tới lúc đó nó mới im lặng và không hậm hực với tôi nữa.
Thành nói xong, ngước nhìn bầu trời bắt đầu ngã qua màu xám. Anh nói tiếp:
- Gần tối rồi, ta vào mùng đi. Ở đây có rất nhiều muỗi đòn xóc truyền bệnh sốt rét, huyết trùng plasmodium mai phục sẵn trong vòi của nó. Chỉ cần nó châm trúng mình một phát là khốn khổ với nó. Anh nên nhớ, khi nào thấy trong người hơi gây gây là có thể bị nhiễm bệnh rồi đó, nên cho tôi hay liền.
Tân hơi ngạc nhiên:
- Anh rành bệnh rốt rét quá nhỉ?
Thành cười:
- Gì đâu. Đó là chuyện cỏn con. Tôi là đại úy bác sĩ quân y của liên đoàn biệt động quân mà.
- À á! Thế thì tôi phải tuân lệnh bác sĩ chui vào mùng ngay lập tức.


*
* *



Ngày hôm sau, Thành được bầu làm tổ trưởng. Cả trại được quản giáo cho viết thư về nhà để báo cho gia đình biết đã thay đổi chỗ ở. Việc làm nầy của ban chỉ huy trại trông có vẻ thực là nhân đạo, làm cho anh em yên tâm được phần nào.
Cũng như lúc mới đến Đồng bang ở Tây ninh, công việc khởi đầu của tù là dọn sạch cây cối trên một vùng khá rộng rồi cất lên những dãy nhà. Mọi người đã quá quen với công việc nầy. Tuy nhiên, so với rừng già Tây ninh thì nơi nầy có phần khó nhọc hơn. Đây là vùng đồi núi nên mặt đất chỗ nào cũng nghiêng, phải bang cho phẳng để làm nền nhà. Rừng thì rậm rạp, đầy muỗi, vắt và rắn độc. Ba ngày sau khi đến đã có một người đi đốn cây trong rừng bị rắn độc cắn chết. Ngoài ra ở đây, anh em bị cái đói hành hạ dữ dội hơn. Ở Tây ninh, nhờ có rau trồng được trong trại độn thêm vào phần cơm ít ỏi cũng tạm trấn an được cái dạ dày. Lên đây, thiếu mất phần rau nên dạ dày của mỗi người phản đối dữ dội.
Sau hai tuần lễ, nhà cửa và vòng rào chung quanh trại tạm xong, từng nhóm một được vệ binh dẫn đến một vùng trồng sắn và ngô. Đó là những rẫy mà các đơn vị bộ đội đồn trú ở đây một thời gian đã khai phá và trồng trọt. Nay bộ đội đã rút đi nơi khác, nông trường vừa mới thành lập không đủ người nên tù nhân có bổn phận làm sạch cỏ và vun xới cho cây trồng ở đây. Sắn thì thân đã cao quá đầu, dưới đất củ còn non nhưng khá to. Ngô đang ra cờ và tượng trái. Có nơi gieo trồng sớm, quả ngô đã phình to, bám vào thân cây, trông thực là ngon lành.
Trong khi anh em nhổ cỏ và vun gốc thì quản giáo và vệ binh liên tục đi lui đi tới để canh giữ. Thế nhưng, cũng có người len lén đào lên được củ sắn, dùng hai hàm răng cạp bỏ lớp vỏ dính đất bên ngoài và nhai ngấu nghiến cái khối trắng toát bên trong thực là ngon ngọt.
Việc ăn vụng đó không thể giấu mãi được. Một hôm vệ binh moi được một số vỏ và cùi bắp chôn vội vã dưới đất. Chú vệ binh mang về báo cáo với văn phòng quản giáo. Buổi chiều, ban chỉ huy tập họp anh em lại mắng chửi một trận và công bố lệnh phạt: cả trại bị cúp một bữa cơm. Thế là cả ngàn người phải nhịn đói vào chiều hôm sau. Đi làm về mệt, tắm rửa xong, mang cái bụng xẹp lép lên giường mà thao thức đến khuya, cứ nghĩ mãi cái phần gạo hơn hai trăm ký bị chận lại vì hình phạt sẽ đi về đâu?
