Khoảng
ba tháng sau đợt thăm nuôi, một buổi chiều sau khi ăn
cơm xong, có lệnh tập họp lên hội trường. Tập họp
vào giờ nầy là điều bất thường, chắc chắn không
phải là học chính trị. Tuy nhiên, sau hơn một năm bị
giam cầm, anh em đã có được một thái độ thờ ơ đối
với những việc xảy ra cho mình.
Quản
giáo trưởng từ từ bước ra đứng sau bục thuyết
trình. Như thường lệ ông ta cầm ống vi âm lên gõ mấy
cái. Những tiếng lốp bốp vang dội trong hội trường.
Từ trong loa phát ra tiếng khó nghe và khó cảm tình:
-
Các anh im lặng nghe quyết định của cấp trên. Sáng mai
các anh sẽ di chuyển đi nơi khác. Đi đâu? Để làm gì?
Các anh sẽ đến một nông trường để lao động sản
xuất. Trước đây, các anh làm lính đánh thuê cho thực
dân, đế quốc, các anh không biết lao động là vinh
quang, các anh chỉ biết cầm súng chống lại nhân dân chứ
không hề biết lao động là gì.
Người
kế bên bấm vào tay Tân và nói nhỏ:
-
Nó nói như thế mà không ngượng miệng, khi đứng trong
cái hội trường to lớn nầy do anh em mình dựng lên chỉ
nội một tuần lễ, trong điều kiện ngặt nghèo không có
một cái búa, cái kềm, cây đinh, sợi kẽm.
Tân
vội quay qua nói nhanh:
-
Suỵt, đừng tức giận, hãy nghe lão nói tiếp.
Tiếng
nói trên loa vẫn oang oang:
-
Các anh đã học chính trị xong phần cơ bản và đã hiểu
được con đường chính nghĩa mà mình phải theo. Bây giờ
các anh mới thực sự bước vào cải tạo. Cải tạo bằng
lao động. Lao động là phương cách duy nhất để cải
tạo cho con người trở nên lương thiện. Các anh phải
vui mừng bước vào giai đoạn cải tạo đó. Ngày mai các
anh sẽ lên đường. Khuya nay nhà bếp sẽ nấu cơm cả
ngày và cấp phát cho mỗi người mang theo phần ăn của
mình. Thôi, các anh giải tán về phòng.
Anh
em đứng dậy và chậm rãi ra khỏi hội trường. Về đến
phòng, mọi người bàn tán về lệnh di chuyển vừa rồi
nhưng không còn sự háo hức như trước nữa. Đêm xuống,
các “câu lạc bộ uống trà” vẫn sinh hoạt bình
thường.
Quát
rót nước ra chén:
-
Bắt đầu nhâm nhi đi anh em. Hôm qua anh Tấn lén gởi cho
bộ đội mua được nửa ký đường tán và hôm nay mang
tất cả ra đãi anh em mình uống trà. Đây là bữa cuối
cùng, anh em mình uống trà và nói chuyện nơi nầy. Đây
tuy là nhà tù nhưng đi khỏi nơi nầy mình sẽ nhớ nó vì
nó đã chứng kiến những ngày đau khổ của những người
lính bại trận là chúng mình đây.
Trí
cười khẩy:
-
Chắc gì đi. Lần trước cũng cho lệnh di chuyển, lừa
gạt chúng mình ra khỏi phòng để tịch thu dao và các
dụng cụ khác. Lần nầy e lại bị gạt nữa. Sao, ý kiến
tổ trường Định thế nào?
Định
thủng thẳng trả lời:
-
Theo tôi, lần nầy, người ta không lừa gạt theo kiểu cũ
nữa. Họ phải hiểu mỗi cách lừa gạt chỉ có thể áp
dụng một lần thôi. Hơn nữa, quản giáo trưởng cho hay
trước cả một đêm để chuẩn bị thì chắc là đi thực
rồi, nhưng đi với mục đích gì?
-
Đi nông trường để cải tạo bằng lao động.
Định
bỉu môi:
-
Nông trường là cái gì? Tù thì chỉ có đi từ nơi giam
nầy đến nơi giam khác mà thôi. Còn cải tạo bằng lao
động là cái gì? Đó chỉ là một từ hoa mỹ để lừa
bịp thân nhân của chúng ta và để chống đỡ với sự
công kích và phản kháng trong dư luận thế giới về số
tù nhân kỷ lục ở Việt Nam hiện nay.
-
Nhưng tại sao phải chuyển chúng ta đi nơi khác?
-
Tôi nghĩ rằng các ông ấy không muốn chúng ta ở chung
một chỗ quá lâu sợ sinh biến. Có lẽ các ông làm công
việc gọi là “biên chế” để xáo trộn tập thể tù
chúng ta. Tôi đoán chúng ta sẽ bị chia thành nhiều nhóm,
sát nhập với các nhóm của những trại khác để thành
lập những trại mới. Chúng ta sẽ chịu sự “biên chế”
nhiều lần như thế trong quãng đường tù đày của
chúng ta.
Tân
thở dài:
-
Như vậy có nghĩa đêm nay là đêm cuối cùng mình ngồi
uống trà đông đủ thế nầy. Nghĩ cũng đáng buồn.
Định
mỉm cười:
-
Một nỗi buồn quá nhỏ so với nỗi buồn khổng lồ của
cả miền Nam. Thôi, chúng ta nên dửng dưng với mọi trạng
huống. Đó là thái độ tốt nhất của người tù.
Câu
nói có tính triết lý của Định làm cho tất cả cảm
thấy nhẹ nhàng và cùng nhau vui vẻ như những đêm trước.
Một
đêm đi qua. Từ sáng tinh mơ, anh em đã được lãnh cơm
và tập họp ra sân cờ trước văn phòng quản giáo. Ở
đầu sân rộng, một dãy xe đậu im lìm. Vẫn là những
quân xa vận tải do Liên xô chế tạo. Mọi người đang
đợi lệnh lên xe thì quản giáo trưởng xuất hiện, bước
đến trụ cờ, nói trong loa cầm tay:
-
Các anh tập họp thành hàng cho ngay ngắn rồi ngồi xuống.
Mọi
người im lặng tuân lệnh. Ai cũng tự hỏi:
-
Chuyện gì nữa đây? Có thực chuyển trại không? Với
cách mạng thì mọi sự đều có thể xảy ra bất ngờ
vào giờ chót.
Tiếng
loa vang lên:
-
Chỉ một bộ phận trong các anh được lên đường đi
lao động kỳ nầy. Những người khác đi vào dịp khác.
Các anh nghe gọi tên, ai được gọi thì lên xe.
Tân
quay sang Định nói nhỏ:
-
Có kẻ ở người đi. Anh nói đúng rồi. Đây là một
cuộc biên chế tù.
Định
gật đầu:
-
Tôi mong anh và tôi lại được ở chung sau sự biên chế
nầy.
-
Tôi cũng mong như thế.
May
mắn thay, một lát sau cả hai người cùng những người
khác trong tổ đều được gọi tên lên xe.
Không
bao lâu sau, nắng đã lên cao, đoàn xe mở máy và lăn
bánh. Tân nhìn về phía sau qua quãng trống. Những luống
rau xanh um lấp ló sau những dãy nhà tôn, mái hội trường
vượt lên trên tất cả, dãy hàng rào chạy dài, nhiều
khoảng dây leo đã phủ kín. Tân thu vào tầm mắt mình
lần cuối cùng khung cảnh quen thuộc sắp trở thành vùng
đất của quá khứ với biết bao kỷ niệm buồn đau, sẽ
mãi mãi còn lưu lại đậm nét trong tâm khảm mình.
Xe
đi qua chiếc cổng mở rộng. Lần đầu tiên, Tân được
ra ngoài vòng rào của trại. anh nhìn lên tấm bảng màu
đỏ kẻ chữ vàng sặc sỡ: “Không
có gì quí hơn độc lập tự do”.
Qua khoảng trống bên dưới tấm bảng, anh thấy lố nhố
những cánh tay đưa lên vẫy chào tạm biệt. Anh cảm thấy
thực bùi ngùi. Hơn một năm rồi, cả ngàn con người bị
tước đoạt tự do và bị giam cầm trong một khu đất
chật hẹp được cách mạng gọi tên là “không
có gì quí hơn độc lập tự do”!
Xe
chạy rất chậm trên con đường đất có nhiều vũng to
và sâu chứa đầy nước do trận mưa của những ngày
trước để lại.
Ồ!
Đây đúng là khu nhà của bộ tư lệnh sư đoàn Mười
tám trước kia. Kìa là trung tâm hành quân, và ôi chao, đó
là dãy nhà của khối chiến tranh chính trị, nơi anh đã
làm việc trong những tháng tái ngũ với thiếu tá Bảo,
vị chỉ huy nhân từ! Không biết người sĩ quan đáng
kính đó đã hi sinh vì Tổ quốc hay vẫn còn sống trong
một trại cải tạo hoặc ở một vùng đất xa xôi nào
đó trên bản đồ thế giới!
Đoàn
xe thẳng đường về Sài gòn, đến trưa thì đổi hướng
chạy về Tây ninh và rẽ lên biên giới. Xe lăn bánh rất
chậm trên con đường đá gồ ghề và cuối cùng dừng
lại. Mọi người được lệnh xuống xe, nhìn thấy hai
bên toàn cây cối xanh um.
Tân
đến gần Đại, một người bạn tù cùng tổ:
-
Tôi nhớ trước đây anh là sĩ quan của tiểu khu Tây ninh
phải không?
-
Đúng, tôi công tác ở đó gần ba năm trước khi Tây ninh
thất thủ.
-
Anh đến đây lần nào chưa?
-
Chưa, nhưng tôi biết đây là Đồng bang, đi thêm khoảng
hơn mười cây số nữa là đến chợ Cà tum nằm trên
biên giới Việt Nam Cam bốt. Trước kia đây là vùng oanh
kích tự do. Đó anh xem cái hố to đầy nước đằng kia
kìa. Hố bom do B52 rải thảm đó. Trong rừng có nhiều hố
lắm, rải rác khắp nơi. Tôi đã cùng với các sĩ quan
tiểu khu bay trên vùng nầy nhiều lần.
-
Ở đây trông hoang vu quá nhỉ?
-
Trước đây cũng có nhiều nhà dân sống hai bên đường.
Nhưng từ khi Việt cộng hoạt động mạnh, vùng nầy bị
oanh kích liên miên thì dân bỏ nhà cửa về thành phố để
ở, bây giờ hòa bình rồi họ mới bắt đầu trở lại.
Có lẽ chúng ta sẽ bị đưa vào rừng để lập một trại
tù, sống biệt lập trong đó chứ vùng nầy thì đâu có
nhà cửa gì như các khu gia binh ở Long khánh.
Quả
như lời dự đoán của Đại, cả đoàn được dẫn theo
một đường mòn nhỏ chui vào rừng già. Sau một đoạn
đường độ một cây số, anh em được lệnh dừng lại.
Nơi đây, đoàn người bị rừng già vây bủa, tách biệt
hẳn với thế giới bên ngoài. Chung quanh toàn là những
thân cây thẳng băng cao vút, bên trên, bầu trời chỉ còn
là những đốm sáng lung linh giữa cành lá và dây leo um
tùm. Cả đoàn tập họp lại, chia thành nhiều tổ. Mỗi
tổ được phát vài con dao và cưa.
Anh
em dọn sạch ngay một vùng be bé và đêm đó mọi người
nằm dưới đất để ngủ. May mà trời tốt, không có
mưa đêm.
Trong
nhiều ngày tiếp theo, tiếng dao chặt, tiếng cưa kéo vang
lên từ sáng đến chiều. Không bao lâu, trong rừng già
xuất hiện một khu trống khá quang đãng, nhiều dãy nhà
được dựng lên kế tiếp nhau, xa ra một khoảng là hai
dãy nhà dài làm nơi ở của quản giáo, bộ đội cùng là
văn phòng và kho thực phẩm. Sau hai tuần lễ thì mọi
việc xong xuôi. Mỗi tổ gồm mười người cất xong một
gian nhà dài thậm thượt, nên chỗ ở rộng thênh thang.
Tuy
nhiên, chỉ vài ngày sau, các đoàn tù từ các nơi khác đổ
về. Họ được chia vào các dãy nhà. Mỗi dãy bây giờ
chứa đến năm mươi người, họp thành một đơn vị gọi
là “bê”. Người mới, người cũ bắt tay nhau hỏi thăm
tíu tít. Tất cả đều là sĩ quan cấp úy trước kia,
trình diện ở nhiều địa điểm và đã bị giam giữ ở
nhiều nơi khác nhau. Có những người trước là bạn thân
hay cùng chung đơn vị hoặc nhiệm sở, ôm nhau mừng cho
dịp may đưa họ gặp nhau tại chốn nầy. Mọi người
tiếp tục bận rộn với nhiều công việc. Người thì đi
chặt tre về đan vách cho nhà được kín gió, kẻ thì đi
đẵn cây về vạt nhọn làm thành một hàng rào kiến cố
để nhốt tập thể mình trong đó.
Mùa
mưa lặng lẽ đi qua, mùa nắng bắt đầu với bầu không
khí mát dịu. Một buổi sáng, Tân cùng một số anh em
được cảnh vệ dẫn vào rừng để đốn cây về làm
hội trường. Đẵn được cây thứ nhất, một mình Tân
vác về trại. anh bước đi một cách khó khăn trong khu
rừng đầy những dây leo và lùm bụi cản bước chân.
Bên trên, nhiều tầng lá cây che khuất bầu trời làm cho
ánh sáng trong khu rừng mờ nhạt như sắp bước vào buổi
hoàng hôn. Thoát ra khỏi khu rừng, Tân gặp ngay một cái
trảng rộng lớn phủ đầy cỏ thấp xanh mượt. Cả bầu
trời bỗng chốc như nở rộng ra. Vài cụm mây trắng xốp
như bông gòn treo lơ lửng trên một nền xanh lơ cao thăm
thẳm. Ngọn gió đông bắc mát lạnh thổi ào qua làm cho
khu rừng sau lưng cất tiếng ca và trảng cỏ trước mặt
dợn sóng theo một điệu múa nhịp nhàng.
Tân
đặt thân cây nặng trên vai xuống, cởi áo ra cuộn lại
lau mồ hôi trên mặt. anh đứng yên, say sưa ngắm phong
cảnh tĩnh mịch, đẹp tuyệt vời. Trảng cỏ rộng thênh
thang được bao bọc bởi những thân cây trắng và xám
của những khu rừng già chung quanh. Từng bầy chim bay lượn
qua trảng cỏ rồi đáp vào bìa rừng kêu ríu rít.
-
Anh vác nặng, mệt lắm phải không?
Tân
giật mình vì giọng nói thực đột ngột và rõ ràng sau
lưng. anh vụt quay lui, thấy một chú vệ binh đứng gần
tự lúc nào. Tân đáp vội vã:
-
Vâng, cây nầy gỗ tốt nên khá nặng. Tôi nghỉ một chút
rồi vác về trại ngay.
Nói
xong anh mặc áo vào rồi khom xuống định nhấc cây lên.
Chú vệ binh cản lại bằng một giọng nhỏ nhẹ đáng
ngạc nhiên:
-
Không vội gì. Anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi hẳn đi.
Anh ngồi xuống đây nói chuyện với tôi một chút cho
vui.
Tân
hết sức ngạc nhiên về thái độ lạ kỳ của chú bộ
đội nầy. Tuy vậy, anh cũng ngồi yên trên thân cây đối
diện với chú. Tân liếc nhìn và thấy một khuôn mặt
còn khá trẻ, khoảng ngoài hai mươi. Đôi mắt chú nhìn
ra xa có vẻ mơ màng và không có chút gì đáng gọi là
xảo quyệt cả. Tân cảm thấy yên tâm nhưng vẫn ngồi
lặng yên.
Đột
nhiên, chú bộ đội quay lại hỏi:
-
Anh theo đạo nào?
Tân
lại giật mình. anh biết tôn giáo là cái thứ mà người
cộng sản quan tâm và thù ghét nên suy nghĩ một chút và
đáp lời một cách thận trọng:
-
Trong lý lịch tôi khai là đạo Phật vì tôi nghĩ rằng ba
má tôi theo đạo đó. Tuy nhiên, tôi chưa làm lễ qui y và
rất ít khi đi chùa.
-
Thế anh có cảm tình với đạo Thiên Chúa không?
Nỗi
nghi ngờ trong lòng Tân tăng lên. anh nghĩ rằng hắn đang
gài mình vào một cái bẫy gì đây. Mặc, đã là thân tù
rồi thì còn sợ gì nữa. anh nói một cách thẳng thắn:
-
Có, tôi dành rất nhiều cảm tình với đạo Thiên Chúa.
Tôi có một ân nhân là con chiên ngoan đạo. Bạn bè tôi
nhiều người theo đạo đó. Tôi cũng biết nhiều linh mục
và nhiều nữ tu sĩ rất đáng khâm phục vì họ hi sinh cả
đời để làm việc phước thiện cho xã hội. Đôi khi
tôi cũng theo bạn bè đến nhà thờ để dự thánh lễ.
Chú
bộ đội nhìn Tân với cặp mắt sáng lên niềm vui thích:
-
Thế à? Hay lắm. Anh có biết hôm nay là ngày gì không?
Tân
nhíu mày suy nghĩ, chưa kịp trả lời thì chú đã nói
nhanh:
-
Hôm nay là ngày hai mươi bốn tháng mười hai. Đêm nay
Chúa ra đời trong máng cỏ ở thành Bê lem.
Tân
sửng sốt, há hốc mồm nhìn chú bộ đội. Chú cười
thực dễ thương:
-
Anh ngạc nhiên lắm phải không? Để tôi kể rõ cho anh
nghe. Bố tôi ngoan đạo lắm nhưng phải tuyên bố bỏ đạo
vì tương lai của chị em tôi.
Tân
hỏi một cách dè dặt:
-
Tại sao cụ làm như thế?
-
Vì ngoài Bắc, lý lịch quan trọng lắm. Mình không có đạo
nhưng bố mẹ có đạo thì cũng gay go về việc thăng tiến
lắm. Tôi biết bố tôi rất khổ về điều nầy. Cái bàn
thờ Chúa, tài sản duy nhất do ông nội tôi để lại, bố
tôi cũng dẹp bỏ, chỉ giữ lại cây thánh giá đem cất
kỹ dưới đáy rương. Thỉnh thoảng tôi lại thấy bố
tôi lấy thánh giá ra hôn rồi cất lại cẩn thận. Hằng
năm, vào đêm Giáng sinh, đợi mọi người đi ngủ hết,
bố mẹ tôi lấy thánh giá ra, đặt lên bàn và quỳ xuống
lầm thầm đọc kinh.