Trong nửa tháng đầu tiên, ngoài gạo ra, nhà bếp còn nhận thêm muối và cá khô mục để phát đều cho các tổ. Sau đó, vài ngày một lần, có xe của nhà thầu chở cá lên. Cá luôn luôn đã ươn nhưng anh em cũng ăn một cách ngon lành. Thỉnh thoảng lại có cả thịt heo nữa. Thịt được cắt ra thành những miếng nhỏ rất đều nhau để sau khi kho xong, mỗi người được lãnh một miếng bé tí không ai lớn hơn ai. Nhai miếng thịt trong miệng, ôi chao, khó có cảm giác sảng khoái nào bằng! Tuy nhiên, sau cái cảm giác sảng khoái đó là những ngày buồn.
Thịt được đánh giá là thực phẩm rất cao cấp. Không phải chỉ riêng ở trại cải tạo mà còn cho cả xã hội bên ngoài nữa. Vì vậy khi cung cấp thịt cho trại, nhà thầu tính giá rất đắt. Miếng thịt chỉ to bằng bao diêm mà mỗi người cho cả vào miệng một phát, có cái giá là bốn hay năm khẩu phần thức ăn hàng ngày. Vì vậy, sau một bữa thịt là nhiều ngày ăn cơm với muối cục được cấp phát nửa tháng một lần. Ai cũng mong cho qua nhanh những ngày muối cục để có được miếng khô mục hay miếng cá ươn truyền thống.
Một buổi trưa, vừa mới đi làm về. Anh em nghe giọng tổ trưởng Thành oang oang:
- Hôm nay, ăn cơm với thịt, anh em ơi. Chiều nay cũng thịt nữa.
Một giọng càu nhàu đáp lại:
- Ăn hai bữa thịt heo liền nhau như thế thì phải chịu đến mười ngày muối cục, sung sướng gì mà mừng.
Thành cãi lại:
- Đừng lo anh em ơi. Không phải thịt heo do thầu cung cấp mà là thịt trăn xào ngon vô cùng. Trăn do anh em mình bắt được chứ không phải thịt tiêu chuẩn.
Nhiều người nhao nhao lên hỏi:
- Thiệt không? Ai bắt được trăn ở đâu vậy?
Thành trả lời một cách “hồ hởi”:
- Hai người bên khối Hai đi đốn cây gặp một con trăn mới ăn no đang ngủ trong bụi đưa cái đầu ra ngoài. Một người dùng rựa chặt một phát rất mạnh làm cho cái đầu nó gần đứt lìa khỏi cổ. Thế mà trước khi chết, nó vùng vẫy gãy nát cả bụi cây. Hai người khiêng về, cân được bốn mươi tám ký, giao hết cho nhà bếp để làm thức ăn cho anh em. Mỗi người được gần nửa trăm gram thịt.
Bữa trưa và bữa chiều hôm đó, anh em ăn thịt trăn và tấm tắc khen ngon. Liên tiếp nhiều ngày hôm sau, nhà bếp chỉ phát cơm mà không có tí thức ăn nào cả, anh em phải nhai cơm với muối cục. Phải chịu đựng suốt hơn một tuần lễ như thế, nhiều người yêu cầu tổ trưởng hỏi đại diện. Anh đại diện đến gặp quản giáo trưởng và về báo cho anh em biết rằng gần năm mươi kí thịt trăn mà anh em ăn trong tuần trước được trừ vào tiền thức ăn tiêu chuẩn. Mặc dù anh em bắt được con trăn trong rừng nhưng đó là tài sản của nhân dân chứ không phải của gia đình anh em mang lên. Ăn thịt con trăn của nhân dân thì phải trừ tiền thức ăn đó trả lại cho nhân dân.
Trả lại cho nhân dân là trả lại cho ai? Một lần nữa, anh em tự hỏi nhưng không trả lời được.

Một hôm tổ trưởng đi họp với đại diện về báo cho anh em biết gạo trong kho đã hết. Ban chỉ huy trại không xin được xe chở nên năm mươi người tù phải đi vác gạo về. Anh đại diện đề nghị mỗi tổ cử một người để, sẵn dịp ra ngoài, mua cho anh em trong tổ vài món hàng cần thiết ở những hàng quán gặp trên đường. Cả tổ đồng ý cử tổ trưởng Thành đi vác gạo. Anh em góp tiền và kê vào giấy những món cần mua.
Hôm sau, những người ở nhà vẫn ra rẫy như thường lệ, trong khi Thành lên văn phòng để nhập vào toán đi lãnh gạo. Đến bữa ăn chiều, toán nầy vẫn chưa về. Tân lãnh phần cơm và cất riêng cho Thành. Đến gần tối, có tiếng reo mừng rỡ. Tân ra ngoài, thấy Thành mang một bao hàng trên lưng, bước đi nặng nhọc. Thành vào nhà, cởi bao hàng ra đặt trên chỗ nằm rồi ngồi xuống thở dốc:
- Mệt quá, đi xa lắm. Tổ mình lại đây tôi chia hàng cho.
Mọi người đều vui mừng tíu tít. Chia hàng xong, Thành mang ca cơm của mình ra ngồi bên bếp lửa mà Tân vừa nhóm lên. Ánh sáng bập bùng không xuyên thủng nổi màn đêm nhưng cũng xua đuổi được phần nào đàn muỗi rừng hung dữ. Tân nhìn bạn ăn một cách ngon lành, loáng một cái, ca cơm hết sạch. Tân ái ngại:
- Anh đói lắm phải không? Đi lãnh gạo xa lắm sao?
- Xa lắm. Cả đi và về phải hơn ba mươi cây số.
- Mệt lắm phải không?
- Mệt lắm, có đi xa như hôm nay mới thấy trong hơn hai năm bị giam cầm, ăn uống thiếu thốn, sức khỏe mình suy giảm rất nhiều. Xưa mình đi hành quân trong nhiều ngày nhưng đâu có mệt như thế nầy. Vì mệt nên anh em đã phạm một lỗi lầm rất tai hại. Rồi cả trại phải trả giá cho lỗi lầm nầy trong suốt tuần lễ sắp tới.
Tân vừa ngạc nhiên, vừa lo lắng:
- Lỗi lầm gì vậy? Trả giá thế nào?
Thành không trả lời câu hỏi mà tiếp tục nói như than thở:
- Tôi nghi người ta cố tình đưa chúng tôi vào tình trạng đó. Mình đã bị họ lừa gạt nhiều lần, lần nầy lại bị gạt nữa. Nhưng dù sao, chúng tôi cũng có lỗi rất nhiều với anh em.
Tân nhắc lại câu hỏi:
- Chuyện gì vậy, anh nói cho tôi nghe với nào.
- Chuyện thế nầy. Khi sáng, lúc mặt trời lên cao, toán lấy gạo mới bắt đầu lên đường với nhiều vệ binh theo canh giữ. Đi được khoảng năm cây số thì gặp một xóm nhà dân mới lên lập nghiệp sau ngày “giải phóng”. Ở đó có một quán tạp hóa và anh em được phép vào mua hàng. Vèo một cái tất cả hàng trong quán đều bán sạch. Anh em trả tiền đi ra, mỗi người một bao trên vai, tiếp tục lên đường, đi mãi, đi mãi trên con đường đất đỏ, qua nhiều khu rừng, nhiều nương rẫy mới vỡ, màu đất đỏ tươi. Mặt trời đổ lửa xuống đầu chúng tôi. Cái nắng của miền Đông nầy thực là khủng khiếp; chúng tôi, ai cũng mệt và khát nước. Đâu có dè đi xa thế nầy nên chẳng ai mang nước theo. Cuối cùng đến quá trưa thì đến nơi. Đó là kho gạo của quân đội vì ngoài cổng có đề bảng “Doanh trại Quân đội Nhân dân Việt Nam”. Anh em được lệnh dỡ cơm trưa mang theo ra ăn rồi lãnh gạo để về ngay. Mỗi người sẽ lãnh ba chục kí lô. Nghe trọng lượng nầy ai cũng kinh hãi. Ba mươi kí trong tình trạng gần như kiệt sức nầy! Đừng nói tới chuyện mang về, chỉ cần đưa lên vai là có thể lăn quay ra rồi.
- Thế rồi sao?