Chú
bộ đội cúi mặt nhìn xuống đất rồi nói nhỏ rất
nhanh như muốn vội vàng trút hết tâm sự của mình:
-
Tôi có hai người chị và một đứa em gái. Tôi là con
trai duy nhất trong gia đình. Lúc tôi vừa tròn hai mươi
tuổi, chuẩn bị vào Nam chiến đấu thì trong ngày Giáng
sinh cách nay đúng ba năm, bố tôi đã nói với tôi rằng,
lúc tôi mới sinh ra đời, bố mẹ đã xin lễ cho tôi
nhưng rồi sau đó, đảng và chính phủ về tiếp quản
vùng tôi, cha xứ bỏ vào Nam nên nhà thờ ngưng hoạt
động. Bố tôi muốn rằng trong lý lịch của tôi cứ
khai là không có tôn giáo để được thăng tiến như
người khác nhưng trong thâm tâm thì phải nhớ rằng tôi
đã là con chiên của Chúa và khi có dịp hãy trở về với
Chúa. Có lần tôi vào đây thấy nhà thờ khang trang đẹp
đẽ, tôi thèm bước vào quỳ trong nhà thờ để nhớ đến
bố mẹ tôi, nhưng tôi cố dằn lòng ham muốn của mình
lại. Tôi là người bộ đội của đoàn quân giải phóng
miền Nam, đã trải qua bao gian nguy mới đi đến chiến
thắng hoàn toàn. Tôi đang phấn đấu để được vào
đảng và cố quên lời dặn của bố tôi đi. Năm ngoái,
chị tôi nhắn tin vào cho biết bố tôi đã mất, tôi khóc
cả một ngày trời. Bố tôi mất một ngày trước lúc
Chúa sinh ra trên trần thế. Hôm nay được đúng một năm
và một ngày. Mấy hôm rồi tôi muốn có ai đó để nói
chuyện nhưng không biết nói với ai. Nếu không nói ra
được thì tôi khổ sở trong lòng.
Tân
ngắt lời:
-
Chú không có bạn thân trong đơn vị à?
-
Có chứ, có mấy thằng thân lắm nhưng chuyện như thế
thì không thể nói cho chúng nó nghe được, nguy hiểm lắm.
Chúng nó bắt buộc phải phản ánh cho chính ủy nghe thì
tàn cuộc đời tôi. Mà không nói ra thì cực lòng lắm.
Chú
bộ đội bỗng đứng phắt dậy, nhìn thẳng vào mặt
Tân. Anh ngạc nhiên thấy trong đôi mắt của chú có nét
hung dữ. Chú gằn giọng:
-
Tôi cám ơn anh đã ngồi nghe tôi nói. Nhưng những điều
tôi nói với anh vừa rồi, anh phải tuyệt đối giữ kín.
Nếu lộ ra mà thủ trưởng của tôi biết được thì anh
đừng trách tôi nhé.
Nói
xong, chú quay lưng bỏ đi vào rừng. Tân nhìn theo cho đến
khi chú khuất sau lùm cây rậm rạp. anh đứng dậy, vác
cây gỗ về trại.
Buổi chiều, khi Tân đốn
xong cây gỗ cuối cùng thì gặp chú vác súng đi ngang qua
với nét mặt lạnh lùng và hoàn toàn xa lạ.
*
*
*
Sau
khi “biên chế” lại, tổ của Tân chỉ còn ba người
cũ là Định, Tân và Trí. Bảy người kia được đưa
sang khối khác và thay thế bằng bảy người ở trại
giam của đảo Phú quốc vừa được đưa về. Định vẫn
được anh em bầu làm tổ trưởng. Người cũ, người mới
trong tổ rất nhanh chóng thân mật với nhau vì tất cả
đều là sĩ quan chế độ cũ và nay cùng chia sẻ thân
phận tù đày.
Khi
nhà cửa xong xuôi, cuộc sống khá ổn định là đêm đêm
các “câu lạc bộ uống trà” hoạt động trở lại và
rất thuận lợi vì ở đây củi hết sức dồi dào, tha
hồ mà nấu nước. Cây trong rừng già được cả ngàn tù
khai thác mỗi ngày. Thân cây to dùng cất trại và xẻ gỗ
để quản giáo chia nhau bán, gốc và cành chất thành
những đống to tướng để làm củi. Ban đêm ánh lửa
bập bùng khắp nơi.
Đêm
nay là đêm Giáng sinh, khí trời đổ lạnh hơn những đêm
trước. Tân và các bạn ngồi quanh bếp lửa do Định vừa
nhóm lên. Củi nổ tí tách, ngọn lửa hồng nhảy múa reo
vui, hơi ấm tỏa ra chung quanh làm mọi người cảm thấy
rất dễ chịu.
Trí
lôi trong bọc ra một gói giấy. Anh trao cho Định và nói
với vẻ trịnh trọng:
-
Hôm nay là kỷ niệm này Chúa sinh ra đời. Sáng nay tôi đi
đốn cây trong rừng, may gặp được một ông già là dân
mới đến đây làm rẫy. Ông ta vác rựa đi tìm mây về
đan giỏ. Tôi nhớ tới anh Định là người công giáo nên
nhờ ông ấy mua cho một ít bánh hay kẹo về làm quà Noel
cho anh. Ông ấy bảo chung quanh đây chẳng có ai bán gì cả
phải đi đến Cà tum mới có chợ. Nhưng gần đây có một
lò đường nho nhỏ của một gia đình chuyên làm theo lối
thủ công, đường tán trông không đẹp mắt nhưng rất
ngon. Tôi vội đưa tiền và nhờ ông ấy mua một kí. Anh
Định, quà Giáng sinh do ông già Noel gởi cho anh đây. Anh
hãy vui lòng nhận lấy đi.
Định
rất ngạc nhiên. Anh đứng dậy, đưa cả hai tay trịnh
trọng nhận lấy món quà từ tay Trí, rơm rớm nước
mắt:
-
Cám ơn anh vô cùng. Đây là món quà Giáng sinh quí giá
nhất mà tôi nhận được từ trước đến nay và mãi mãi
sau nầy nữa.
Anh
dừng lại nuốt nước bọt rồi nói tiếp:
-
Tôi cũng xin giới thiệu với anh em, trong tổ mình còn hai
con chiên của Chúa, mới ở trại giam Phú quốc về. Anh
Kính và anh Chuyên.
Định
chỉ hai người trước mặt mình và nói tiếp:
-
Cả hai anh đều là trung úy bộ binh. Anh Kính là sĩ quan
của sư đoàn Bảy Bộ binh còn anh Chuyên thì ở đơn vị
Ba quản trị địa phương. Món quà Giáng sinh quí báu mà
anh Trí vừa trao tặng cho tôi cũng là quà cho anh Kính và
anh Chuyên nữa. Anh Trí đồng ý nhé.
Trí
gật đầu:
-
Như thế thì càng vinh dự cho tôi. Tôi cũng xin lỗi, hai
anh mới “biên chế” qua nên tôi không biết là hai con
chiên của Chúa.
Kính
và Chuyên cùng đứng dậy, Định trao cái gói cho Chuyên
và ngồi xuống. Chuyên mỉm cười, chớp mắt:
-
Thực là cảm động, vô cùng cảm động! Một đêm Giáng
sinh có ý nghĩa nhất trong đời tôi mặc dù không được
dự thánh lễ và dâng mình cho Chúa. Suốt ngày hôm nay,
tôi và anh Kính rất buồn nhưng bây giờ thì chúng tôi
không buồn nữa vì tôi nghĩ rằng Chúa đã mượn tay anh
Trí để trao lại cho ba anh em tôi một sự an ủi đầy
tính nhiệm mầu.
Định
tiếp lời một cách trang trọng:
-
Cái điều tuyệt vời là Chúa đã mượn tay anh Trí, một
người ngoại đạo mang niềm an ủi đến cho những con
chiên của Chúa.
Ba
anh làm dấu thánh giá, đọc một đoạn kinh ngắn, kết
thúc bằng tiếng “amen”. Chuyên mở gói đường tán ra
chia cho mọi người.
Tân
nhận viên đường trong tay, nhìn Định và nói:
-
Anh Định, sáng nay, lại có một kẻ ngoại đạo được
Chúa sai bảo nhận lấy tâm sự của một con chiên như là
một sự an ủi cho người con đáng thương của Chúa.
Định
ngạc nhiên:
-
Vậy sao? Chuyện gì vậy?
Tân
kể lại cuộc gặp sáng nay của mình với chú bộ đội
và nói tiếp:
-
Chú bộ đội yêu cầu tôi giữ kín chuyện nầy, nhưng kể
lại với các anh thì chẳng có hại gì cho chú ấy.
Định
gật đầu:
-
Phải, chú ấy sợ thủ trưởng biết và trù dập không
cho vào đảng còn anh em mình biết thì chẳng có hại gì
cho chú ấy. Anh bảo rằng câu chuyện sáng nay mà anh gặp
là do sự sắp đặt của Chúa, tôi tin như vậy. Chúa đã
mượn tay anh để ban ân sủng cho chú bộ đội đó. Đã
là ân sủng của Chúa thì nên phổ biến cho người khác
biết để tôn vinh Chúa.
Tân
nói:
-
Suốt ngày hôm nay, tôi cứ suy nghĩ mãi về câu chuyện
đáng thưong của chú bộ đội đó. Ở ngoài Bắc, tôn
giáo bị ngăn cấm dữ dội lắm phải không?
Kính
lắng tai nghe tự nãy giờ, bắt đầu lên tiếng:
-
Về mặt công khai thì không ngăn cấm. Trước khi trình
diện học tập vài ngày tôi may mắn gặp được một
người bà con từ ngoài Bắc vào. Trước kia, anh ta là
người có đạo nhưng sống ở Hà nội thì đành phải bỏ
đạo.
-
Tại sao vậy? Bị bắt buộc à?
-
Chẳng bắt buộc mà cũng như bắt buộc. Sống trong chủ
nghĩa xã hội, mọi sự hướng tới những giá trị cao cả
đều bị đả kích để tôn vinh đảng mà thôi. Người
cộng sản không thể chấp nhận tôn giáo được vì người
có đạo vẫn đặt đấng giáo chủ của mình cao hơn
đảng. Phải dẹp hết để đề cao riêng đảng mà thôi.
Nhân dân thấy rõ đường lối đó nên dần dần phải
chấp nhận vai trò độc tôn thực sự của đảng. Tuy
nhiên, trong xã hội miền Bắc hiện nay, người ta coi đảng
là độc tôn không phải vì một ý nghĩa cao cả mà vì
đảng đem lại cho người ta danh và lợi. Vào được đảng
rồi thì đương nhiên sẽ có danh tức là được đề cử
vào một chức vụ nào đó và có lợi vì được chia chác
nhiều quyền lợi vật chất. Dân chúng mỗi ngày một xa
rời tôn giáo vì thiếu người rao giảng niềm tin để
giữ chân họ lại. Sau hai mươi năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội, hầu hết các nhà thờ của miền Bắc đều
thiếu linh mục. Người ta không bắt buộc linh mục phải
cởi áo tu nhưng ngăn cản một cách triệt để sự đào
tạo linh mục. Rất nhiều biện pháp về hành chánh, an
ninh và kinh tế buộc các nhà dòng chuyên đào tạo linh
mục phải tự giải tán, ngăn cản sự tấn phong linh mục
mới, dù có quyết định của Toà Thánh Vatican.
Sau hiệp định Genève,
một số lớn linh mục di cư vào Nam, số còn lại dần
dần già và chết đi không có người thay thế. Một linh
mục còn sót lại, phải cai quản rất nhiều giáo phận
nên không thể làm hết chức năng mình được. Trong Nam,
mỗi nhà thờ cần hai linh mục hay nhiều hơn nữa mà còn
chưa làm hết công việc nên cần có nhiều thầy tu và
nhiều giáo dân tình nguyện giúp sức. Vì vậy ở ngoài
Bắc, hầu hết các nhà thờ đều ngưng làm lễ, trở nên
hoang tàn, dần dần biến thành các kho chứa thóc và chứa
dụng cụ hay hàng hóa của các hợp tác xã. Con chiên xa
rời nơi hành đạo, dần dần bỏ luôn đạo. Con cái của
họ lớn lên bị nhồi nhét lý thuyết vô thần, không còn
biết đến tôn giáo nữa. Chủ trương của đảng và nhà
nước là không công khai cấm đoán tín ngưỡng nhưng tìm
cách triệt hạ tôn giáo tận gốc rễ để mọi người
chấp nhận đảng là trên hết không còn gì cao hơn nữa.
Tân
ngắt lời:
-
Họ có làm được điều đó không? Nên nhớ rằng, trong
nền văn hóa lâu đời của của dân tộc Việt Nam, khía
cạnh tôn giáo rất sâu đậm dù không cuồng tín như
nhiều dân tộc khác. Vì vậy, mỗi nhà từ thành thị đến
thôn quê đều có một bàn thờ để thờ Chúa, thờ Phật
hoặc thờ ông bà.
Kính
gật đầu:
-
Đúng vậy. Tuy nhiên, sau hai mươi năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội những người cộng sản Việt Nam rất thành công
trong sự triệt bỏ ý thức tôn giáo trong dân chúng. Những
bàn thờ truyền thống và lâu đời đó biến mất. Một
vài nhà, phần lớn là nhà của cán bộ, sau khi dẹp bỏ
bàn thờ truyền thống thì lập một bàn thờ khác để
thờ lãnh tụ và những ông tổ cộng sản. Đó, tình hình
tôn giáo ngoài Bắc là như thế đó. Họ triệt hạ tôn
giáo nhất là Thiên Chúa giáo nhưng không có vẻ gì là
đàn áp cả. Tôi lo lắng, trong miền Nam, tôn giáo sẽ bị
tiêu diệt nhanh hơn miền Bắc nữa vì đảng đang chủ
trương “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội”. Đối với người công giáo chúng
tôi, niềm tin ở Chúa là lẽ sống, không được đi nhà
thờ hàng tuần và không được xưng tội là một nỗi
bất hạnh to lớn.
Tân
gật đầu:
-
Tôi là người ngoại đạo nhưng tôi biết sự quan trọng
của việc xưng tội trong đạo Thiên Chúa. Đó là một
sinh hoạt độc đáo của riêng tôn giáo nầy.
Kính
có vẻ hài lòng:
-
Làm người thì ai mà tránh được lỗi lầm. Sau khi phạm
lỗi lầm thì người ta hối hận, đau khổ và bị lương
tâm dằn vặt. Nếu được đi nhà thờ xưng tội với
linh mục và được cha la rầy, giảng giải và an ủi thì
có thể chấm dứt được sự hành hạ trong nội tâm. Về
việc nầy, tôi xin kể cho các anh nghe một câu chuyện đã
xảy ra cách nay mấy tháng trong trại tù Phú quốc.
Kính
uống một ngụm trà rồi với lấy cái ống điếu cày,
rít một hơi thuốc lào thực dài rồi mới nói tiếp:
-
Trong khối Ba của chúng tôi có anh Siễm, trước ngày mất
nước là đại úy quận trưởng của một quận thuộc
tỉnh Ba xuyên. Tôi còn nhớ rõ, câu chuyện xảy ra vào
một buổi chiều anh em được về trại sớm vì trời mưa
to, biển động mạnh.
Tân
tò mò:
-
Tại sao biển động mạnh lại về sớm. Các anh đi đánh
cá cho trại tù à?
Kính
cười:
-
Không phải đánh cá. Chúng tôi đi mò lấy đá vôi san hô
đem về để người ta cho vô lò nung làm vôi, chở về
đất liền bán. Công việc cực khổ và nặng nhọc lắm.
Tân
ngắt lời:
-
Tôi nhớ một bài sử ký mà trước đây tôi dạy các em,
có đoạn mô tả hành động tàn ác của nhà Minh bên Tàu
khi đô hộ nước ta. Đoạn đó thế nầy: “Chúng
bắt dân ta xuống biển mò ngọc trai, lên rừng tìm ngà
voi và sừng tê giác”.
Nghe anh Kính nói tôi thấy hai cảnh xưa và nay sao mà giống
nhau đến thế, và đều là cảnh người phương Bắc đày
đọa người phương Nam.
Kính
mỉm cười:
-
Đúng như anh nhận xét. Suốt ngày mò dưới đáy biển,
cực nhọc vô cùng. Vừa phải đổ sức ra lại thêm gió
biển nữa nên cơ thể đòi hỏi phải ăn cho nhiều. Thế
mà các anh đã biết, ở trại cải tạo nào, tiêu chuẩn
gạo cũng rất thấp, chất đạm lại vô cùng thiếu thốn
nên ai cũng bị cái đói hành hạ. Sống ngoài hải đảo
thì cái đói đó thực là khủng khiếp, phần cơm của
mỗi bữa chẳng thấm vào đâu đối với cái dạ dày
thèm khát của mỗi người. Nhưng tôi tạm gác chuyện đó
sang một bên, để tôi kể tiếp câu chuyện phạm tội
của anh Siễm cho các anh nghe. Anh Siễm là người công
giáo, biết tôi cũng là người công giáo ngoan đạo và
hơn nữa bố tôi là trùm một xứ đạo ở Gia kiệm. Anh
ấy hỏi tôi trong trại có ai là sĩ quan linh mục tuyên úy
hay không. Tôi trả lời rằng không có. Anh ấy ngồi buồn
một lát rồi nói với tôi thế nầy: “Tôi muốn tìm một
linh mục tuyên úy để xưng tội nhưng nếu không có thì
xin anh, trong tình đạo hữu với nhau, anh nghe tôi nói, may
ra tôi bớt ray rứt trong lòng”. Tôi trả lời: “Được,
anh cứ nói đi. Tôi rất muốn nghe tâm sự của anh. Chúng
ta đều là con của Chúa, chúng ta phải có bổn phận chia
sẻ cho nhau niềm hạnh phúc cũng như điều bất hạnh, sự
vui mừng cũng như nỗi buồn phiền. Đó là lời phán dạy
của Chúa”. Anh ta cám ơn tôi rồi bắt đầu kể: “Tôi
là sĩ quan bộ binh ra quân trường rồi về làm phó quận
trưởng của một quận rất trù phú. Sau đó tôi được
thăng chức lên quận trưởng kiêm chi khu trưởng. Với
chức vụ nầy, tôi có thể làm giàu hết sức nhanh chóng
nhất là trong đợt đền bù ruộng đất cho điền chủ
khi thực hiện chính sách “người cày có ruộng” của
chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Tôi đã tận tình hướng
dẫn cho nông dân được lãnh bằng khoán và cho điền chủ
được đền bù thỏa đáng. Vì vậy, không cần phải ăn
bẩn, chỉ cần chịu nhận sự đền ơn thực lòng của
họ là đủ giàu rồi. Tuy nhiên, tôi không ăn một đồng
xu nhỏ của ai. Gia đình tôi sống tằn tiện với đồng
lương của tôi. Khi cách mạng vào thì chuyện trước hết
là tra hỏi tài sản của tôi. Tôi khai chẳng có gì. Nhà
cửa, xe cộ, tất cả đều là của chính phủ, tôi giao
nộp cả rồi. Cán bộ cách mạng không chịu tin rằng tôi
nghèo khi giữ chức quận trưởng nên tiếp tục tra hỏi
tôi đến cả tháng trời cho đến khi tôi đi trình diện
học tập mới thôi”.
Kính
bỗng dừng câu chuyện và quay sang đề tài khác:
-
Ở trại tù Phú quốc, mỗi tổ phân công một người
trực luân phiên hàng ngày. Người nầy được về sớm
mang thau đi lãnh cơm và cá khô nướng về chia cho mỗi
người. Nhà bếp cách chỗ ở một quảng khá xa, đến
hai trăm mét, ngang qua một bãi đất hoang có nhiều lùm
bụi. Anh Siễm nói với tôi: “Cách nay hai bữa, đến
phiên tôi lãnh cơm. Buổi trưa nhưng trời im mát, tôi
bưng thau cơm về, hơi nóng của cơm bốc lên mũi làm cho
cái bụng đói của tôi cồn cào dữ dội. Nhìn quanh không
thấy bóng người, tôi lẻn vào ngồi sau một bụi rậm,
cho thau cơm lên hai đùi và bốc ăn lấy ăn để, rồi
đứng dậy về trại. Hôm đó phần cơm của anh em ít đi
một chút nhưng chẳng ai nói gì. Có ít đi hay không thì
cái bụng cũng chẳng bao giờ được no. Nhưng riêng tôi
thì no thực sự. Lần đầu tiên trong cả năm nay, tôi
được no, có cái cảm giác thích thú trong cơ thể, nhưng
đau buốt trong tâm hồn!”.