- Ăn xong, anh vệ binh chỉ vào kho bảo anh em mang bao vào lãnh gạo. Khi nào lãnh xong thì lên đường trở về. Ra lệnh xong, anh ta bỏ đi đâu mất. Chúng tôi vào kho. Chẳng có ai trong đó cả. Giữa phòng rộng, có một bồ gạo khá to và một cái cân. Chúng tôi đang đứng ngẩn ngơ thì có một anh bộ đội đi ngang qua bảo: “Các anh tự động vào xúc gạo và cân đủ ba mươi cân đi. Ai xong thì ra ngoài kia. Nhớ đừng cân dư nhé”. Thích quá, mọi người đến bồ gạo xúc vào bao, xách lên thử thấy vừa sức thì cột miệng bao lại rồi vội vã ôm ra ngoài, chỉ sợ bộ đội chận bắt vào cân lại cho đủ trọng lượng ba mươi ký thì nguy. Thế là lên đường, trên vai mỗi người một bao gạo ước chừng mười lăm kí cộng thêm vài kí hàng hóa mua được. Chỉ với bấy nhiêu thôi mà tưởng chừng như khó nuốt hết đoạn đường trở về trại. Cuối cùng, nhờ sự hò hét của vệ binh, chúng tôi cũng về tới nơi và xếp hàng trước kho gạo của nhà bếp. Đại diện được gọi đến nhận. Năm mươi người, mỗi người ba mươi kí, vị chi là một tấn rưỡi.
Tân hỏi:
- Quản giáo nói vậy à?
- Vâng, ông quản giáo nói rõ ràng như thế.
- Rồi đại diện có nhận không?
- Anh đại diện nhìn anh em một lượt và quay lại nói với quản giáo: “Thưa anh, có lẽ mỗi người mang không đủ ba mươi kí”. Quản giáo trợn mắt, quát to: “Anh nói thế nào. Không đủ à? Đây nầy, giấy xác nhận của thủ kho tiểu đoàn đã xuất đủ một ngàn năm trăm kí”. Quản giáo quay lại người đứng đầu hàng, hỏi: “Ở đằng tiểu đoàn, mỗi anh được lệnh nhận bao nhiên kí”. Anh đó trả lời: “Thưa quản giáo, ba chục kí nhưng…”. Quản giáo chận lại: “Không nhưng gì cả. Năm mươi người các anh đã nhận một tấn rưỡi thì ghi nhập kho của các anh một tấn rưỡi. Dọc đường về đây, các anh làm gì đó, tôi không cần biết”.
Tân lắc đầu:
- Thiệt hết chỗ nói.
Thành cúi đầu nhìn bếp lửa, nói với giọng buồn rầu:
- Thế là anh em mình mất toi hơn bảy trăm kí gạo. Trong nhiều ngày tới, nhà bếp rút bớt phần cơm của mỗi người. Chỉ do mệt và lười mà năm mươi anh em chúng tôi làm hại cho toàn trại. Buồn lắm, anh Tân ạ. Chúng tôi thực có lỗi nhưng cũng mong anh em tha thứ vì chúng tôi đâu có ngờ sự việc lại dẫn đến kết quả như thế. Không biết số gạo bị mất đó sẽ đi về đâu?
Tân thở dài:
- Bây giờ gạo ở ngoài đang rất khan hiếm nên bán được giá lắm.
- Vâng, đúng vậy, người ta sẽ mang bán số gạo đó để chia nhau. Đúng rồi. Người ta đã cân đủ số gạo và cho vào bồ. Tôi ước lượng gạo trong bồ lúc đầu là một tấn rưỡi. Chúng tôi hại anh em rồi.
Tân vỗ vai Thành:
- Thôi anh hãy quên chuyện đó đi. Đã mất gạo mà còn lo nghĩ nữa thì chỉ thêm cực thân một cách vô ích. Năm mươi anh em cũng đừng nên tự dằn vặt mình. Anh em không có lỗi đâu. Người ta cố tình gài anh em vào bẫy đó.
Giọng Thành vẫn không vui tí nào:
- Cám ơn anh, cám ơn anh em tha thứ cho chúng tôi. Người ta thực là tàn ác. Mình đang quá khổ vì đói chứ có phải dư dả đâu. Tôi thấy người cộng sản quá tham lam vật chất.
Tân gật đầu:
- Họ đã tự xưng là theo chủ nghĩa duy vật kia mà.
Thành lắc đầu:
- Không phải chủ nghĩa duy vật đích thực đâu. Chỉ là ngụy tạo. Chủ nghĩa của họ là đam mê, là tôn sùng vật chất chứ không phải là chủ nghĩa duy vật của triết học. Trong tài liệu chính trị họ luôn luôn nói giai cấp công nhân rất quí vì làm ra của cải vật chất cho xã hội. Họ xem vật chất là trên hết. Hành động của họ trên thực tế càng rõ ràng hơn nữa.
Tân hỏi:
- Bỏ qua cái lòng tham vật chất của họ đi, theo anh, về mặt tư tưởng, họ có theo chủ nghĩa duy vật thực sự hay không?
- Tôi đã nói rồi. Cái duy vật của họ là ngụy tạo để mà triệt hạ tôn giáo còn đích thực thì họ duy tâm.
Tân ngạc nhiên:
- Hả? Anh nói sao? Họ mà duy tâm à?
- Vâng, tôi muốn nói họ duy tâm ở chỗ gán cho các thực thể trong xã hội cái bản chất mà tự họ đặt ra. Thí dụ, hễ nói tới công nhân thì họ phủ cho một bản chất tốt đẹp của giai cấp vô sản, trái lại mọi người mà họ gọi là tư sản đều phải tồi tệ về mọi mặt. Thế giới quan của họ là một tập họp các ý niệm hoàn toàn chủ quan, chỉ do sự suy luận và óc tưởng tượng của họ mà ra. Thế là duy tâm rồi.
Thành cười và nói tiếp:
- Tôi là một bác sĩ nên triết học không phải là lĩnh vực của tôi, vì vậy tôi trình bày vấn đề nầy không được rõ ràng và thuyết phục, có phải không anh Tân?
Tân gật đầu:
- Tôi hiểu và khâm phục sự suy nghĩ của anh dù anh là bác sĩ chứ không phải là triết gia. À, anh Thành, anh là bác sĩ quân y của biệt động quân, anh có biết trung tá Đoàn Thạch Thảo không?
- Biết chứ, trung tá liên đoàn trưởng.
- Anh ở trong liên đoàn của anh Thảo à?
- Không, tôi thuộc liên đoàn khác nhưng tôi biết ông ấy vì cái tên rất đặc biệt và vì ông là một sĩ quan nổi tiếng giỏi chiến thuật và gan lì. Anh có bà con với trung tá Thảo à?
- Không chỉ là bạn thôi nhưng là bạn rất thân. Lúc còn trong quân trường, chúng tôi họp lại thành một bộ ba. Một đứa đã tử trận, tôi thì đang nằm trong trại cải tạo, còn anh Thảo không biết bây giờ ra sao.
- Sau ngày “giải phóng”, tôi có gặp một sĩ quan trong số đàn em của trung tá Thảo và ở cùng liên đoàn với trung tá cho tới ngày bại trận. anh đó bảo rằng khi nghe lệnh buông súng đầu hàng thì trung tá Thảo định tự tử nhưng tất cả các sĩ quan có mặt đều can ngăn. Sau đó, trung tá bỏ ý định tự tử, đích thân căng lá quốc kỳ lên để mọi người chào lần cuối cùng. Rồi trung tá cởi lon và huân chương của mình ra và bảo mọi người làm theo mình. Trung tá gói tất cả vào lá quốc kỳ và châm lửa đốt. Trung tá nhìn ngọn lửa cháy đến hết thì lấy khăn ra lau nước mắt rồi cho lệnh giải tán liên đoàn, ai muốn đi đâu thì đi. Có người hỏi thì trung tá nói rằng sẽ vào chiến khu hay trốn ra ngoại quốc và hẹn ngày trở về để phục quốc.
- Sau đó, anh có biết anh Thảo đi đâu không?
- Không, có lẽ ông ấy đã trốn đi rồi. Sau khi miền Nam đầu hàng thì nhiều ngày sau đó, những chiếc tàu còn lại của Hải quân và của thương gia vẫn tiếp tục lên đường chạy trốn. À, tôi nghe nói trung tá Thảo là học sinh miền Bắc vượt biên vào Nam phải không?