Giọng
Kính trở nên ngậm ngùi:
-
Anh Siễm lấy khăn chặm nước mắt. Con người đàn ông
rắn rỏi như thế mà ngồi khóc vì ăn vụng, lạ lùng
chưa? Anh ấy khịt mũi mấy cái rồi nói tiếp: “Trong
bao nhiêu năm, người ta đưa cả núi của đến tận nhà
năn nỉ tôi nhận và tôi đều từ chối, thế mà bây giờ
tôi nỡ ăn cắp cơm của anh em trong khi mọi người ai
cũng đói và phải làm công việc của người tù khổ
sai. Tôi muốn chết đi cho đỡ cực lòng”.
Kính
lại rít một hơi thuốc lào rồi nói tiếp:
-
Nghe Siễm nói như thế, tôi đâm hoảng. Tôi nắm chặt
lấy hai vai, nhìn thẳng vào mắt anh ấy và nói: “Anh
Siễm, người công giáo không bao giờ được nghĩ đến
chuyện tự tử. Đó là điều cấm hết sức nghiêm nhặt
của giáo hội. Riêng cái chuyện ăn vụng của anh thì anh
chỉ chịu phân nửa trách nhiệm thôi. Khi nhu cầu vật
chất bị hạ thấp xuống dưới mức tối thiểu mà con
người có thể chịu đựng được thì người ta bị bản
năng chi phối, có khi không tự chủ được”. Siễm thở
dài: “Lúc đó con người hành động như cầm thú phải
không?” Tôi vội trả lời: “Gần đúng như thế. Bản
năng là tính chất nguyên thủy do ý Chúa Trời sinh ra cho
mọi loài để sinh tồn. Sau đó Chúa đã khiến loài người
tự phấn đấu để có hoàn cảnh vật chất lẫn tinh
thần ngày càng cao hơn nên sự sống càng tách khỏi bản
năng nguyên thủy của cầm thú. Hiện tại người ta đang
cố tình triệt bỏ các giá trị tinh thần, đồng thời
hạ mức sống của chúng ta xuống quá thấp đến cái độ
mà bản năng nguyên thủy vùng dậy và chúng ta không cưỡng
nổi. Ở thời đại nầy mà chúng ta bị đẩy vào một
cảnh ngộ bi đát như thế thì quả thực người ta quá
tàn ác. Tôi cho rằng đó là điều cố ý, một chủ
trương của họ để thỏa mãn lòng thù hận của họ đối
với chúng ta. Trong việc nầy, anh cũng có tội nhưng anh
là một nạn nhân thì đúng hơn là một tội nhân. Chúa
hiểu điều đó và tha thứ cho anh.
Định
góp ý:
-
Anh Kính phân tích sự việc như thế là khá lắm. Sau đó,
anh Siễm được an tâm phải không?
-
Đúng vậy, anh ấy về chỗ nằm của mình với vẻ mặt
thanh thản hơn nhiều.
Tự
nãy giờ, Trí ngồi yên bây giờ mới hỏi:
-
Nhưng liệu anh ấy có tiếp tục ăn vụng nghĩa là hành
động theo bản năng vì cho rằng đó không phải là một
lỗi của mình?
Kính
cãi lại:
-
Tôi có bảo Siễm vô tội đâu nhưng tội của Siễm phát
sinh là do người khác cố tình tạo nên hoàn cảnh với
đầy ác ý, nên tội nầy được tha thứ. Chắc chắn anh
Siễm phải hiểu rằng tội chỉ được tha thứ khi nào
người ta không phạm phải nữa.
Định
vội nối lời:
-
Tôi đồng ý với anh Kính. Con người của anh Siễm biết
ăn năn tới mức độ muốn tự tử và phải đi xưng tội
với một tín đồ ngang hàng với mình thì nhất định
không bao giờ phạm tội nữa. Anh Kính thực đáng khen khi
giải quyết được một vấn đề thuộc lĩnh vực tâm
linh của một người bạn đáng thương hơn là đáng
trách. Từ câu chuyện có tính cá nhân nầy, tôi đang nghĩ
đến phạm vi to lớn hơn. Đó là đời sống của nhân
dân miền Bắc và sắp tới của nhân dân miền Nam nữa.
Từ hai mươi năm nay, chủ nghĩa xã hội đã hạ thấp mức
sống của đồng bào miền Bắc đến cái mức mà người
chỉ còn nghĩ đến chén cơm manh áo, xem thường tình cảm,
truyền thống gia đình và mọi giá trị tinh thần khác.
Đó là cách sống gần như theo bản năng cầm thú. Rồi
miền Nam cũng sẽ như thế nếu vẫn còn duy trì cái chủ
nghĩa xã hội. Thế hệ chúng ta thì vứt đi được rồi,
nhưng thế hệ con cháu chúng ta thì sao?
Mọi
người im lặng không nói gì thêm cho đến khi bếp lửa
tàn và anh em đứng dậy vào nhà.
Đêm
Giáng sinh đã đi qua thực buồn.
*
*
*
Cuộc
sống trong trại diễn ra đều đặn hàng ngày. Nhà cửa
đã xong xuôi, mỗi ngày anh em được vệ binh dẫn đi phá
rừng. Những thân cây được cưa thành từng đoạn ngắn
chất đầy trong các khoảng trống của trại. Xe vận tải
vài ngày một lần đến chở đi. Các người lái xe nói
rằng đưa những khúc cây nầy về thành phố để làm
củi đốt. Những cây dầu, bằng lăng, căm xe, gõ, giáng
hương, trắc, cẩm lai, vân vân, tất cả đều thành những
khúc củi để đốt lò. Những cành cây thì chất thành
đống to, vài hôm sau châm lửa đốt, khói bốc lên bao
trùm cả một vùng suốt ngày suốt đêm. Rừng già chung
quanh trại dần dần biến thành những khoảng đất trống
phẳng phiu, phủ đầy tro bụi.
Buổi
chiều, Tân thường ra phía sau trại nhìn qua khe trống
giữa hai cây gỗ hàng rào. anh để ý thấy mép rừng càng
ngày càng lùi xa và thở dài một cách buồn bã. anh nhớ
lại, trong những bài học địa dư xưa kia dạy cho học
trò, anh đã ca tụng rừng vàng biển bạc của Việt Nam
để gây cho các em lòng yêu nước khi hiểu được giá
trị vô song của tài nguyên Tổ quốc mình. Bây giờ,
những khu rừng quí giá đó đang bị người miền Bắc
vào đây phá tan tành.
Ôi
miền Nam thân yêu, ôi Tổ quốc thân yêu!
-
Anh Tân, sắp tối rồi, về phòng điểm danh.
Tân
giật mình quay lại thấy Định đang đứng bên trong đưa
tay vẫy lia lịa. Tân thủng thẳng bước về. Định nói:
-
Tới giờ điểm danh rồi, nhanh lên.
Mỗi
buổi chiều, trước khi trời tối, anh em phải ngồi ngay
ngắn hai bên đường đi trên mép giường để người đại
diện gọi là “bê trưởng” đi đếm số người và báo
cáo lại cho quản giáo. Sau đó vài người treo mùng lên
chui vào, đa số lại phân thành từng nhóm đến những
chỗ quen thuộc trong sân để nấu nước trà, nhâm nhi và
tâm sự với nhau. Rải rác trong sân, những bếp lửa được
nhúm lên, ngọn lửa bập bùng reo vui.
Nhóm
của Tân cũng tập họp đông đủ như mọi khi. Sau vài ba
câu chuyện rời rạc, Định hỏi Tân:
-
Khi nãy, anh ra đứng làm gì sát hàng rào vậy? Gần tới
giờ điểm danh tôi nhìn quanh không thấy anh, chạy sang
các nhà khác để tìm mà không có, tôi đâm lo.
Tân
cười:
-
Anh sợ tôi bỏ trốn mà không rủ anh đi theo à? Tôi đứng
nhìn cảnh rừng già bị chúng ta tàn phá rồi suy nghĩ vẫn
vơ quên cả giờ giấc.
Chuyên
hỏi:
-
Anh suy nghĩ về điều gì?
-
Tôi nhớ, trước khi rời nhà tù Long khánh, quản giáo nói
đưa chúng mình lên đây cải tạo bằng lao động để
trở thành người lương thiện. Thế mà mấy tháng nay,
chúng ta chỉ làm được công việc hủy diệt cả một
khu rừng già quí giá. Ở Long khánh thì chúng ta phá nhà,
lên đây thì chúng ta phá rừng. Công việc nầy làm cho
chúng ta trở thành người lương thiện hay kẻ phá hoại?
Định
cười to:
-
Thì tôi đã có nói một lần rồi. Cách mạng nói điều
gì, chúng ta cứ nghĩ ngược lại là đúng. Nhưng anh nhớ
đừng ra đứng gần hàng rào lúc trời sắp tối, rất
nguy hiểm. Bộ đội gác bên ngoài có thể bắn chết vì
cho rằng anh có ý định vượt ngục.
Vĩ,
một người trong tổ, thường ngày rất ít nói cũng góp
ý:
-
Ừ, anh Tân và tất cả chúng tra nên cẩn thận, người
ta có thể giết chết chúng ta dễ dàng như thằng Trị ở
trại của tôi trước đây vậy.
Tân
tò mò:
-
Trị là ai, tại sao chết?
-
Trước kia nó là thiếu úy chiến tranh chính trị của sư
đoàn Hai mươi mốt Bộ binh, chịu không nỗi sự tẩy não
nên phát điên. Nó thuộc về loại điên hiền lành, không
đánh đập, không phá phách gì cả nên anh em cứ cho nó
đi lang thang từ nhà nầy sang nhà khác, đêm thì ngủ
trong nhà, đêm thì ngủ ngoài sân, có hôm thấy nó xuống
chuồng heo nằm chung với bầy heo nữa.
Tân
chép miệng:
-
Tội nghiệp. Thế anh em không báo với quản giáo à?
-
Có chứ, nhưng quản giáo không giải quyết. Thế là nó
cứ lang thang như con thú hoang. Một hôm nó mon men đến
sát hàng rào kế cận một vọng gác. Người bộ đội
bảo nó tránh xa hàng rào. Nó nhìn anh ta rồi im lặng quay
lại đưa tay lên nắm vào cột trụ và chân thì đặt lên
dây kẽm gai. Anh bộ đội hét to một tiếng nữa rồi lên
đạn. Một người đứng bên trong nghe tiếng hét và tiếng
lên đạn thì hoảng hốt la to: ”Đừng bắn, đừng bắn,
nó là thằng điên để chúng tôi dẫn nó vào”. Đùng
đùng, hai tiếng nổ liên tiếp vang lên, thằng Trị gục
xuống chết ngay.
Tân
thốt lên:
-
Trời đất hỡi! Thế thằng bộ đội trên vọng gác
không biết nó là thằng điên à?
-
Sao lại không? Mọi người đều biết nó điên vì nó đi
lang thang khắp nơi. Anh em ra mang nó đi chôn, ai cũng khóc.
Nó chưa có vợ con gì cả. Cha mẹ nó đều là giáo sư
đại học.
Định
lắc đầu:
-
Con nhà trí thức như vậy thì chịu sao nổi sự tẩy não.
Điên là phải!
-
Nhưng nó đã chết oan, thực là đau đớn.
Khải,
một người khác mới được biên chế về, góp tiếng
nói:
-
Ở trại tôi trước đây cũng có một người chết oan
còn đáng thương hơn nữa. Nó là thằng thiếu úy Đào
của một trung tâm huấn luyện ở Nha trang. Nó theo các
đơn vị chạy dần về Sài gòn và cuối cùng trình diện
học tập chung với tôi. Nó là một đứa hết sức hiền
lành, cha chết sớm, chỉ còn mẹ già và một thằng anh
mà thôi. Anh nó làm thợ, đã có vợ con, đời sống chật
vật thiếu thốn. Mẹ nó buôn bán tảo tần để nuôi nó
đi học. Nguyện vọng duy nhất của nó là học hết đại
học thì đi làm để nuôi mẹ. Nhưng vừa tốt nghiệp
xong thì bị gọi động viên. Nó buồn bực lắm nhưng
cũng phải từ giã mẹ để vào quân trường. Lúc nghe
tổng thống tuyên bố đầu hàng, chẳng những thằng Đào
không buồn mà còn mừng rỡ vì từ nay hết chiến tranh
nó được sống trong hòa bình làm thuê, làm mướn để
nuôi mẹ nó. Không ngờ chưa kịp làm gì cả thì phải
chui đầu vào trại học tập, nói là mười ngày nhưng bị
giam giữ vô thời hạn. Có hôm nó nhớ mẹ nằm khóc thút
thít. Có lần nó nói với tôi là giữa mẹ và Tổ quốc,
nếu buộc phải chọn một thì nó chọn ngay mẹ nó không
chút do dự. Ngày thăm nuôi đầu tiên, mẹ nó mang lên cho
nó một cái giỏ to tướng với đủ thứ đồ dùng và đồ
ăn: áo quần, thuốc men, bánh kẹo, có cả lạp xưởng,
cái thứ mà bây giờ bên ngoài quí như vàng. Những ngày
sau đó, trong khi anh em ăn uống thỏa thích với những
thực phẩm được tiếp tế cho bõ những ngày thiếu thốn
thì nó vẫn giữ nguyên những món mà mẹ nó mang lên. Nó
vẫn tiếp tục mặc bộ áo quần đã rách bươm chứ
không chịu mặc áo quần trong số hàng của mẹ nó. Thức
ăn trong các gói thì nó mở ra nhìn rồi gói lại, cột
dây cẩn thận. Ngày hai buổi, trưa và chiều, sau khi đi
làm lao động về, nó soạn tất cả ra chỗ nằm, ngồi
yên, thẩn thờ nhìn từng món một rồi lại cẩn thận
xếp thực gọn vào cái bao mà mẹ nó mang lên rồi treo
lên vách, ngày nào cũng như ngày nấy. Anh em có người
chế giễu, có người khuyên bảo nhưng nó giữ nguyên
thái độ khác đời đó. Nó cũng đã tốt nghiệp đại
học, cũng đã là sĩ quan của quân đội, nghĩa là một
trí thức và bắt đầu có một địa vị trong xã hội
cũ, thế mà nhìn nó ăn mặc rách rưới, lom khom bên các
đồ vật mà nó nâng niu một cách thành kính thì tôi có
cảm tưởng nó như một con người cổ đại đang thờ
phụng các linh vật vậy. Ở đây có nhiều chuyện thực
lạ thường tôi không hiểu nổi.
Định
ngắt lời:
-
Tôi có đọc một quyển sách tâm lý nói về các nhà tù.
Cái không gian chật hẹp và tù túng, cái thời gian kéo
dài lê thê dễ làm cho người ta khủng hoảng về tâm lý
dẫn đến những hành động thất thường. Người bị
giam cầm càng cho rằng mình vô tội thì càng dễ bị
khủng hoảng.
-
Vâng, nó bị khủng hoảng và kết cục thực là bi thảm.
-
Bi thảm thế nào?
-
Một buổi chiều, cơm nước xong rồi, thằng Đào soạn
các đồ vật ra như thường lệ, bỗng tiếng kẻng báo
động vang lên vì một cảnh vệ báo cáo hình như có tù
vượt ngục. Lập tức nhà tù ra lệnh tập họp khẩn cấp
để điểm danh. Theo qui định từ trước, mỗi khi lệnh
báo động và tập họp được ban ra, anh em phải nhanh
chóng lên hội trường, không được chậm trễ. Lần nầy
cũng vậy, mọi người nhanh chóng ngồi ngay vào hàng, hai
tay đặt lên gối, cúi đầu xuống và im lặng tuyệt đối.
“Bê trưởng” và quản giáo đi đếm số người. Bỗng
có tiếng la to ở gian nhà kế cận hội trường. Đó là
giọng quen thuộc của một quản giáo: “Tại sao mày
không đi tập họp? Mày đang chuẩn bị đồ đạc để
trốn trại phải không?” Vài giây sau, cũng chính cái
giọng nầy la bai bải: “Thằng nầy, ối cái thằng nầy
nó giết tôi. Cứu với, nó giết tôi”. Có hai tiếng
súng nổ vang lên thực to làm cho anh em trong hội trường
hoảng hốt và bắt đầu nhốn nháo. Ông quản giáo trưởng
thét to trong loa cầm tay: “Tất cả ngồi yên và im lặng.
Nếu ai không tuân lệnh thì bị bắn bỏ”. Nhiều bộ
đội chạy rầm rập về phía có tiếng súng. Vài phút
sau, một ông quản giáo từ dưới đó đi lên, một tay
che mắt, một tay vuốt lại áo quần, phía sau một chú bộ
đội cầm súng đi theo. Ông quản giáo trưởng bước ra.
Hai người dừng lại bên ngoài hội trường và nói nhỏ
với nhau. Sau đó hai người vào hội trường, đứng sau
bục thuyết trình. Không khí thực im lặng và căng thẳng
trong khi bên ngoài, nhiều bộ đội súng cầm tay trong tư
thế sẵn sàng chiến đấu. Ông quản giáo trưởng nói to
trong loa: “Các bê trưởng báo cáo sĩ số”. Lần lượt
các đại diện báo cáo đủ, chỉ thiếu thằng Đào ở
‘bê’ tôi mà thôi. Quản giáo trưởng tằng hắng trong
loa rồi lên tiếng: “Trong số các anh có một người
ngoan cố không chịu cải tạo lại mưu đồ trốn trại.
Hắn đang chuẩn bị đồ đạc thì bị quản giáo phát
hiện nên nó đã tấn công quản giáo và gây thương tích.
Nó đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ để sát hại
nhân dân. Bây giờ được đảng và nhân dân khoan hồng
đưa về đây nuôi nấng tử tế để học tập cho trở
thành người tốt. Thế mà nó vẫn ngoan cố mưu đồ trốn
trại lại toan sát hại cả quản giáo là người được
đảng cử đến để dạy dỗ các anh. Đó là một tên
ngoan cố vẫn tiếp tục chống lại cách mạng và có hành
vi toan giết chết cán bộ. Theo các anh, tên ngoan cố đó
có đáng tội tử hình hay không?”. Lão nói xong, cả hội
trường im phăng phắc. Lão gằn giọng: “Thế nào, các
anh trả lời đi, nó có đáng tội tử hình không?”. Mọi
người vẫn im lặng nhìn trân trân về phía trước. Một
lần nữa quản giáo trưởng hét to: “Tôi nói, tên ngoan
cố đó đáng tội tử hình, ai không đồng ý thì đưa
tay lên. Tôi nhắc lại, ai không đồng ý tội tử hình
của nó thì đưa tay lên cho biết ý kiến”. Lại vẫn im
lặng, im lặng đến độ nghe cả tiếng chim ríu rít bên
ngoài gọi nhau về tổ. Giọng quản giáo trưởng dịu
lại: “Các anh không ai phản đối có nghĩa là đồng ý
tên ngoan cố đó đáng tội tử hình. Nó sẽ bị xử tử
đúng theo nhận định và nguyện vọng của các anh. Thôi
được rồi, bây giờ ban văn nghệ của các anh đâu? Mời
ban văn nghệ lên hát , các anh cùng hát chung để phấn
khởi lên nhé. Mời ban văn nghệ lên nào. Các anh muốn ca
bài gì? Tôi đề nghị bài ‘Bác cùng chúng cháu hành
quân’. Nào hát lên đi!”
Khải
ngừng nói, thở dài. Định hỏi:
-
Thế là anh thiếu úy Đào chết phải không?
Khải
gật đầu:
-
Nó bị người bộ đội bắn chết ngay phát đạn đầu
tiên. Về sau có người thương nó quá nên tìm cách điều
tra.
Định
hỏi:
-
Làm sao điều tra được?
-
Anh ấy hối lộ cho một chú cảnh vệ để nhờ tìm hiểu
sự thực và nói lại.
Tân
hỏi ngay:
-
Sự thực thế nào?
-
Lúc có lệnh tập họp thì thằng Đào thu mọi thứ vào
bao. Nó làm quá cẩn thận nên khi quản giáo và bộ đội
vào kiểm tra thì thấy nó còn lom khom trên giường. Quản
giáo bảo nó đi tập họp ngay thì nó xin quản giáo cho nó
dọn dẹp mọi thứ trước đã. Quản giáo không chịu,
mắng chửi nó và nhảy lên đá tung những thứ mà nó
sùng kính như linh vật của người tiền sử. Thế là nó
đứng lên cho quản giáo một đấm thực mạnh vào mặt
làm cho ông nầy ngã xuống đất, la cầu cứu. Chú bộ
đội lên đạn và bóp cò hai phát liền. Lúc đó mũi súng
cách đầu thằng Đào chưa đầy hai mét. Thế là chấm
dứt một kiếp sống đầy đau khổ!
Mọi
người nghe xong đều thở dài.
*
*
*
Mùa
nắng đi qua, mùa mưa ngập ngừng đến với một trận
mưa to và sấm chớp đầy trời. Rừng già bị triệt hạ
một vùng rộng lớn quanh trại và đất đã được dọn
sạch. Nước mưa và tro làm cho mặt đất có màu xám đen
trông thực mầu mỡ. Anh em tù nhân được lệnh chuẩn bị
làm mùa. Trước khi bắt tay vào việc, anh em được
trại cho phép gặp gia đình trong một đợt thăm nuôi. Mỗi
người được gửi một lá thư về nhà để thông báo
cho gia đình ngày bắt đầu đợt thăm nuôi, đồng thời
xin gia đình mang lên những hạt giống để gieo trồng.
Lần
nầy thư phải dán tem. “Bê trưởng” bị bệnh nên nhờ
Định đi thu tiền để nạp cho quản giáo. Khi trở về,
Định lôi Tân ra ngoài hàng hiên và nói nhỏ:
-
Anh Tân, có chuyện nầy lạ và buồn cười lắm.
-
Chuyện gì vậy?
-
Anh em mình mỗi người phải góp gấp đôi số tiền tem
cho mỗi bao thư.
-
Tại sao anh biết? Không lẽ quản giáo ăn chận của anh
em mình sao? Số tiền đâu có đáng là bao.
-
Tôi biết là vì tuần trước khi đi đốn tre về, tôi ghé
vào nhà dân xin nước uống và thấy một lá thư trên
bàn, rõ ràng có con tem dán vào ghi hai hào. Bây giờ quản
giáo bảo tôi thu mỗi người bốn hào là gấp đôi. Tôi
bực quá nên bậm gan hỏi quản giáo lý do thì ông giải
thích rằng chúng ta là người đi cải tạo chứ không
phải là công nhân viên nhà nước nên phải mua tem “giá
ngoài” chứ không phải “giá trong”. Tôi hỏi “giá
ngoài, giá trong” là thế nào thì quản giáo giải thích,
giá trong là giá chính thức, giá ngoài là giá chợ đen.
Mỗi tháng, mỗi cán bộ công nhân viên tức là cán bộ
và công chức được nhận một số hàng hóa thay cho một
phần lương. Số hàng hóa nầy được mang ra ngoài bán
chợ đen nếu không dùng đến.
Tân
thắc mắc:
-
Hàng hoá là những thứ gì?
-
Đủ mọi thứ. Một thước vải, một cục xà bong, một
cây kim may, vài con tem gửi thư, một số thuốc trị bệnh.
-
Thuốc trị bệnh? Nhưng là thuốc gì? Nếu bệnh thì phải
có bác sĩ khám mới biết thuốc gì cần dùng chứ.
-
Chẳng cần. Thuốc đau bụng, thuốc nhức đầu, thuốc
trị sốt rét, thuốc ho, thuốc sát trùng, thuốc trụ
sinh, vân vân, tháng nầy thứ nầy, tháng sau thứ kia.
-
Vậy trong tháng, được nhà nước phát thứ thuốc gì thì
chỉ được bệnh đó thôi à?
Định
cười:
-
Có lẽ vậy. Chủ nghĩa xã hội mà. Đảng lãnh đạo
tuyệt đối, dân phải nhất nhất tuân theo sự quyết
định của đảng và nhà nước, không còn chút tự do nào
nữa. Lành mạnh hay bị bệnh cũng phải theo sự lãnh đạo
của đảng. Đảng cho phép bệnh gì thì chỉ được có
bệnh đó mà thôi! Tháng nầy đảng cho phép bệnh nầy
nên phát thuốc nầy, tháng sau, đảng cho phép bệnh kia
nên phát thuốc kia, cứ thế mà thi hành. Ở miền Nam bây
giờ, người ta cũng đã áp dụng rập theo khuôn kiểu của
miền Bắc. Thôi, đợi mười ngày nữa, chúng ta được
gặp gia đình thì hiểu rõ hơn.
Mười
ngày trôi qua khá nhanh. Anh em lần lượt được ra gặp
gia đình và nhận hàng tiếp tế. Theo lời ban chỉ huy
trại, vì anh em cải tạo có tiến bộ nên kỳ nầy các
qui định về thăm nuôi được nới rộng. Anh em được
gặp thân nhân suốt ngày và ngồi bất cứ chỗ nào trong
khu thăm nuôi rộng lớn.
Tân
vẫn được gọi tên ngày đầu tiên. Thùy Liên đi một
mình không dẫn con theo. Thấy chồng buồn vì không được
gặp con để ôm chúng vào lòng nên Thùy Liên giải thích:
-
Thùy Dung và Hòa Bình vừa mới bị bệnh sởi, lành rồi
nhưng còn yếu, đường sá lại xa, phương tiện giao thông
rất khó khăn, em ngại hai con không đủ sức để đi.
Tân
lo lắng:
-
Hai con có ốm lắm không?
-
Bình thường đã ốm, bệnh xong lại ốm thêm. Tình hình
bên ngoài càng ngày càng xấu hơn, mọi người đều thiếu
ăn, ngoại trừ cán bộ đảng viên.
-
Vậy sao? Chuyện buôn bán của em thế nào?
-
Gay go lắm. Nhưng anh đừng quá lo lắng cho mẹ con em. Vận
rủi của đất nước mà, mọi người đều khổ như
nhau. Sài gòn bây giờ rất tiêu điều, chẳng còn tí gì
đáng gọi là hòn ngọc Viễn đông nữa. Những con đường
trước kia rộn rịp tấp nập người mua kẻ bán, khách
du lịch chen vai thích cánh thì bây giờ vắng hoe. Đường
Lê Lợi, đường Tự do, đường Nguyễn Huệ ở Sài gòn,
đường Đồng Khánh, đường Tổng đốc Phương ở Chợ
lớn đều như nhau, mọi căn phố đều đóng cửa im ỉm,
trên mặt đường chỉ có vài chiếc xe đạp mà thôi.
Trong cái cảnh hoang tàn vắng lặng đó, những chiếc loa
gắn ở một vài ngã tư đường phát ra những lời ca
tụng chủ nghĩa xã hội nghe rõ mồn một.
-
Có lẽ ngoài Bắc cũng khổ như trong Nam bây giờ vậy
thôi.
-
Khổ hơn nhiều, khổ gấp bội. Từ khi đất nước thống
nhất đến giờ, dân ngoài Bắc nườm nượp kéo vào Nam.
Họ vô cùng xanh xao, rách rưới và nghèo khổ, trông thấy
thực đau lòng. Ngoài đó đồng bào mình đều nói với
nhau rằng vào Nam là vào thiên đường nên ai cũng muốn
vào đây để hưởng. Có gia đình vào đây mà còn vác
theo một cái giường tre cũ kỹ đã được tháo rời. Họ
bảo đó là một phần gia tài của họ. Thảm thương
không thể nào tưởng tượng được
Tân
ngạc nhiên:
-
Ủa, tại sao kỳ trước, em bảo dân Bắc cho rằng dân
Nam quá cơ cực vì bị Mỹ bóc lột nên phải vào đây để
giải phóng?
-
Đó là điều xảy ra trước đây và vài tháng sau ngày
“giải phóng”. Nhưng sự thực rồi cũng bị phơi bày,
dù đảng và nhà nước ra sức ém nhẹm. Sau ngày thống
nhất, dân hai miền đều muốn đi thăm cái phần đất
nước đã bị chia cắt hơn hai mươi năm rồi nhưng lực
lượng công an ra sức ngăn cản. Chỉ có cán bộ đi công
tác và những người đặc biệt được đảng ưu ái mới
được ra Bắc hoặc vào Nam. Nhưng rồi lằn ranh chia cắt
không còn nữa thì làm sao ém nhẹm sự thực mãi được.
Thế là cả một làn sóng di dân ồ ạt đổ vào Nam để
hưởng một chút cái “thiên đường” mà đế quốc Mỹ
để lại.
-
Có ai trong Nam xin ra Bắc để sinh sống và hưởng “thành
quả của chủ nghĩa xã hội” không?
-
Chẳng ai điên rồ làm chuyện đó. Chỉ có con buôn, đi
đi về về mà thôi. Chính cái thành phần không kiểm soát
nổi nầy làm vỡ tung nổ lực ém nhẹm sự thực của
đảng. Vì thế, đảng rất ghét bọn con buôn nầy nhưng
không làm gì họ được vì đa số là vợ, là mẹ, là
chị em của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ đảng
viên ngành công an thì chẳng ai dám đụng đến. Công an
mạnh lắm, họ chi phối mọi ngành sinh hoạt của dân
chúng. À, vợ của anh Vinh cũng là con của một ông công
an ở ngoài Bắc.
Tân
tỏ ra ngạc nhiên:
-
Vậy sao? Em có thường gặp anh Vinh không?
-
Dạ có. Em có đến thăm anh chị Vinh đến ba lần và anh
Vinh có trở lại thăm mẹ con em một lần. Anh ấy tỏ vẻ
thương hai đứa bé lắm và rất mong anh trở về để anh
em gặp nhau.
Tân
chớp mắt cảm động:
-
Vợ con anh ấy thế nào? Kỳ trước, em nói anh Vinh có hai
đứa con trai phải không?
-
Dạ phải, một đứa mười hai tuổi, một đứa tám tuổi.
-
Chúng nó dễ thương không?
Thùy
Liên im lặng khá lâu. Tân nhắc lại câu hỏi. Nàng cười
gượng rồi nói:
-
Em nói thực anh đừng buồn nhé. Chúng nó không dễ thương
chút nào.
Tân
thở dài:
-
Còn chị Vinh, người thế nào, tính tình ra sao?
Thùy
Liên ngập ngừng:
-
Thôi em không dám nhận xét gì đâu. Khi nào anh về thì tự
anh biết.
-
Anh đoán rằng em không có cảm tình với chị Vinh phải
không? Có phải vì chị ấy con ông công an?
-
Không. Công an thì chẳng có liên can gì đến tình gia tộc.
Nhưng mà…. Thôi, em không thể nói gì thêm.
Tân
nhíu mày, vẻ bất an lộ rõ trên mặt:
-
Nhưng chị ấy đối xử với em và các con thế nào? Em
phải cho anh biết chứ. Anh Vinh, em và hai con là bốn người
thân yêu nhất của đời anh. Chị ấy là vợ của anh
Vinh mà.
-
Thôi, anh nài nỉ quá, em cũng phải nói chút ít về chị
ấy. Tuy nhiên em tránh trình bày nhận định chủ quan mà
chỉ mô tả một sự việc nho nhỏ đã xảy ra thôi. Em và
hai con đến thăm tất cả ba lần vào chiều tối và cả
ba lần đều gặp chị ấy. Lần đầu tiên chị ấy tiếp
em với vẻ mặt lạnh nhạt và kênh kiệu của người
chiến thắng và giàu có. Em cảm thấy bị xúc phạm. Anh
đừng rầy la em nhé. Em vẫn muốn kết tình chị em với
chị Vinh lắm chứ, vì em là vợ anh mà. Nhưng anh cũng
hiểu em là con gái miền Nam. Người miền Nam thì rất
hiếu khách nhưng cũng rất tự trọng, thấy ai tỏ vẻ
bất thân thiện với mình thì chẳng muốn gặp mặt nữa.
Có lẽ, anh Vinh thấy điều đó vì anh cũng gốc miền
Nam. Khi em ra về, anh ấy tiễn đến cổng và nói nhỏ với
em: “Lần sau đến thăm, cô nên có món quà nho nhỏ tặng
chị”. Em ra về, vừa đau khổ, vừa mừng vì đã hiểu
được chút nào tính tình của chị dâu mình để có thể
kết thân. Em suy nghĩ luôn mấy hôm xem tặng chị ấy món
quà gì hay nhất. Đối với dân miền Nam lúc nầy, quà
tặng tốt nhất là một kí gạo, một miếng thịt hay một
con cá.
Thùy
Liên ngừng lại moat chút rồi nói tiếp:
-
Sao anh nhìn em như thế, anh cho lời nói của em là bịa
đặt hay thái quá phải không?
-
Không đâu. Anh chỉ ngạc nhiên về những thứ quà mà em
kể đó thôi. Em cứ nói tiếp đi.
-
Dạ, đúng như vậy, anh ngạc nhiên cũng phải. Trước
ngày “giải phóng”, quà như thế thì chỉ dành để cho
ăn mày thôi, nhưng bây giờ thì đó là những món quà
người ta tặng cho người mình yêu quí. Bây giờ ai cũng
đói và thèm ăn. Cái ăn là trên hết. Đó là cái giá mà
miền Nam phải trả để được “giải phóng”. Một chị
bạn cùng buôn bán với em kể rằng một hôm đi ngoài
đường, tình cờ gặp một ông thầy già trước kia dạy
lớp mười hai của chị ấy đi thất thểu ngoài đường,
trông ốm nhom và bệ rạc lắm. Chị mừng quá mời ông
thầy già khả kính vào tiệm, kêu một tô hủ tiếu. Nhìn
ông giáo sư cũ của mình ăn một cách ngon lành, thấy
thương quá. Sau đó chị mua cho thầy một điếu thuốc
đầu lọc và chia tay. Nhìn cái dáng cao gầy của thầy
lủi thủi đi lẫn với bộ hành trên đường phố, nhớ
lại cái vẻ đạo mạo của thầy trước đây trên bục
giảng, chị ấy suýt bật khóc.
Thùy
Liên kể dài dòng làm Tân hơi sốt ruột:
-
Thế rồi em mua tặng cho chị Vinh mấy món thức ăn à?
Thùy
Liên lắc đầu:
-
Em đâu có khùng mà làm công việc đó. Dân chúng mới đói
chứ cán bộ có tiêu chuẩn của nhà nước mà. Miền Nam
của mình trước kia thì bình đẳng còn bây giờ phân
chia giai cấp rõ rệt lắm. Cán bộ cỡ như anh chị Vinh
thì tiêu chuẩn hàng tháng cao lắm. Thịt cá do nhà nước
cung cấp hay bán rẻ, gia đình họ ăn không hết phải đem
bán bớt đi.
Tân
ngạc nhiên:
-
Họ đưa ra chợ bán à?
-
Không, họ nhờ cửa hàng phân phối bán giúp. Nhiều cán
bộ không cần tiền thì đem về cho chó berger
ăn.
-
Trời hỡi, sao lại có chuyện như thế được?
-
Đúng như vậy đó. Nhưng thôi anh ạ, cũng đừng nên buồn
phiền làm gì, đó cũng là lẽ công bằng. Họ cực khổ
quá nhiều mấy chục năm rồi, nay cho họ sướng để bù
lại. Mình ở miền Nam sung sướng mấy chục năm rồi,
nay khổ để bù lại. Chỉ có điều khó chịu là họ vừa
hưởng vừa rêu rao đạo đức cách mạng và tự xưng là
đầy tớ của nhân dân. Người miền Nam nghe luận điệu
đó thì bực mình và chán ghét vô cùng. Nhưng thôi, số
phận của đất mước mình đến cái giai đoạn bỉ cực
nầy thì đành chịu thôi. Nghiệp chung, mọi người hai
miền phải gánh chịu. Thôi để em trở lại việc tặng
quà cho chị Vinh.
-
Ừ, em nói ngay chuyện đó đi. Anh thấy bây giờ em ăn nói
dài dòng hơn trước nhiều, có lẽ bị ảnh hưởng của
cán bộ phải không?
Thùy
Liên cười khúc khích:
-
Ngoài đời, người dân gọi cán bộ là những người nói
dai, mở miệng là tuôn ra đường lối chính sách tràng
giang đại hải. Dân miền Nam bây giờ cũng nói nhiều,
không phải bắt chước cán bộ đâu mà nói cho đỡ tức.
-
Và nói để tranh thời gian và không gian cho cán bộ bớt
tuyên truyền đi.
Hai
vợ chồng nhìn nhau cười vui vẻ. Tân nhắc:
-
Nhập đề hai ba lần rồi. Bây giờ, nói cho anh biết em
tặng chị Vinh món gì?
-
Em tặng chị ấy một cây son thoa môi và một xấp vải
may áo dài. Anh có nhớ không, trước ngày “giải phóng”,
trong lần kỷ niệm sau cùng ngày cưới của mình, anh mua
cho em một xấp vải Tô châu tuyệt đẹp, em thấy mắc
tiền quá nên chưa dám đưa ra tiệm may. Chị Bạch Mai thì
cho em một cây son và một hộp phấn thoa mặt của Pháp
chính hiệu. Hộp phấn thì em đang dùng dở dang, cây son
thì còn nguyên vẹn.
Tân
nhìn vợ bằng cặp mắt ái ngại:
-
Anh biết em quí mấy thứ đó lắm mà. Bây giờ làm sao
sắm lại được cho em.
Thùy
Liên cười thực tươi:
-
Sắm cho em làm gì nữa. Đối với thân phận chúng mình
bây giờ, những món đó cao hơn cả đồ xa xỉ nhiều
lắm.
Thùy
Liên vỗ nhẹ vào má của chồng, vừa cười vừa nói:
-
Sau nầy, anh rán “phấn đấu” trở thành cán bộ cấp
tỉnh hay cấp trung ương thì sắm lại cho em mấy món đó.
Tân
nhìn vợ, lắc đầu:
-
Em ăn nói khôi hài mà dễ thương quá!
Thùy
Liên trở lại vấn đề tặng quà cho chị dâu:
-
Anh có biết tại sao em chọn hai món đó làm quà tặng
không?
-
Vì đàn bà nào cũng thích trang điểm.
Thùy
Liên gật đầu:
-
Dạ phải. Với chị Vinh điều đó càng quan trọng hơn.
-
Tại sao vậy?