- Phải.
- Ông ấy còn thân nhân ngoài Bắc không?
- Chỉ còn một người em gái có cái tên rất đẹp là Đoàn thị Hải Đường, không biết bây giờ ra sao?
- Tại sao ông ấy không ở lại Việt Nam để có dịp đi tìm lại cô em gái đó?
- Anh Thảo thương nhớ cô em gái lắm nhưng tôi biết tính anh ấy. Nếu anh ấy gặp cán bộ công sản thì nhất định hai bên phải có một bên về chầu ông bà.
- Căm thù đến thế à?
- Không căm thù sao được? Cha mẹ anh ấy không phải là địa chủ mà bị đấu tố đến chết.
- À, tôi hiểu rồi. Trong Nam mình, cộng sản chưa giở trò tàn ác ngoại trừ một trường hợp khá thu hẹp là cuộc tàn sát vào những ngày tết Mậu thân ở Huế. Vì vậy, dân miền Nam ít căm thù cộng sản, thậm chí có người còn thích sống với cộng sản nữa. Còn ngoài Bắc thì nếm quá đủ rồi nên người ta căm thù. Nhưng đó là thế hệ trước, còn những thế hệ sau nầy lớn lên bị nhồi sọ riết thì chẳng còn biết gì nữa.
Thành thở dài và nói tiếp:
- Vậy mà hay. Sống với cộng sản, càng biết nhiều, càng khổ chứ ích lợi gì.
Anh quăng nốt que củi cuối cùng vào đống lửa rồi đứng lên. Hai anh em vào nhà. Mọi người đều đã ngủ cả.



*
* *



Mùa nắng đến với những cơn gió lành lạnh từ phương bắc thổi vào. Cuộc sống trong trại cải tạo đã được ổn định và dễ chịu. Khu đất bên trong đã được dọn dẹp quang đãng. Chung quanh nhà và trên các con đường đi, mặt đất đỏ láng ô; nhờ bước chân của nhiều trăm người qua lại mỗi ngày nên đất được nén chặt trông sạch sẽ chứ không nhớp nháp như lúc mới đến.
Khu trại nằm trên một sườn đồi dốc thoai thoải, bên dưới cùng là một dòng suối trong veo. Đó là dòng nước quí giá cho tất cả mọi người. Phía thượng nguồn, bên ngoài vòng rào, dòng nước được khơi rộng thành một cái hồ be bé, chung quanh có những tảng đá xếp liền nhau, tạo thành bờ tường sạch sẽ và vững chắc. Đó là nơi tắm rửa dành riêng cho quản giáo và vệ binh. Qua khỏi hàng rào, dòng suối có một đoạn khá dài trong khuôn viên của trại và được chia thành hai phần. Phần bên trên dành ăn uống và tắm rửa, phần bên dưới dành để tưới cho khu vườn rau.
Trong vườn, rau mọc lên xanh tươi trông thực mát mắt. Cải, dền, rau muống xen kẽ với nhau trong các luống trên mặt đất. Trên cao, bầu bí, trái xanh mơn mởn, lắc lẻo, đong đưa.
Hàng ngày, hầu hết anh em được dẫn ra ngoài trại để làm lao động. Công việc chính yếu bây giờ là hái bắp và nhổ sắn chất thành đống để nông trường cho xe đến mang đi. Ngày nào người ta cũng cho anh em một số sắn và ngô, quản giáo dễ dãi cho mang vào trại. Thế là mỗi đêm, từng nhóm ngồi quanh bên đống lửa, bên trên là một nồi sắn, bắp sôi ùng ục, hơi bốc lên thơm ngào ngạt.
Bụng no thì sức khỏe khá lên, mọi người bắt đầu vui vẻ ca hát. Trong các câu chuyện bên bếp lửa hồng, anh em không còn nhắc lại những kỷ niệm của một thời cầm súng nữa. Cuộc chiến đã bị chôn vùi sâu trong quá khứ, bây giờ mọi người chỉ còn bàn bạc đến cái ngày ra khỏi trại cải tạo nầy, làm gì để nuôi sống thân mình và vợ con trong một xã hội được mệnh danh là xã hội chủ nghĩa.