-
Tại vì chị ấy….chị ấy không được xinh đẹp lắm.
Đàn bà càng thiếu nhan sắc thì nhu cầu trang điểm càng
cao.
-
Sao? Chị ấy xấu lắm à?
Thùy
Liên không trả lời mà hỏi lại:
-
Lúc còn trẻ, anh Vinh đẹp trai lắm phải không?
Tân
trả lời một cách sốt sắn:
-
Phải, đẹp trai. Hơn hai mươi năm rồi nhưng anh còn nhớ
rõ gương mặt, dáng đi đứng của anh ấy.
Thùy
Liên ngập ngừng:
-
Về phương diện đó, anh Vinh và chị Vinh khác nhau quá
xa.
Tân
thong thả nói:
-
Theo anh, điều đó chẳng quan trọng. Sắc đẹp đâu phải
là điều kiện tuyệt đối cần thiết cho hạnh phúc gia
đình. Rồi chị ấy có nhận quà của em không?
-
Có, em và hai con đến tặng quà và được chị ấy đón
tiếp niềm nở khác hẳn lần trước.
-
Rồi thôi, em không thích lui tới nữa, có đúng không? Anh
hiểu cái tính hiền lành thân ái nhưng cương trực của
em.
-
Có, em có đến lần thứ ba cách đây mấy hôm để báo
cho anh Vinh biết em đi thăm anh. Anh Vinh có vẻ xúc động.
Anh ấy muốn gởi cho anh một món tiền nhưng em không
nhận. Em đoán anh ấy không có nhiều tiền đâu. Nhìn qua
gia đình, em biết chính xác ai là người nắm tài chính
trong nhà.
Tân
không nói gì, đưa mắt nhìn ra xa. Thùy Liên nắm chặt
tay chồng đưa lên môi mình:
-
Anh Tân, em nói chuyện làm anh buồn phải không? Em xin lỗi
anh.
Tân
vuốt tóc vợ:
-
Buồn thì buồn, chẳng sao. Có lẽ sau ngày “giải phóng”,
ở miền Nam chẳng còn chuyện gì vui để người ta nói
với nhau.
-
Dạ phải, ở Sài gòn có tổ chức nhiều buổi lễ thực
rình rang, nhưng chỉ có ồn ào và xô bồ chứ chẳng thấy
vui gì cả.
Thùy
Liên im lặng một chút rồi chợt ngẩng lên nhìn mặt
chồng:
-
Anh Tân, cách nay ba tháng, anh Đảnh có đến tìm em.
Tân
giật mình:
-
Anh Đảnh?
-
Dạ, anh Đảnh lúc trước hoạt động cho Việt cộng,
cùng tổ chức với anh đó.
-
Vậy hả? Anh ấy bây giờ ra sao?
-
Anh ấy ở ngoài Bắc được vào đây công tác. Anh ấy kể
với em rằng, lúc trước được đưa ra Bắc rồi được
cử đi học ở Đông Âu.
-
Bây giờ là cán bộ cao cấp?
-
Chắc chắn là vậy. Anh ấy đến bằng xe du lịch có tài
xế lái.
-
Vậy à, to nhỉ! Anh ấy có nói tìm anh để làm gì không?
Để thanh toán?
Thùy
Liên cười:
-
Không phải đâu. Anh ấy tỏ ra còn có cảm tình với anh
nhiều lắm. Anh ấy bảo rằng trở về miền Nam, nhớ lại
biết bao kỷ niệm, nhất là thời hoạt động cho sinh
viên học sinh với anh. Có hai người mà anh ấy muốn tìm
gặp là chị Bạch Mai và anh.
-
Tìm Bạch Mai? Anh ấy có vợ chưa?
-
Có vợ và ba con rồi.
-
Thế tìm Bạch Mai để làm gì?
-
Để xem thằng con của anh ấy bây giờ ra sao và nếu cần
thì anh ấy hết lòng giúp đỡ. Nghĩ cũng tội, dù không
nuôi dưỡng nhưng cũng là giọt máu của mình.
Thùy
Liên kể tiếp:
-
Anh Đảnh biết nhà của chị Mai nên đến đó tìm. Nhà
đã cấp cho một cán bộ rồi. May mắn, còn hàng xóm cũ,
họ chỉ anh ấy đến nhà mình. Nghe nói đến tên anh và
là bạn thân của chị Bạch Mai nên anh Đảnh biết và
mừng rỡ cho xe lái qua ngay. Cũng may, lúc đó em có ở
nhà.
Tân
lặp lại câu hỏi khi nãy:
-
Anh ấy muốn tìm anh để làm gì?
-
Đó cũng điều em thắc mắc khi tiếp chuyện với anh ấy.
Anh Đảnh hỏi anh đi đâu rồi. Em nói anh đi học tập
cải tạo. Anh ấy có vẻ ngạc nhiên nên hỏi em: “Anh
Tân là sĩ quan ngụy à?” Tự nhiên em thấy nổi giận
trong bụng ngay lập tức. Từ khi anh đi học tập, em luôn
luôn tức giận khi nghe ai xúc phạm đến danh dự của
anh. Sĩ quan ngụy, quân đội ngụy! Đó là những từ mạ
lỵ có tính hạ cấp do Hà nội đưa vào. Em cố kìm chế
để giữ vẻ thản nhiên và hỏi anh ấy: “Có lẽ anh đi
tìm thăm một đồng chí cũ. Nếu biết trước anh Tân
không còn đi theo cách mạng và trở thành sĩ quan của chế
độ thù nghịch thì anh đâu có đi tìm làm gì phải
không?” Anh Đảnh hơi giật mình nhưng cũng mỉm cười
và trả lời: “Chị nghĩ về tôi như thế à? Không, tôi
đoán biết anh Tân giã từ cách mạng từ lần cuối cùng
tôi gặp anh ấy trong cái nhà kho ở Chợ lớn. Tôi không
đi tìm đồng chí mà tìm một người bạn cũ. Hiện nay
tôi có quá nhiều đồng chí còn bạn thực sự thì chẳng
có mấy người. Tôi vẫn còn quí mến anh Tân lắm. Giữa
chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm trong một quãng đời
đẹp nhất, đó là thời gian giữa tuổi thơ ấu và tuổi
trưởng thành”. Em rất ngạc nhiên khi nghe lời nói đó.
Trước mặt em là cái ông cán bộ cộng sản đội nón
cối màu xanh của bộ đội nhưng lời nói không phải là
luận điệu tuyên truyền nhàm chán mà là những ý nghĩ
vừa có tình người lại vừa có tính lãng mạn nữa.
Tân
tiếp lời:
-
Anh cũng ngạc nhiên khi nghe em kể điều đó. Xưa kia anh
Đảnh rất cuồng tín đối với chủ nghĩa cộng sản. Có
lẽ tuổi tác rồi sự chứng kiến cái xã hội xã hội
chủ nghĩa miền Bắc và Đông Âu mà anh ấy mới thấy
đâu là thực, đâu là hư, đâu là chân lý, đâu là ngụy
tạo, đâu là đáng yêu, đâu là đáng ghét trong cuộc
đời. Anh ấy có nói gì thêm không?
-
Có, nhiều lắm.
-
Có nói gì về anh không?
-
Có, anh Đảnh nhắc lại khi anh bị bắt vào Catinat
và bị tra khảo thì anh đã chịu đựng một cách kiên
cường và bảo vệ được toàn bộ các đồng chí cùng
cơ sở hoạt động bên ngoài. Dù sau khi ra tù, anh không
hoạt động cho cách mạng nữa nhưng các đồng chí vẫn
không quên anh. Anh Đảnh hỏi có phải anh là sĩ quan biệt
phái cho bộ giáo dục không? Em ngạc nhiên hỏi sao anh
biết thì anh ấy bảo rằng lúc gặp anh lần cuối cùng
thì anh chuẩn bị thi vào đại học sư phạm. Anh Đảnh
nói rằng anh thi thì nhất định phải đậu vì anh là cán
bộ thông minh nhất của thành đoàn lúc bấy giờ. Em bảo
rằng anh chỉ thực sự làm sĩ quan trong bốn năm thôi rồi
sau đó trở về dạy học nghĩa là không cầm đến cây
súng nữa, như vậy hi vọng sẽ được cách mạng trả tự
do sớm hơn các sĩ quan khác. Anh Đảnh lắc đầu. Anh ấy
bảo rằng cán bộ miền Nam thì hiểu rõ vấn đề biệt
phái nhưng mấy ông lãnh đạo miền Bắc cứ nhất mực
cho rằng biệt phái là người của cơ quan tình báo Mỹ.
Lý do là ở miền Bắc, sĩ quan quan biệt phái là những
đảng viên cốt cán được quân ủy giao cho sứ mạng đặc
biệt ở cơ quan khác. Em nghe nói thì lo lắng quá.
Tân
an ủi:
-
Thôi, em đừng lo nghĩ làm gì cho mệt xác. Chuyện gì phải
đến thì sẽ đến, có lo cũng chẳng ích gì. Anh Đảnh
còn nói gì thêm nữa không?
-
Có, anh ấy hỏi thăm công việc của em hiện nay. Khi nghe
em nói đi buôn thì anh ấy nhíu mày có vẻ không bằng
lòng. Anh Đảnh giải thích rằng tiểu thương là cái
thành phần mà đảng rất ghét. Em hỏi tại sao thì anh ấy
giải thích rằng nếu là thương gia cỡ lớn nghĩa là có
cửa tiệm như của chị Bạch Mai trở lên thì đảng và
nhà nước chụp cho cái mũ tư sản là đánh cho ngã quị
ngay và tịch thu tài sản. Còn tiểu thương như em thì
chẳng biết chụp cho cái mũ gì để đánh mà có đánh
thì cũng chẳng tịch thu được bao nhiêu. Thành ra rất
khó dẹp được tiểu thương, nhưng trước sau gì cũng
phải dẹp. Em hỏi anh Đảnh tại sao phải dẹp tiểu
thương thì anh ấy cười bảo rằng đảng phải lãnh đạo
mọi sinh hoạt trong xã hội. Muốn được thế, đảng
phải làm sao cho mọi người phải lệ thuộc kinh tế vào
đảng.
Tân
nghe nói không tự chế được, phải ngắt lời:
-
Đảng cũng như người dạy thú. Bắt những con thú chịu
đói khát rồi đưa cục thức ăn ra nhử, thế là thú
phải ngoan ngoãn làm theo người dạy.
Thùy
Liên mỉm cuời:
-
Thời buổi nầy, anh không nên nói như thế, nguy hiểm
lắm.
-
Thôi được rồi. Từ nay anh sẽ khóa cái miệng anh lại.
Khuyên em đừng làm tiểu thương, thế rồi anh Đảnh đề
nghị em làm cái gì để kiếm tiền mà nuôi con?
-
Anh ấy đề nghị em đi làm việc cho nhà nước.
-
Là làm gì?
-
Thứ nhất là muốn về cơ quan anh ấy để làm việc thì
anh ấy sẽ đề nghị phòng tổ chức nhận ngay.
-
Cơ quan gì?
-
Em đâu có biết và em cũng không hỏi vì em đâu có bằng
lòng đề nghị đó.
-
Còn thứ hai?
-
Đề nghị thứ hai là trở lại nghề cũ của em là y tá.
Anh ấy có thể giới thiệu em vào một bệnh viện nào
đó. Em từ chối.
Tân
nhìn sững Thùy Liên:
-
Tại sao vậy?
-
Em muốn quên đi những ngày tận tụy săn sóc thương
binh. Anh còn nhớ cái giường bệnh của quân y viện Cần
thơ, nơi anh nằm để cho em thay băng cho anh không? Cái
hình ảnh đó, cái nghề nghiệp đó, em muốn vĩnh viễn
đưa chúng vào quá khứ ở vị trí cao sang nhất trong ký
ức của em nên không muốn trở lại nghề cũ để làm kế
sinh nhai, nhất là trong giai đoạn nầy. Cuối cùng, anh
Đảnh bảo rằng em có thể chuyển sang nghề dạy học là
nghề của anh. Nếu bằng lòng thì anh ấy có thể lo liệu
cho, vì anh ấy có quen với mấy vị lãnh đạo ngành giáo
dục của thành phố. Nghĩ đến cái nghề mà anh yêu
thích, em muốn nhận lời anh Đảnh nhưng thắc mắc rằng
mình chưa hề được đào tạo về sư phạm. Anh Đảnh
bảo rằng không lo, rồi sẽ được bồi dưỡng nghiệp
vụ sau khi vào ngành. Trước khi ra về, anh ấy còn cho em
địa chỉ để em đem đơn, bằng tú tài và sơ yếu lý
lịch đến cho anh ấy đích thân đem đi làm việc với
các “đồng chí” trong ban lãnh đạo sở giáo dục.
-
Em đi nạp chưa?
-
Không, em phải hỏi ý kiến anh trước đã chứ. Anh có
bằng lòng thì em mới nhận lời. Tuy nhiên, lúc đó em suy
nghĩ mãi mà không tìm ra cách nào để hỏi ý kiến của
anh.
-
Bây giờ hỏi được rồi. Anh bằng lòng, em về nạp đơn
ngay đi.
Thùy
Liên lắc đầu:
-
Không, bây giờ thì khác rồi. Em không bao giờ nạp đơn
xin đi dạy đâu. Em dứt khoát không theo cái nghề dạy
học của anh .
Tân
nhíu mày:
-
Tại sao vậy? Em chê nghề của anh à?
Thùy
Liên lắc đầu:
-
Ngược lại, em quí vô cùng vì đó là nghề của người
chồng yêu thương của em mà. Và vì quá quí trọng nên em
từ chối đi dạy. Để em giải thích cho anh rõ. Thực là
dường như có một sự sắp đặt mầu nhiệm nào đó cho
quyết định dứt khoát của em. Đúng một ngày sau khi anh
Đảnh đề nghị em đi dạy thì anh chị Tấn đến thăm.
-
Anh chị Tấn? À, cả hai vợ chồng cùng dạy ở trường
của anh trước kia?
-
Vâng đúng vậy. Hai năm nay, từ khi anh đi học tập, các
thầy cô đồng nghiệp của anh còn ở lại Việt Nam thỉnh
thoảng có đến thăm mẹ con em và tặng quà cho hai con.
Thực là đáng quí và cảm động.
-
Anh chị Tấn hiện làm gì?
-
Sau ngày “giải phóng”, anh chị ấy đi dạy lại được
đúng môt niên khóa thì xin nghỉ, đến nay được một
năm rồi. Cả một năm nằm nhà, chẳng có việc gì để
làm nên hai người đến từ giã em để về quê làm
ruộng. Quê ở tận Cà mau lận.
-
Tại sao vậy? Đó là hai giáo sư dạy giỏi và yêu nghề
có tiếng trong trường.
Thùy
Liên gật đầu:
-
Dạ em còn nhớ, lúc đi dạy, anh thường khen hai đồng
nghiệp đó. Hai năm nay, hai anh chị cũng thường đến
thăm em và các con. Nghe họ nói chuyện thì em cũng biết
đó là hai giáo sư đáng quí của học sinh. Em có hỏi lý
do bỏ việc thì hai anh chị nói nền giáo dục bây giờ
rất khác với nền giáo dục của miền Nam trước đây.
Người ta đưa chính trị quá nhiều vào các môn học,
nhiều khi trở thành trơ trẽn làm cho thầy cô phát ngượng
khi giảng bài cho học sinh. Cái nghề dạy học không còn
cao quí nữa vì thầy cô trở thành công cụ tuyên truyền,
nhiều khi láo khoét. Anh chị Tấn buồn bực lắm nhưng
cũng rán dẹp bỏ cái lý tưởng giáo dục cũ của mình
để thích nghi với nền giáo dục mới. Tuy nhiên, có một
sự việc vượt quá mức chịu đựng của anh chị ấy
nên đành phải bỏ nghề.
-
Chuyện gì ghê vậy?
-
Anh chị ấy kể thế nầy nè. Phòng giáo dục biết anh
chị ấy là thầy cô giỏi và yêu nghề nên mời phụ
trách một điểm chống nạn mù chữ ban đêm.
Tân
ngắt lời;
-
Nhất định anh chị ấy nhận lời, phải không? Anh biết
thiện chí của anh chị Tấn.
-
Dạ phải. Anh chị ấy rất thích thú và làm việc hăng
say, vừa dạy vừa điều hành công việc. Các lớp học
tuy không đông lắm nhưng rõ ràng học có kết quả, thầy
trò đều rất mến nhau. Vài tháng sau, phòng giáo dục bảo
anh chị Tấn làm bản báo cáo trong đó phòng cho sẵn con
số học viên lên đến nhiều ngàn người và tỉ lệ đạt
yêu cầu, tức là hết mù chữ lến đến 99,6%. Anh chị
ấy vô cùng sửng sốt. Ở điểm chống nạn mù chữ mà
anh chị Tấn phụ trách, không có tới một trăm người
mà bây giờ phải báo cáo lên đến nhiều ngàn thì làm
thế nào được. Hai anh chị lưỡng lự, không nạp báo
cáo đúng thời hạn nên được phòng giáo dục gọi lên
để “đả thông tư tưởng”. Cán bộ của phòng giáo
dục giải thích rằng theo tài liệu bồi dưỡng chính trị
từ Hà nội đưa vào thì Sài gòn có nhiều trăm ngàn
người mù chữ và tất cả đã được chính quyền cách
mạng đưa vào các lớp bình dân học vụ. Mỗi quận
huyện phải có nhiệm vụ báo cáo lên số học viên theo
học sao cho, khi thành phố cộng lại vừa đủ số người
mù chữ do chế độ cũ để lại đúng với tài liệu
chính trị mà Hà nội đưa vào. Vì vậy, quận của anh
chị Tấn đã chia số học viên phải báo cáo cho các điểm
chống nạn mù chữ. Nhiều nơi không có học viên nào
cũng phải báo cáo lên đến cả ngàn. Còn ở điểm của
anh chị Tấn thì từ gần một trăm phải nâng lên thành
vài ngàn.
-
Rồi anh chị ấy có làm báo cáo không?
-
Phải làm chứ không làm mà ở yên được với họ à.
Sau đó anh chị ấy xin rút lui vì lý do sức khỏe.
Tân
cười:
-
Xin nghỉ vì lý do sức khoẻ là đúng vì làm xong cái báo
cáo thì anh chị ấy phải phát bệnh nặng.
Thùy
Liên cười theo:
-
Anh Tấn nói người làm giáo dục không thể nào chấp
nhận sự dối trá. Thôi, không theo được cái nghề mà
mình chọn làm lý tưởng thì đành về cuốc đất mà ăn.
-
Vì việc xấu xa xảy ra cho anh chị Tấn mà em bỏ ý định
làm cô giáo?
-
Dĩ nhiên là phải bỏ. Nghe anh chị ấy trình bày như thế
thì em đâu còn có can đảm nộp đơn xin đi dạy học.
Tân
tỏ ra lo lắng:
-
Nhưng em bảo rằng nhà nước đang tìm cách dẹp tiểu
thương thì ba mẹ con làm sao sống được?
Thùy
Liên đưa hai bàn tay áp vào hai bên má của Tân, giọng
dịu dàng:
-
Anh Tân, anh đừng lo cho mẹ con em. Người ta sống được
thì mình sống được. Còn nếu họ bắt hai triệu dân
Sài gòn hay ba triệu dân thành phố Hồ chí Minh ngày nay
chết hết thì mình cũng vui lòng chết theo. Anh ở trong
nầy đáng lo hơn mẹ con em ngoài đó.
Nàng
ngừng một chút rồi nói với giọng đầy cảm xúc:
-
Anh Tân, em mong anh cố gắng thực hiện hai điều.
Tâm
vuốt tóc vợ:
-
Hai điều gì? Em nói đi.
-
Thứ nhất là phải giữ gìn sức khỏe. Thứ hai là đối
với quản giáo và bộ đội phải hết sức nhịn nhục
để có ngày về với mẹ con em.
Tân
gật đầu nói trong cảm xúc:
-
Anh nghe lời khuyên của em, nhất thiết anh phải làm được
như lời em nói. Nguyện vọng duy nhất của anh hiện giờ
là được về sống cùng em và hai con.
Thùy
Liên bỗng ôm chầm lấy Tân khóc thút thít:
-
Anh Tân, hằng đêm, em nhớ đến anh, thèm quay quắt cái
hơi ấm của anh. Chúng mình đã có những năm dài hạnh
phúc dù đất nước đang bị chiến tranh dày xéo. Bây giờ
hòa bình rồi, lại chịu bất hạnh. Nỗi bất hạnh tràn
lan trên khắp miền Nam mình!
*
*
*
Đợt thăm nuôi chấm dứt. Ban đêm những nhóm uống trà lại quây quần bên bếp lửa. Anh em tranh nhau kể những mẫu chuyện ngoài đời mà gia đình đem vào. Định có nhận xét đầy tính triết lý:
-
Trại cải tạo bây giờ gần như là ốc đảo bình yên.
Xã hội bên ngoài đang chịu đựng biết bao xáo trộn và
đổi thay. Bây giờ tôi mới hiểu là tại sao cách mạng
phải nhốt chúng ta lại trong nầy.
Trí nói:
- Thì để trả thù chứ còn gì nữa.
-
Trả thù chỉ là một lý do. Lý do thứ hai quan trọng hơn
là với đường lối cải tạo xã hội theo kiểu phá hoại
thế nầy thì chúng ta không thể ngồi yên được. Người
ta hiểu rằng, chúng ta là thành phần ưu tú của xã hội
miền Nam trước đây. Họ phải nhốt chúng ta lại trong
nầy để họ tự do hành động cho đến khi nào phá xong
xã hội miền Nam rồi thì mới thả chúng ta ra.
Trí
thắc mắc:
-
Nhưng tại sao cách mạng cho gia đình chúng ta lên thăm để
kể những điều tệ hại bên ngoài cho chúng ta nghe. Họ
phải giấu chúng ta những điều đó chứ.
-
Lúc đầu thì họ giấu. Bây giờ thì chẳng cần giấu
nữa, trái lại còn muốn cho chúng ta biết cho quen đi để
đừng bị sốc khi ra khỏi trại tù. Hiện nay, đồng bào
của mình ngoài kia còn khổ hơn mình trong nầy nữa.
Kính
góp ý:
-
Đúng như anh Định nói, bên ngoài khổ lắm. Vợ tôi bảo
rằng Sài gòn bây giờ tiêu điều, nếu mình trở về thì
thấy lạ hẳn ra. Đường sá không còn rộn rịp vì dân
số giảm đi khá nhiều. Một phần đã bỏ ra ngoại quốc
trước ngày thủ đô thất thủ, một phần về quê sinh
sống và một phần tuân lệnh hay bị buộc phải đi vùng
kinh tế mới lập nghiệp. Những nhà để trống, nếu tốt
thì cán bộ chiếm lấy còn xấu thì người ta đến phá
phách tan tành. Thực là đáng thương cho cái thành phố có
tiếng là văn minh bậc nhất của vùng Đông Nam Á. Tôi
yêu Sài gòn nên khi nghe vợ tôi kể thì cảm thấy đau
buốt trong lòng.
Định
nói:
-
Không riêng gì thành phố. Nghe nói nhà quê cũng khổ lắm.
Ruộng đất bây giờ bỏ hoang còn nhiều hơn thời còn
đánh nhau nữa.
Tân
hỏi:
-
Sao lạ vậy?
-
Đất đai bây giờ không còn là tài sản của nông dân
nữa mà thuộc về nông trường hay hợp tác xã. Những
giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất của
nông dân bỗng nhiên bây giờ trở thành tờ giấy lộn dù
cho quyền sở hữu nầy là do ông bà để lại hay do chính
phủ Việt Nam Cộng hòa cấp trong chính sách “người cày
có ruộng” trước đây của chế độ cũ. Tất cả nông
dân phải góp ruộng cho hợp tác xã và đi làm thuê trở
lại rồi cuối mùa, sau khi thu hoạch xong được lãnh một
số lúa không đủ nuôi sống gia đình. Thế là đành bỏ
quê hương đi kiếm công việc gì khác mà sống.
Kính
góp ý:
-
Chẳng kiếm được việc gì bền đâu. Chỉ tạm sống
được khi hợp tác xã chưa với tay đến. Làm việc nầy
phải lo nghĩ đến việc khác, vì một khi việc làm có
lợi tức đủ sống thì không bao lâu có cán bộ đến
mời vào hợp tác xã, thế là xong. Một thí dụ rõ ràng
nhất là anh Cung, anh ruột của tôi ở Long an. Anh ấy là
trung sĩ thuộc binh chủng quân xa. Sau ngày miền Nam đầu
hàng, anh Cung đi học tập ba ngày, được cấp giấy chứng
nhận, mang vợ con về quê làm ruộng. Làm xong một mùa
lúa thì được vận động tự nguyện vào hợp tác xã.
Thế là đành từ giã ruộng vườn, mang gia đình ra huyện
lỵ, cất một nhà nho nhỏ trên miếng đất hoang và bày
dụng cụ ra sửa xe đạp trước hàng hiên. Sau “ngày
giải phóng”, hầu như mọi người đều đạp xe đi làm,
phụ tùng lại quá xấu nên xe hư nhiều lắm. Anh tôi là
hạ sĩ quan quân xa, tay nghề khá lắm, có nhiều dụng cụ
sửa chữa trong nhà, lại thêm cái tính siêng năng và chân
thật dễ thương nên có rất đông khách hàng, làm ban
ngày không hết việc nên phải làm cả ban đêm nữa. Nhờ
vậy, gia đình sống rất thong thả. Chưa được một năm
thì cán bộ đến mời vào hợp tác xã.
Tân
thốt lên:
-
Trời đất, sửa xe đạp mà cũng có hợp tác xã nữa
sao?
Kính
gật đầu:
-
Có chứ. Nghề nào làm ra lợi tức là có hợp tác xã.
Đảng và nhà nước phải cai quản cho được bất cứ
sinh hoạt nào thuộc lĩnh vực kinh tế. Chủ trương đó
ác độc lại thêm một bọn lợi dụng để trục lợi
thành ra hợp tác xã biến thành tai ách cho nhân dân lao
động. Các anh nghe tôi kể tiếp mới thấy cái tai ách
đó. Khi thấy cán bộ đến vận động vào hợp tác xã
thì anh Cung không dám từ chối. Lính chế độ cũ mà, cãi
lại họ bị chụp mũ phản động thì nguy khốn đến vợ
con ngay. Trong khi chưa tìm được công việc gì khác thì
đành ký vào đơn xin “tình nguyện” vô hợp tác xã.
Thế là ngay ngày hôm sau, hợp tác xã đưa đến thêm hai
nhân viên để làm việc, một người là thợ nhưng uống
rượu giỏi hơn sửa xe, người kia là tổ trưởng kiêm
thư ký, kiêm thủ quỹ.
Tân
lại thốt lên:
-
Trời đất! Sửa xe ngoài hiên nhà mà cũng có tổ trưởng
và thư ký, thủ quỹ nữa à?
-
Có chứ. Nhưng bây giờ không phải sửa ngoài hàng hiên
nữa mà chiếm nguyên cái nhà của anh Cung để trở thành
một điểm sửa xe của hợp tác xã, có bảng hiệu, bảng
nội qui và bảng giá cả đàng hoàng. Anh tôi phải đi mua
tôn cũ về che thêm phía sau cho gia đình trú mưa nắng.
-
Còn công việc thì sao, có tiếp tục sống được không?
-
Không sống được. Mỗi khi có khách đưa xe hư tới, tổ
trưởng ra tiếp, xem chỗ hư của chiếc xe, định giá,
thu tiền, vô sổ và chỉ định một trong hai người thợ.
Anh Cung được phân công ít hơn người thợ kia vì hắn
có bà con với tổ trưởng. Cuối tháng, tổ trưởng tổng
kết, công khai tài chính. Một phần tiền góp cho hợp tác
xã, một phần là lương của tổ trưởng, một phần đưa
vào quỹ khấu hao dụng cụ, còn lại chia cho hai người
thợ theo tỉ lệ việc làm do tổ trưởng chấm công trong
tháng. Người thợ kia lãnh nhiều hơn anh tôi. Anh Cung nhận
món tiền chỉ còn bằng một phần năm tháng trước mà
thôi. Anh ứa nước mắt khi nghĩ đến sự sống của vợ
và hai con. Anh ấy biết rằng tháng sau món tiền nầy sẽ
còn teo lại nữa do khách hàng bỏ đi nhiều vì họ chê
tay nghề của người thợ kia quá kém.
Tân
lắc đầu:
-
Vậy thì phải kiếm nghề khác mà sống.
-
Đã đành là như thế nhưng cũng gay lắm. Nếu không làm
nữa thì phải dọn đi nơi khác, nhà cửa dụng cụ phải
để lại cho hợp tác xã.
-
Trời đất, mất hết sao? Anh ấy giải quyết thế nào?
-
Trốn!
-
Trời đất!
-
Anh Cung cho cả gia đình đi ngày hôm trước, giả bộ về
thăm quê ngoại. Đến tối, anh ấy gom được một ít đồ
đạc rồi dông.
-
Dông đi đâu?
-
Đi lên nhà tôi, ở nhờ với vợ con tôi và mở chỗ sửa
xe ngoài đường. Cũng may, hai năm trước đây vợ chồng
tôi dành dụm được một số tiền, lên một lầu nên
mới có đủ chỗ ở cho gia đình anh Cung.
-
Vợ anh bằng lòng à?
-
Bằng lòng chứ. Vợ tôi rất tốt. Vả lại, trong hoàn
cảnh hoạn nạn nầy, người dưng còn phải cứu giúp
huống chi là anh em cốt nhục.
Tân
gật đầu và tiếp tục hỏi:
-
Nhà anh ở đâu?
-
Ở cư xá Đô thành
-
Thế thì gần nhà tôi ở đường Vườn chuối.
Kính
tỏ vẻ mừng rỡ:
-
Đúng rồi, nhà chúng mình gần nhau. Khi nào về, mình sẽ
qua lại chơi với nhau. Anh Cung tư cách cũng khá lắm, tôi
sẽ giới thiệu với anh để mình làm bạn với nhau.
-
Anh Cung bây giờ sống được không?
-
Cám ơn anh, khá lắm. Nghe vợ tôi nói anh ấy sửa không
kịp. Chắc chắn là như thế vì anh có tay nghề lại làm
ăn đàng hoàng. Tuy làm không kịp mà không dám thuê người,
sợ lại bị chụp mũ tư sản thuê công nhân để bóc
lột. Chỗ sửa xe của anh ấy trên đường giao thông
thuận lợi nên rất đắt khách.
-
Ở đâu vậy?
-
Ở ngay ngõ vào cư xá Đô thành, gần bệnh viện Bình
dân.
-
Tôi biết chỗ đó. Anh ấy có sợ bị bắt vào hợp tác
xã nữa không?
-
Có lẽ không đâu. Sài gòn quá lớn, người ta phải lo
biết bao nhiêu chuyện khác, đâu có thì giờ để ý đến
thằng sửa xe ngoài đường như ở nhà quê.
-
Anh ấy trốn đi rồi cái nhà ở Tân an thế nào?
-
Đành bỏ vì cái nhà đó đã chính thức trở thành một
cơ sở của hợp tác xã rồi mà.
-
Đau nhỉ?
-
Không đau lắm vì nhà đó thô sơ lại cất bất hợp pháp
trên đất hoang. Nhiều nhà to hơn ở khu sầm uất của
thành phố vào hợp tác xã mua bán ít lâu cũng mất nhà
luôn. Các trường hợp nầy mới là đau.
-
Suy cho cùng thì cái đau đó chẳng riêng cho ai. Ruộng
vườn, nhà cửa bây giờ thuộc về tài sản của đảng
và nhà nước hết chứ dân đâu có gì. Chính sách nầy
được áp dụng bao nhiêu năm nay ở miền Bắc đã tỏ ra
rất hữu hiệu, nay bắt đầu đem áp dụng ở miền Nam.
-
Anh nói hữu hiệu là thế nào?
-
Hữu hiệu cho sự lãnh đạo của đảng. Đảng là chủ
nhân thực sự của toàn bộ lãnh thổ. Người dân không
còn sở hữu ruộng vườn nhà cửa nữa nên luôn luôn có
mặc cảm rằng mình ăn nhờ ở đậu và sinh sống tạm
bợ trên miếng đất không phải của mình. Vì vậy, nhất
nhất phải tuân theo lệnh của chủ là đảng, không được
có hành động hay có ý chống đối. Vì vậy, đảng nói
ra một tiếng là nhân dân luôn luôn đồng tình một trăm
phần trăm.
-
Dưới quê tôi, người ta đồn rằng ở miền Nam sắp có
cải cách ruộng đất và đấu tố như ở miền Bắc vào
năm 1956, hai năm sau hiệp định Genève.
Bây giờ “giải phóng” cũng được hai năm rồi. Những
gia đình trước đây có ruộng đất đang rất lo lắng,
sợ bị lôi ra tòa án nhân dân kết tội địa chủ ác
ôn. Bây giờ thì nhiều người đã biết trong những đợt
đấu tố xưa kia ở miền Bắc, người ta đã xử tử
bằng cách chôn sống nhiều người vô tội.
Định
mỉm cười:
-
Theo tôi thì ở miền Nam không có chuyện đấu tố đâu.
-
Sao anh nói vậy?
-
Đây nầy. Tôi hỏi mấy anh, ở miền Bắc dạo đó người
ta đấu tố để làm gì?
-
Để trừng trị bọn địa chủ đã gây tội ác với nhân
dân.
-
Vâng, đó là lời giải thích chính thức của đảng nhưng
trên thực tế, ở Việt Nam, địa chủ không quá hà khắc
với tá điền. Nếu có thì chỉ là một số ít và cũng
không tới mức gọi là tàn ác. Giữa hai giới địa chủ
và tá điền thường có mối liên hệ đầm ấm đầy
tình người. Tôi đoan chắc như thế, không phải vì ông
nội tôi là địa chủ đâu.
Định
dừng lại cười khì khì rồi nói tiếp:
-
Tôi dự định, sau khi trình luận án tiến sĩ về triết
học Trung hoa trong thời Đông Chu thì tôi sẽ làm một
luận án khác về xã hội học, đề tài là xã hội nông
thôn Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Do đó tôi đã sưu
tầm dần dần các tài liệu và đi chuyện trò với nhiều
điền chủ và tá điền lớn tuổi đã bỏ ruộng vườn
để về thành phố tránh chiến tranh. Vậy thì tôi khẳng
định nông dân Việt Nam không thù địa chủ đến mức
bắt chôn sống họ.
-
Vậy tại sao ở miền Bắc có chuyện nông dân đấu tố,
đánh đập, ném đá và chôn sống địa chủ.
-
Không, tôi không tin nông dân đã làm như thế. Đó chỉ
là mấy thằng oắt con bị đảng viên sách động, cũng
giống như tụi hồng vệ binh của Trung cộng mười năm
sau vậy. Người nông dân ở miền Bắc không làm việc
tàn ác đó, ngược lại họ còn lén lút che chở, tiếp
tế thức ăn cho người bị đấu tố nữa. Tôi cam đoan
với các anh đó là sự thực. Một sự thực khác còn đau
lòng hơn nữa, những người bị đấu tố đã chết oan.
Hầu hết họ không phải là địa chủ. Ở miền Bắc lúc
đó không còn địa chủ nữa. Suốt chín năm chiến tranh
những người gọi là địa chủ đã bỏ đất đai, về
thành phố ở. Sau hiệp định Genève,
gần hết di cư vào Nam. Vậy thì làm sao có đủ một trăm
ngàn người để đem ra đấu tố trong thời kỳ đó?
-
Thế thì những người bị chết là ai?
-
Là những người rủi bị cán bộ đảng viên cho vào danh
sách đen, không nhất thiết là địa chủ hay bà con thân
thuộc với địa chủ.
-
Nhưng tại sao đảng cho phép giết họ để gây ra một
cuộc rối loạn dữ dội ở miền Bắc lúc đó. Trên
nguyên tắc, nhà cầm quyền nào cũng cầu mong sự ổn
định chính trị để củng cố chế độ chứ ai lại cố
tình gây xáo trộn trong xã hội mà mình đang cai trị.
-
Với cộng sản thì khác. Có khi vì một mục đích nào
đó, cộng sản sẵn sàng gây xáo trộn trong chính xã hội
của họ. Thí dụ rõ ràng nhất là việc đập phá của
hồng vệ binh bên Trung cộng do đảng xúi dục.
-
Ở Việt Nam, đảng gây xáo trộn bằng cuộc đấu tố
đẫm máu ở miền Bắc để làm gì?
-
Vì đảng muốn dằn mặt nông dân, nhất là trung nông,
những người có ruộng, vừa đủ ăn đủ mặc cho gia
đình mình. Đảng muốn mọi người phải sợ hãi, không
dám sở hữu đất đai nữa, nghĩa là phải giao hết cho
nông trường quốc doanh hay cho hợp tác xã do đảng lãnh
đạo.
-
Và đảng đã thành công?
-
Thành công hoàn toàn. Đó là một cú đánh rất ngoạn
mục, không nhằm đập tan giai cấp địa chủ - còn đâu
nữa để mà đập - mà nhằm triệt hạ óc tư hữu của
nông dân.
-
Với cái giá phải trả là hàng trăm ngàn nạn nhân vô
tội?
-
Bao nhiêu đó nạn nhân thì nghĩa lý gì đối với người
cộng sản. Các anh có hiểu tại sao cộng sản phải triệt
hạ óc tư hữu như thế không?
-
Để nông dân hiến đất cho nông trường hay tự nguyện
vào hợp tác xã, anh nói rồi.
-
Như vậy để làm gì?
-
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
-Không
đúng. Người cộng sản Việt Nam đã giải thích như thế
chỉ để tuyên truyền mà thôi chứ không đúng với chủ
trương thầm kín của họ. Người cộng sản Việt Nam
không thực sự muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội và họ
cũng hiểu rằng không thể nào xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong tình trạng đói khổ tột cùng của miền Bắc
lúc đó được. Theo Carl Marx, xã hội xã hội chủ nghĩa
là một xã hội phồn vinh, đảm bảo một mức sống cao
cho mọi người chứ đâu phải là một xã hội bần cùng
như ở miền Bắc cho tới ngày nay. Marx bảo rằng chủ
nghĩa xã hội chỉ được xây dựng với cơ sở vật chất
dồi dào sẵn có do chủ nghĩa tư bản làm ra và để lại
chứ đâu phải xây dựng chủ nghĩa xã hội với con trâu
đi trước cái cày. Các anh cũng biết chủ nghĩa cộng sản
có tính giáo điều rất gắt gao, người cộng sản đề
cao tuyệt đối lý thuyết của ông tổ Carl Marx. Thế mà
tại sao trong cái vấn đề then chốt nầy, họ lại chủ
trương ngược lại với ông tổ của họ? Họ bảo rằng
đó là sáng tạo tài tình. Nói láo đó. Họ chẳng có ý
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội đâu. Đó chỉ là một
trò lừa bịp ghê tởm.