Sau một đợt học tập kéo dài đến hơn mười ngày, anh em bàn tán xôn xao về tin đồn rằng thời gian bị giam giữ đã chấm dứt, chính phủ cách mạng sẽ lần lượt cho mọi người về với gia đình. Nhiều người tỏ ra nghi ngờ về tin đồn nầy, nhưng lại có người quả quyết rằng điều đó là do các anh giảng viên chính trị cho biết trong giờ nghỉ ngơi giữa các buổi học.
Tin đồn đó quả thực đúng!
Một buổi sáng hơn hai mươi anh em được gọi lên văn phòng để làm thủ tục phóng thích. Cả trại như nổ tung vì hân hoan và hi vọng. Sáng hôm sau, mọi người đứng chật hai bên con đường dẫn ra cổng để tiễn đưa toán người may mắn đầu tiên được ra khỏi nơi giam cầm.
Sau đó, gần như hàng tháng, lại có một đợt phóng thích, trại cứ thưa dần. Vào đầu mùa mưa, Tân được gọi tên lên văn phòng làm thủ tục. Đêm hôm đó, Tân cùng vài anh em khác ngồi bên bếp lửa đến tận nửa đêm. Anh nhìn gương mặt của từng người. Trong ánh sáng của ngọn lửa bập bùng, những gương mặt đó trông xanh xao, buồn bã, không còn lưu lại chút nào cái nét ngang tàng của những người lính chiến lúc còn xông pha trên trận mạc.
Tân ngước mắt nhìn ra bên ngoài. Rừng tối đen như mực. Phía dưới dòng suối vài con đom đóm lập lòe. Đêm nay là đêm cuối cùng anh còn nhìn thấy cảnh núi rừng âm u nầy. Nghĩ tới đó, anh cảm thấy lòng thật bùi ngùi.
Suốt đêm, Tân ngủ rất ít, phần lớn thời gian nằm thao thức lắng nghe từng ngọn gió thổi ào ào trong rừng. Thỉnh thoảng có tiếng lầu bầu mớ ngủ của ai đó trong phòng. Anh nghĩ rằng giờ nầy có nhiều người đang mơ về với gia đình để sống nốt chuỗi ngày còn lại của đời mình trong một đất nước không còn tiếng súng.
Gà rừng eo óc gáy xa xa báo hiệu một ngày mới sắp đến. Tân bước xuống giường, dậm mạnh hai chân để xua đuổi rắn độc ban đêm thường lẻn vào. Anh bước ra ngoài. Dưới ánh sáng nhạt nhòa của bầu trời đầy sao, anh nhìn thấy rõ những dãy nhà nằm im lìm, cái hàng rào hiện ra lờ mờ bên kia bờ suối, băng qua khu vườn rau và khuất mất sau những dãy nhà làm văn phòng cùng chỗ ở của quản giáo và vệ binh.
Tân gom một ít củi khô để nhúm lửa và bắt nồi nước lên. Vài người thức dậy đến ngồi quanh bếp. Họ im lặng nhâm nhi chén nước trà trong sương lạnh của mùa mưa vừa chợt đến.
Khi trời đã sáng tỏ, Tân mang tất cả đồ dùng cá nhân của mình phân phát cho anh em còn ở lại rồi bắt tay từ giã từng người.
Thành dang rộng hai cánh tay ôm chầm lấy Tân:
- Hôm nay anh về với đời cho vui vẻ nhé. Hi vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu đó để nhắc lại những ngày sống trong tù. Chúng ta đã có một quãng đường đời không thể nào quên được.
Tân cảm động nhắc lại lời bạn:
- Vâng, không thể nào quên được.
Tân cúi chào anh em một lần nữa rồi bước ra cổng trại. anh choáng ngợp với ý nghĩ vừa được phóng thích sau ba năm bị giam cầm. Anh đang được tự do! Không hẳn thế. anh nhớ lời Thành nói rằng người cộng sản đã biến cả miền Nam lẫn miền Bắc thành một nhà tù khổng lồ. Dù nhận định của Thành là đúng, anh vẫn bằng lòng cái nhà tù khổng lồ đó vì được sống chung với Thùy Liên và hai con của mình. Sống chung với những người thân yêu đó thì địa ngục cũng hóa thành thiên đàng.