-
Thế thì họ muốn gì?
-
Chiếm cho được miền Nam! Vũ khí thì có Liên xô và
Trung cộng cung cấp rất đầy đủ nhưng người thì phải
tự lo lấy. Liên xô không chịu đưa quân sang đâu vì sợ
đụng độ trực tiếp với Mỹ. Trung cộng thì đã chán
ngán vì chết quá nhiều ở chiến tranh Triều tiên nhiều
năm trước. Muốn cho có đủ lính đưa vào Nam thì phải
nắm chặt cái dạ dày của dân miền Bắc. Cái gọi là
chủ nghĩa xã hội chỉ là cách tước đoạt toàn bộ các
phương tiện sinh sống cá nhân, bắt mọi người phải
sống nhờ vào đảng và nhà nước. Khi thanh niên bị gọi
đi lính là phải đi ngay. Không tuân theo lệnh gọi thì
dứt khoát phải chết đói, không phải một mình mà cả
gia đình. Nếu một người trốn lính thì chẳng cần
chính quyền phải ra tay như trong Nam chúng ta mà chính cha
mẹ, anh chị của đương sự sẽ đi tố cáo hay bắt
đương sự đến giao nộp cho chính quyền để khỏi bị
đảng cúp mất phương tiện sinh sống của cả gia đình.
-
Thực là khiếp đảm!
-
Vâng, khiếp đảm nhưng rất thành công, bằng chứng rõ
rệt nhất là hôm nay chúng ta phải nằm đây để học
tập cải tạo.
-
Vậy theo anh, cuộc đấu tố ở miền Bắc năm 1956 có mục
đích tối hậu là chiếm cho được miền Nam. Miền Nam
chiếm được rồi thì không cần đấu tố nữa. Nhưng
tại sao đảng vẫn hô hào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mà hễ có xây dựng chủ nghĩa xã hội thì vẫn phải
thực hiện đấu tố để cải cách ruộng đất trước
đã.
-
Tôi đã giải thích cho các anh rồi. Thực sự không có
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mà đó
chỉ là một cái cớ hầu nắm lấy dạ dày của nhân dân
miền Bắc để bắt lính đưa vào Nam. Bây giờ hô hào
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Nam cũng chỉ là một
cái cớ để ngụy trang cho một mục đích có phần nhẹ
hơn trước đây nhiều; đó là hợp thức hóa và củng cố
độc quyền cai trị của đảng, ngăn cản sự đòi hỏi
các quyền tự do dân chủ, củng cố địa vị cùng quyền
lợi của một nhóm người mà đảng cho hưởng đặc
quyền đặc lợi. Sau chiến thắng vừa qua, đảng đã
thực hiện được tất cả những điều trên nên không
cần thiết gây xáo trộn xã hội bằng chủ trương đấu
tố đẫm máu nữa. Tóm lại, ngày nay, đảng hô hào xây
dựng chủ nghĩa xã hội để duy trì nền độc tài thì
nhẹ nhàng và dễ chịu hơn cái chiêu bài xây dựng chủ
nghĩa xã hội vì mục đích xâm lược.
-
Nhưng sau khi chiếm được miền Nam rồi thì người cộng
sản Việt Nam còn có nhiệm vụ bành trướng lãnh thổ
của đệ tam quốc tế sang những nước khác ở Đông nam
Á nữa chứ.
-
Chuyện đó nằm trong tương lai xa. Vã lại các nước Đông
Nam Á cũng đã hoảng sợ nên thành lập liên minh để bảo
vệ nhau rồi. Có lẽ chúng ta và cả con cháu chúng ta chưa
có dịp đi chinh chiến nước ngoài đâu.
*
*
*
Khi
mùa mưa sắp chấm dứt, có một cuộc biên chế quan trọng
trong các trại cải tạo. Trong tổ chỉ có Tân được gọi
tên ra đi, mọi người khác đều ở lại. Tân rất buồn,
khổ nhất là phải xa rời Định. Trước giờ chia tay,
hai anh em rầu rĩ. Suốt hơn hai năm rồi họ đã sống bên
nhau, chia sẻ đắng cay và an ủi nhau. Bây giờ thì kẻ ở
người đi!
Khi
có lệnh khởi hành, Tân siết chặt tay bạn rồi lủi
thủi xách gói lên xe.
Sau
một ngày di chuyển, xe dừng lại ở một vùng đồi núi
chập chùng. Mọi người xuống xe và gặp ngay lớp đất
đỏ nhớp nháp trên mặt đường, cái thứ mà Tân cùng
rất nhiều anh em khác đã quá quen thuộc trong hơn một
năm ở trại cải tạo Long khánh.
Anh
em được dẫn vào một khu trống trải với hai dãy nhà
lụp xụp khá dài đã hư hỏng, dột nát nhiều nơi. Sau
khi ăn hết nắm cơm mang theo, Tân bước ra ngoài. Anh đứng
nhìn quanh thấy khung cảnh khá lạ lùng. Con đường đất
đỏ chạy dài thăm thẳm, hai bên là những rẫy sắn và
ngô xanh um. Xa hơn nữa là rừng già thâm u. Tân quay lại
thấy Thành, thuộc về “bê” kế cận lúc còn ở trại
cải tạo Tây ninh, nên hỏi:
-
Anh có biết đây là đâu không?
Thành
trả lời ngay:
-
Bù gia mập, thuộc tỉnh Phước long.
-
Anh biết vùng nầy à?
-
Biết chứ, tôi đã từng hành quân ở đây và đã đụng
nhiều trận khá lớn. Đơn vị tôi cũng đóng một thời
gian dài dưới chân núi Bà rá mà chúng ta vừa mới đi
ngang qua khi nãy.
Tân
hỏi:
-
Có phải núi Bà rá trong vùng rừng thiêng nước độc,
rất nổi tiếng với nhà tù của thực dân Pháp không?
Thành
gật đầu:
-
Đúng rồi. Ngày xưa thực dân Pháp lập ra nhà tù ở vùng
nầy để đày những người yêu nước. Ngày nay cộng sản
cũng đày chúng ta lên vùng Bà rá nầy. Có khác gì thời
thực dân đâu.
Anh
chép miệng rồi nói tiếp:
-
Còn hơn cả thời thực dân, bây giờ nhà tù có ở khắp
nơi, từ Nam chí Bắc.
Tân
cười:
-
Tài liệu dạy chính trị cho chúng ta có nói rằng miền
Nam trước đây là một nhà tù khổng lồ sao anh lại nói
ngược lại.
Thành
hứ một tiếng rồi nói:
-
Tài liệu dạy chính trị của họ thực là kinh tởm. Miền
Nam bây giờ dưới sự cai trị của họ mới đúng là một
nhà tù khổng lồ. Đi từ tỉnh nầy qua tỉnh kia, làng
nầy qua làng kia cũng phải làm đơn xin phép công an cho đi
mới được đi. Ở quê, mẹ chết, muốn về lo chôn cất
cho tròn chữ hiếu cũng phải chầu chực chờ công an cấp
giấy phép đi lại và có khi nhận được giấy nầy thì
mẹ đã nằm yên dưới mồ từ nhiều ngày rồi. Thực là
kinh khủng! Với chế độ công an trị nầy, xã hội miền
Nam bấy giờ là nhà tù khổng lồ. Trại cải tạo nhốt
chúng ta là nhà tù trong nhà tù.
Tân
nói:
-
Thôi, mình hãy chịu đựng, không nên tức tối làm gì.
Thành
lại hứ tiếng nữa. Anh có vẻ không tự chế được:
-
Không tức sao được. Cái xấu của họ thì họ đem đổ
hết cho mình rồi còn bắt mình phải ngồi nghe và thảo
luận nữa. Họ nói mình là hiếu chiến, thế thì ai gây
ra cuộc chiến tranh vừa rồi? Họ nói mình là xâm lược,
thế thì ai xua quân vào xâm chiếm miền Nam? Họ bảo mình
bóc lột, thế thì trong hai mươi năm, đồng bào miền Bắc
làm quần quật mà không đủ ăn, đó là do ai bóc lột?
Họ bảo chúng ta phá hoại sản xuất, thế thì ai đào
đường phá cầu để cản trở lưu thông, ai đặt mìn để
phá tan các nhà máy, ai bày ra các hợp tác xã làm cho nông
dân bỏ đất hoang để tha phương cầu thực?
Tân
cười:
-
Trong đợt học tập lúc thảo luận tổ, anh có nói như
thế không?
Thành
cười bẽn lẽn:
-
Sự thực như thế mà không nói được cho nên mới tức.
Bây giờ chỉ có anh và tôi ở đây thôi thì cứ nói cho
sướng miệng. Trong các buổi thảo luận có quản giáo
ngồi nghe tôi cũng biết tự kìm chế và phát biểu khớp
với tài liệu lắm chứ.
Tân
gật đầu:
-
Được rồi, anh cứ nói đi, tôi sẵn sàng nghe. Anh cứ xả
cái bực tức vào lỗ tai tôi đây.
Thành
hăng hái nói tiếp:
-
Họ càng mạ lỵ miền Nam thì người ta càng thấy rõ
thực trạng của miền Bắc. Mấy cái ông gọi là giảng
viên học thuộc lòng tài liệu rồi cứ như thế mà xổ
ra, bộ mặt vênh váo làm như như mình có kiến thức
nhiều lắm. Thực ra, mấy ông ấy dốt và bị nhồi sọ
một cách thảm thương. Anh có đồng ý không?
Thấy
Tân im lặng. Thành nói tiếp:
-
Đây tôi kể cho anh nghe một chuyện có thực xảy ra trong
trại cải tạo cũ của tôi để chứng minh cái dốt và
lố bịch của họ. Hôm đó, người đứng trên bục giảng
là ông đại úy chính trị viên tiểu đoàn. Bài học hôm
đó chủ đích là đã kích chế độ tư bản. Dĩ nhiên,
với đề tài nầy thì tài liệu phải nhắc đến Các
Mác. Khi đọc hết tài liệu rồi, ông chính trị viên nổi
hứng hỏi: “Các anh có biết đồng chí Các Mác là người
nước nào không?” Thằng Đạt ngồi ngay phía trước tôi
bỗng nổi hứng đứng dậy trả lời: “Thưa anh, ông Các
Mác là công dân Đức”. Nói xong nó ngồi xuống. Ông
chính trị viên quát to: “Anh nói như thế mà nghe được
à? Các Mác là con người vĩ đại thì phải là công dân
của đất nước Liên xô vĩ đại. Đức đã từng là
nước phát xít, thế mà anh bảo con người vĩ đại đó
là công dân Đức sao được. Con người là sản phẩm của
xã hội. Xã hội có vĩ đại mới sinh ra được con người
vĩ đại, anh hiểu chưa?”. Thằng Đạt nghe nói như thế
thì chực đứng lên cãi. Nhưng tôi kịp nắm quần nó kéo
xuống. Cái quần nó mặc cả một năm rồi nên dây thun
đã dãn, vì vậy nó hoảng hồn chụp ngay lấy và không
dám đứng thẳng lên. Tôi kéo mạnh hơn cho nó ngồi hẳn
xuống và quát khẽ: “Ngồi im, thằng ngu”.
Tân
bụm miệng cười:
-
Anh với nó là bạn với nhau à?
-
Phải, bạn khá thân vì cùng đơn vị ở ngoài đời. Nó
nổi tiếng là con mọt sách. Trước kia, đi hành quân mà
lúc nào cũng có vài quyển sách trong ba lô. Ham đọc sách
nên kiến thức nó rộng nhưng tính tình thì hơi khờ và
hiền lành dễ thương.
-
Nghe anh quát, nó có chịu ngồi im không?
-
Nó chịu ngồi yên và may thay, ông chính trị viên tuyên
bố buổi học chấm dứt. Lúc về trại, nó cự tôi: “Tại
sao lúc nãy mày không cho tao cãi? Ông Các Mác đúng là
người Đức, tại sao mày nói tao ngu?”
-
Rồi anh trả lời thế nào?
-
Tôi nói với nó thế nầy: “Tao hỏi mày câu nầy: Nếu
mày gặp một người đang đứng cãi nhau với một con bò
có cặp sừng nhọn hoắc thì mày cho rằng người đó
khôn hay ngu”. Tới lúc đó nó mới im lặng và không hậm
hực với tôi nữa.
Thành
nói xong, ngước nhìn bầu trời bắt đầu ngã qua màu
xám. Anh nói tiếp:
-
Gần tối rồi, ta vào mùng đi. Ở đây có rất nhiều
muỗi đòn xóc truyền bệnh sốt rét, huyết trùng
plasmodium
mai phục sẵn trong vòi của nó. Chỉ cần nó châm trúng
mình một phát là khốn khổ với nó. Anh nên nhớ, khi nào
thấy trong người hơi gây gây là có thể bị nhiễm bệnh
rồi đó, nên cho tôi hay liền.
Tân
hơi ngạc nhiên:
-
Anh rành bệnh rốt rét quá nhỉ?
Thành
cười:
-
Gì đâu. Đó là chuyện cỏn con. Tôi là đại úy bác sĩ
quân y của liên đoàn biệt động quân mà.
-
À á! Thế thì tôi phải tuân lệnh bác sĩ chui vào mùng
ngay lập tức.
*
*
*
Ngày
hôm sau, Thành được bầu làm tổ trưởng. Cả trại được
quản giáo cho viết thư về nhà để báo cho gia đình biết
đã thay đổi chỗ ở. Việc làm nầy của ban chỉ huy
trại trông có vẻ thực là nhân đạo, làm cho anh em yên
tâm được phần nào.
Cũng
như lúc mới đến Đồng bang ở Tây ninh, công việc khởi
đầu của tù là dọn sạch cây cối trên một vùng khá
rộng rồi cất lên những dãy nhà. Mọi người đã quá
quen với công việc nầy. Tuy nhiên, so với rừng già Tây
ninh thì nơi nầy có phần khó nhọc hơn. Đây là vùng đồi
núi nên mặt đất chỗ nào cũng nghiêng, phải bang cho
phẳng để làm nền nhà. Rừng thì rậm rạp, đầy muỗi,
vắt và rắn độc. Ba ngày sau khi đến đã có một người
đi đốn cây trong rừng bị rắn độc cắn chết. Ngoài
ra ở đây, anh em bị cái đói hành hạ dữ dội hơn. Ở
Tây ninh, nhờ có rau trồng được trong trại độn thêm
vào phần cơm ít ỏi cũng tạm trấn an được cái dạ
dày. Lên đây, thiếu mất phần rau nên dạ dày của mỗi
người phản đối dữ dội.
Sau
hai tuần lễ, nhà cửa và vòng rào chung quanh trại tạm
xong, từng nhóm một được vệ binh dẫn đến một vùng
trồng sắn và ngô. Đó là những rẫy mà các đơn vị bộ
đội đồn trú ở đây một thời gian đã khai phá và
trồng trọt. Nay bộ đội đã rút đi nơi khác, nông
trường vừa mới thành lập không đủ người nên tù
nhân có bổn phận làm sạch cỏ và vun xới cho cây trồng
ở đây. Sắn thì thân đã cao quá đầu, dưới đất củ
còn non nhưng khá to. Ngô đang ra cờ và tượng trái. Có
nơi gieo trồng sớm, quả ngô đã phình to, bám vào thân
cây, trông thực là ngon lành.
Trong
khi anh em nhổ cỏ và vun gốc thì quản giáo và vệ binh
liên tục đi lui đi tới để canh giữ. Thế nhưng, cũng
có người len lén đào lên được củ sắn, dùng hai hàm
răng cạp bỏ lớp vỏ dính đất bên ngoài và nhai ngấu
nghiến cái khối trắng toát bên trong thực là ngon ngọt.
Việc
ăn vụng đó không thể giấu mãi được. Một hôm vệ
binh moi được một số vỏ và cùi bắp chôn vội vã dưới
đất. Chú vệ binh mang về báo cáo với văn phòng quản
giáo. Buổi chiều, ban chỉ huy tập họp anh em lại mắng
chửi một trận và công bố lệnh phạt: cả trại bị
cúp một bữa cơm. Thế là cả ngàn người phải nhịn
đói vào chiều hôm sau. Đi làm về mệt, tắm rửa xong,
mang cái bụng xẹp lép lên giường mà thao thức đến
khuya, cứ nghĩ mãi cái phần gạo hơn hai trăm ký bị chận
lại vì hình phạt sẽ đi về đâu?
Trong
nửa tháng đầu tiên, ngoài gạo ra, nhà bếp còn nhận
thêm muối và cá khô mục để phát đều cho các tổ. Sau
đó, vài ngày một lần, có xe của nhà thầu chở cá lên.
Cá luôn luôn đã ươn nhưng anh em cũng ăn một cách ngon
lành. Thỉnh thoảng lại có cả thịt heo nữa. Thịt được
cắt ra thành những miếng nhỏ rất đều nhau để sau khi
kho xong, mỗi người được lãnh một miếng bé tí không
ai lớn hơn ai. Nhai miếng thịt trong miệng, ôi chao, khó
có cảm giác sảng khoái nào bằng! Tuy nhiên, sau cái cảm
giác sảng khoái đó là những ngày buồn.
Thịt
được đánh giá là thực phẩm rất cao cấp. Không phải
chỉ riêng ở trại cải tạo mà còn cho cả xã hội bên
ngoài nữa. Vì vậy khi cung cấp thịt cho trại, nhà thầu
tính giá rất đắt. Miếng thịt chỉ to bằng bao diêm mà
mỗi người cho cả vào miệng một phát, có cái giá là
bốn hay năm khẩu phần thức ăn hàng ngày. Vì vậy, sau
một bữa thịt là nhiều ngày ăn cơm với muối cục được
cấp phát nửa tháng một lần. Ai cũng mong cho qua nhanh
những ngày muối cục để có được miếng khô mục hay
miếng cá ươn truyền thống.
Một
buổi trưa, vừa mới đi làm về. Anh em nghe giọng tổ
trưởng Thành oang oang:
-
Hôm nay, ăn cơm với thịt, anh em ơi. Chiều nay cũng thịt
nữa.
Một
giọng càu nhàu đáp lại:
-
Ăn hai bữa thịt heo liền nhau như thế thì phải chịu
đến mười ngày muối cục, sung sướng gì mà mừng.
Thành
cãi lại:
-
Đừng lo anh em ơi. Không phải thịt heo do thầu cung cấp
mà là thịt trăn xào ngon vô cùng. Trăn do anh em mình bắt
được chứ không phải thịt tiêu chuẩn.
Nhiều
người nhao nhao lên hỏi:
-
Thiệt không? Ai bắt được trăn ở đâu vậy?
Thành
trả lời một cách “hồ hởi”:
-
Hai người bên khối Hai đi đốn cây gặp một con trăn
mới ăn no đang ngủ trong bụi đưa cái đầu ra ngoài. Một
người dùng rựa chặt một phát rất mạnh làm cho cái
đầu nó gần đứt lìa khỏi cổ. Thế mà trước khi
chết, nó vùng vẫy gãy nát cả bụi cây. Hai người
khiêng về, cân được bốn mươi tám ký, giao hết cho nhà
bếp để làm thức ăn cho anh em. Mỗi người được gần
nửa trăm gram thịt.
Bữa
trưa và bữa chiều hôm đó, anh em ăn thịt trăn và tấm
tắc khen ngon. Liên tiếp nhiều ngày hôm sau, nhà bếp chỉ
phát cơm mà không có tí thức ăn nào cả, anh em phải
nhai cơm với muối cục. Phải chịu đựng suốt hơn một
tuần lễ như thế, nhiều người yêu cầu tổ trưởng
hỏi đại diện. Anh đại diện đến gặp quản giáo
trưởng và về báo cho anh em biết rằng gần năm mươi kí
thịt trăn mà anh em ăn trong tuần trước được trừ vào
tiền thức ăn tiêu chuẩn. Mặc dù anh em bắt được con
trăn trong rừng nhưng đó là tài sản của nhân dân chứ
không phải của gia đình anh em mang lên. Ăn thịt con trăn
của nhân dân thì phải trừ tiền thức ăn đó trả lại
cho nhân dân.
Trả
lại cho nhân dân là trả lại cho ai? Một lần nữa, anh
em tự hỏi nhưng không trả lời được.
Một
hôm tổ trưởng đi họp với đại diện về báo cho anh
em biết gạo trong kho đã hết. Ban chỉ huy trại không xin
được xe chở nên năm mươi người tù phải đi vác gạo
về. Anh đại diện đề nghị mỗi tổ cử một người
để, sẵn dịp ra ngoài, mua cho anh em trong tổ vài món
hàng cần thiết ở những hàng quán gặp trên đường. Cả
tổ đồng ý cử tổ trưởng Thành đi vác gạo. Anh em góp
tiền và kê vào giấy những món cần mua.
Hôm
sau, những người ở nhà vẫn ra rẫy như thường lệ,
trong khi Thành lên văn phòng để nhập vào toán đi lãnh
gạo. Đến bữa ăn chiều, toán nầy vẫn chưa về. Tân
lãnh phần cơm và cất riêng cho Thành. Đến gần tối, có
tiếng reo mừng rỡ. Tân ra ngoài, thấy Thành mang một bao
hàng trên lưng, bước đi nặng nhọc. Thành vào nhà, cởi
bao hàng ra đặt trên chỗ nằm rồi ngồi xuống thở dốc:
-
Mệt quá, đi xa lắm. Tổ mình lại đây tôi chia hàng cho.
Mọi
người đều vui mừng tíu tít. Chia hàng xong, Thành mang ca
cơm của mình ra ngồi bên bếp lửa mà Tân vừa nhóm lên.
Ánh sáng bập bùng không xuyên thủng nổi màn đêm nhưng
cũng xua đuổi được phần nào đàn muỗi rừng hung dữ.
Tân nhìn bạn ăn một cách ngon lành, loáng một cái, ca
cơm hết sạch. Tân ái ngại:
-
Anh đói lắm phải không? Đi lãnh gạo xa lắm sao?
-
Xa lắm. Cả đi và về phải hơn ba mươi cây số.
-
Mệt lắm phải không?
-
Mệt lắm, có đi xa như hôm nay mới thấy trong hơn hai năm
bị giam cầm, ăn uống thiếu thốn, sức khỏe mình suy
giảm rất nhiều. Xưa mình đi hành quân trong nhiều ngày
nhưng đâu có mệt như thế nầy. Vì mệt nên anh em đã
phạm một lỗi lầm rất tai hại. Rồi cả trại phải
trả giá cho lỗi lầm nầy trong suốt tuần lễ sắp tới.
Tân
vừa ngạc nhiên, vừa lo lắng:
-
Lỗi lầm gì vậy? Trả giá thế nào?
Thành
không trả lời câu hỏi mà tiếp tục nói như than thở:
-
Tôi nghi người ta cố tình đưa chúng tôi vào tình trạng
đó. Mình đã bị họ lừa gạt nhiều lần, lần nầy lại
bị gạt nữa. Nhưng dù sao, chúng tôi cũng có lỗi rất
nhiều với anh em.
Tân
nhắc lại câu hỏi:
-
Chuyện gì vậy, anh nói cho tôi nghe với nào.
-
Chuyện thế nầy. Khi sáng, lúc mặt trời lên cao, toán
lấy gạo mới bắt đầu lên đường với nhiều vệ binh
theo canh giữ. Đi được khoảng năm cây số thì gặp một
xóm nhà dân mới lên lập nghiệp sau ngày “giải phóng”.
Ở đó có một quán tạp hóa và anh em được phép vào
mua hàng. Vèo một cái tất cả hàng trong quán đều bán
sạch. Anh em trả tiền đi ra, mỗi người một bao trên
vai, tiếp tục lên đường, đi mãi, đi mãi trên con đường
đất đỏ, qua nhiều khu rừng, nhiều nương rẫy mới vỡ,
màu đất đỏ tươi. Mặt trời đổ lửa xuống đầu
chúng tôi. Cái nắng của miền Đông nầy thực là khủng
khiếp; chúng tôi, ai cũng mệt và khát nước. Đâu có dè
đi xa thế nầy nên chẳng ai mang nước theo. Cuối cùng
đến quá trưa thì đến nơi. Đó là kho gạo của quân
đội vì ngoài cổng có đề bảng “Doanh trại Quân đội
Nhân dân Việt Nam”. Anh em được lệnh dỡ cơm trưa mang
theo ra ăn rồi lãnh gạo để về ngay. Mỗi người sẽ
lãnh ba chục kí lô. Nghe trọng lượng nầy ai cũng kinh
hãi. Ba mươi kí trong tình trạng gần như kiệt sức nầy!
Đừng nói tới chuyện mang về, chỉ cần đưa lên vai là
có thể lăn quay ra rồi.
-
Thế rồi sao?
-
Ăn xong, anh vệ binh chỉ vào kho bảo anh em mang bao vào
lãnh gạo. Khi nào lãnh xong thì lên đường trở về. Ra
lệnh xong, anh ta bỏ đi đâu mất. Chúng tôi vào kho. Chẳng
có ai trong đó cả. Giữa phòng rộng, có một bồ gạo
khá to và một cái cân. Chúng tôi đang đứng ngẩn ngơ
thì có một anh bộ đội đi ngang qua bảo: “Các anh tự
động vào xúc gạo và cân đủ ba mươi cân đi. Ai xong
thì ra ngoài kia. Nhớ đừng cân dư nhé”. Thích quá, mọi
người đến bồ gạo xúc vào bao, xách lên thử thấy vừa
sức thì cột miệng bao lại rồi vội vã ôm ra ngoài, chỉ
sợ bộ đội chận bắt vào cân lại cho đủ trọng lượng
ba mươi ký thì nguy. Thế là lên đường, trên vai mỗi
người một bao gạo ước chừng mười lăm kí cộng thêm
vài kí hàng hóa mua được. Chỉ với bấy nhiêu thôi mà
tưởng chừng như khó nuốt hết đoạn đường trở về
trại. Cuối cùng, nhờ sự hò hét của vệ binh, chúng tôi
cũng về tới nơi và xếp hàng trước kho gạo của nhà
bếp. Đại diện được gọi đến nhận. Năm mươi người,
mỗi người ba mươi kí, vị chi là một tấn rưỡi.
Tân
hỏi:
-
Quản giáo nói vậy à?
-
Vâng, ông quản giáo nói rõ ràng như thế.
-
Rồi đại diện có nhận không?
-
Anh đại diện nhìn anh em một lượt và quay lại nói với
quản giáo: “Thưa anh, có lẽ mỗi người mang không đủ
ba mươi kí”. Quản giáo trợn mắt, quát to: “Anh nói
thế nào. Không đủ à? Đây nầy, giấy xác nhận của
thủ kho tiểu đoàn đã xuất đủ một ngàn năm trăm kí”.
Quản giáo quay lại người đứng đầu hàng, hỏi: “Ở
đằng tiểu đoàn, mỗi anh được lệnh nhận bao nhiên
kí”. Anh đó trả lời: “Thưa quản giáo, ba chục kí
nhưng…”. Quản giáo chận lại: “Không nhưng gì cả.
Năm mươi người các anh đã nhận một tấn rưỡi thì
ghi nhập kho của các anh một tấn rưỡi. Dọc đường về
đây, các anh làm gì đó, tôi không cần biết”.
Tân
lắc đầu:
-
Thiệt hết chỗ nói.
Thành
cúi đầu nhìn bếp lửa, nói với giọng buồn rầu:
-
Thế là anh em mình mất toi hơn bảy trăm kí gạo. Trong
nhiều ngày tới, nhà bếp rút bớt phần cơm của mỗi
người. Chỉ do mệt và lười mà năm mươi anh em chúng
tôi làm hại cho toàn trại. Buồn lắm, anh Tân ạ. Chúng
tôi thực có lỗi nhưng cũng mong anh em tha thứ vì chúng
tôi đâu có ngờ sự việc lại dẫn đến kết quả như
thế. Không biết số gạo bị mất đó sẽ đi về đâu?
Tân
thở dài:
-
Bây giờ gạo ở ngoài đang rất khan hiếm nên bán được
giá lắm.
-
Vâng, đúng vậy, người ta sẽ mang bán số gạo đó để
chia nhau. Đúng rồi. Người ta đã cân đủ số gạo và
cho vào bồ. Tôi ước lượng gạo trong bồ lúc đầu là
một tấn rưỡi. Chúng tôi hại anh em rồi.
Tân
vỗ vai Thành:
-
Thôi anh hãy quên chuyện đó đi. Đã mất gạo mà còn lo
nghĩ nữa thì chỉ thêm cực thân một cách vô ích. Năm
mươi anh em cũng đừng nên tự dằn vặt mình. Anh em không
có lỗi đâu. Người ta cố tình gài anh em vào bẫy đó.
Giọng
Thành vẫn không vui tí nào:
-
Cám ơn anh, cám ơn anh em tha thứ cho chúng tôi. Người ta
thực là tàn ác. Mình đang quá khổ vì đói chứ có phải
dư dả đâu. Tôi thấy người cộng sản quá tham lam vật
chất.
Tân
gật đầu:
-
Họ đã tự xưng là theo chủ nghĩa duy vật kia mà.
Thành
lắc đầu:
-
Không phải chủ nghĩa duy vật đích thực đâu. Chỉ là
ngụy tạo. Chủ nghĩa của họ là đam mê, là tôn sùng
vật chất chứ không phải là chủ nghĩa duy vật của
triết học. Trong tài liệu chính trị họ luôn luôn nói
giai cấp công nhân rất quí vì làm ra của cải vật chất
cho xã hội. Họ xem vật chất là trên hết. Hành động
của họ trên thực tế càng rõ ràng hơn nữa.
Tân
hỏi:
-
Bỏ qua cái lòng tham vật chất của họ đi, theo anh, về
mặt tư tưởng, họ có theo chủ nghĩa duy vật thực sự
hay không?
-
Tôi đã nói rồi. Cái duy vật của họ là ngụy tạo để
mà triệt hạ tôn giáo còn đích thực thì họ duy tâm.
Tân
ngạc nhiên:
-
Hả? Anh nói sao? Họ mà duy tâm à?
-
Vâng, tôi muốn nói họ duy tâm ở chỗ gán cho các thực
thể trong xã hội cái bản chất mà tự họ đặt ra. Thí
dụ, hễ nói tới công nhân thì họ phủ cho một bản
chất tốt đẹp của giai cấp vô sản, trái lại mọi
người mà họ gọi là tư sản đều phải tồi tệ về
mọi mặt. Thế giới quan của họ là một tập họp các
ý niệm hoàn toàn chủ quan, chỉ do sự suy luận và óc
tưởng tượng của họ mà ra. Thế là duy tâm rồi.
Thành
cười và nói tiếp:
-
Tôi là một bác sĩ nên triết học không phải là lĩnh
vực của tôi, vì vậy tôi trình bày vấn đề nầy không
được rõ ràng và thuyết phục, có phải không anh Tân?
Tân
gật đầu:
-
Tôi hiểu và khâm phục sự suy nghĩ của anh dù anh là bác
sĩ chứ không phải là triết gia. À, anh Thành, anh là bác
sĩ quân y của biệt động quân, anh có biết trung tá Đoàn
Thạch Thảo không?
-
Biết chứ, trung tá liên đoàn trưởng.
-
Anh ở trong liên đoàn của anh Thảo à?
-
Không, tôi thuộc liên đoàn khác nhưng tôi biết ông ấy
vì cái tên rất đặc biệt và vì ông là một sĩ quan nổi
tiếng giỏi chiến thuật và gan lì. Anh có bà con với
trung tá Thảo à?
-
Không chỉ là bạn thôi nhưng là bạn rất thân. Lúc còn
trong quân trường, chúng tôi họp lại thành một bộ ba.
Một đứa đã tử trận, tôi thì đang nằm trong trại cải
tạo, còn anh Thảo không biết bây giờ ra sao.
-
Sau ngày “giải phóng”, tôi có gặp một sĩ quan trong số
đàn em của trung tá Thảo và ở cùng liên đoàn với
trung tá cho tới ngày bại trận. anh đó bảo rằng khi
nghe lệnh buông súng đầu hàng thì trung tá Thảo định
tự tử nhưng tất cả các sĩ quan có mặt đều can ngăn.
Sau đó, trung tá bỏ ý định tự tử, đích thân căng lá
quốc kỳ lên để mọi người chào lần cuối cùng. Rồi
trung tá cởi lon và huân chương của mình ra và bảo mọi
người làm theo mình. Trung tá gói tất cả vào lá quốc
kỳ và châm lửa đốt. Trung tá nhìn ngọn lửa cháy đến
hết thì lấy khăn ra lau nước mắt rồi cho lệnh giải
tán liên đoàn, ai muốn đi đâu thì đi. Có người hỏi
thì trung tá nói rằng sẽ vào chiến khu hay trốn ra ngoại
quốc và hẹn ngày trở về để phục quốc.
-
Sau đó, anh có biết anh Thảo đi đâu không?
-
Không, có lẽ ông ấy đã trốn đi rồi. Sau khi miền Nam
đầu hàng thì nhiều ngày sau đó, những chiếc tàu còn
lại của Hải quân và của thương gia vẫn tiếp tục lên
đường chạy trốn. À, tôi nghe nói trung tá Thảo là học
sinh miền Bắc vượt biên vào Nam phải không?
-
Phải.
-
Ông ấy còn thân nhân ngoài Bắc không?
-
Chỉ còn một người em gái có cái tên rất đẹp là Đoàn
thị Hải Đường, không biết bây giờ ra sao?
-
Tại sao ông ấy không ở lại Việt Nam để có dịp đi
tìm lại cô em gái đó?
-
Anh Thảo thương nhớ cô em gái lắm nhưng tôi biết tính
anh ấy. Nếu anh ấy gặp cán bộ công sản thì nhất định
hai bên phải có một bên về chầu ông bà.
-
Căm thù đến thế à?
-
Không căm thù sao được? Cha mẹ anh ấy không phải là
địa chủ mà bị đấu tố đến chết.
-
À, tôi hiểu rồi. Trong Nam mình, cộng sản chưa giở trò
tàn ác ngoại trừ một trường hợp khá thu hẹp là cuộc
tàn sát vào những ngày tết Mậu thân ở Huế. Vì vậy,
dân miền Nam ít căm thù cộng sản, thậm chí có người
còn thích sống với cộng sản nữa. Còn ngoài Bắc thì
nếm quá đủ rồi nên người ta căm thù. Nhưng đó là
thế hệ trước, còn những thế hệ sau nầy lớn lên bị
nhồi sọ riết thì chẳng còn biết gì nữa.
Thành
thở dài và nói tiếp:
-
Vậy mà hay. Sống với cộng sản, càng biết nhiều, càng
khổ chứ ích lợi gì.
Anh
quăng nốt que củi cuối cùng vào đống lửa rồi đứng
lên. Hai anh em vào nhà. Mọi người đều đã ngủ cả.
*
*
*
Mùa
nắng đến với những cơn gió lành lạnh từ phương bắc
thổi vào. Cuộc sống trong trại cải tạo đã được ổn
định và dễ chịu. Khu đất bên trong đã được dọn
dẹp quang đãng. Chung quanh nhà và trên các con đường đi,
mặt đất đỏ láng ô; nhờ bước chân của nhiều trăm
người qua lại mỗi ngày nên đất được nén chặt trông
sạch sẽ chứ không nhớp nháp như lúc mới đến.
Khu
trại nằm trên một sườn đồi dốc thoai thoải, bên
dưới cùng là một dòng suối trong veo. Đó là dòng nước
quí giá cho tất cả mọi người. Phía thượng nguồn, bên
ngoài vòng rào, dòng nước được khơi rộng thành một
cái hồ be bé, chung quanh có những tảng đá xếp liền
nhau, tạo thành bờ tường sạch sẽ và vững chắc. Đó
là nơi tắm rửa dành riêng cho quản giáo và vệ binh. Qua
khỏi hàng rào, dòng suối có một đoạn khá dài trong
khuôn viên của trại và được chia thành hai phần. Phần
bên trên dành ăn uống và tắm rửa, phần bên dưới dành
để tưới cho khu vườn rau.
Trong
vườn, rau mọc lên xanh tươi trông thực mát mắt. Cải,
dền, rau muống xen kẽ với nhau trong các luống trên mặt
đất. Trên cao, bầu bí, trái xanh mơn mởn, lắc lẻo,
đong đưa.
Hàng
ngày, hầu hết anh em được dẫn ra ngoài trại để làm
lao động. Công việc chính yếu bây giờ là hái bắp và
nhổ sắn chất thành đống để nông trường cho xe đến
mang đi. Ngày nào người ta cũng cho anh em một số sắn và
ngô, quản giáo dễ dãi cho mang vào trại. Thế là mỗi
đêm, từng nhóm ngồi quanh bên đống lửa, bên trên là
một nồi sắn, bắp sôi ùng ục, hơi bốc lên thơm ngào
ngạt.
Bụng
no thì sức khỏe khá lên, mọi người bắt đầu vui vẻ
ca hát. Trong các câu chuyện bên bếp lửa hồng, anh em
không còn nhắc lại những kỷ niệm của một thời cầm
súng nữa. Cuộc chiến đã bị chôn vùi sâu trong quá khứ,
bây giờ mọi người chỉ còn bàn bạc đến cái ngày ra
khỏi trại cải tạo nầy, làm gì để nuôi sống thân
mình và vợ con trong một xã hội được mệnh danh là xã
hội chủ nghĩa.
Sau
một đợt học tập kéo dài đến hơn mười ngày, anh em
bàn tán xôn xao về tin đồn rằng thời gian bị giam giữ
đã chấm dứt, chính phủ cách mạng sẽ lần lượt cho
mọi người về với gia đình. Nhiều người tỏ ra nghi
ngờ về tin đồn nầy, nhưng lại có người quả quyết
rằng điều đó là do các anh giảng viên chính trị cho
biết trong giờ nghỉ ngơi giữa các buổi học.
Tin
đồn đó quả thực đúng!
Một
buổi sáng hơn hai mươi anh em được gọi lên văn phòng
để làm thủ tục phóng thích. Cả trại như nổ tung vì
hân hoan và hi vọng. Sáng hôm sau, mọi người đứng chật
hai bên con đường dẫn ra cổng để tiễn đưa toán người
may mắn đầu tiên được ra khỏi nơi giam cầm.
Sau
đó, gần như hàng tháng, lại có một đợt phóng thích,
trại cứ thưa dần. Vào đầu mùa mưa, Tân được gọi
tên lên văn phòng làm thủ tục. Đêm hôm đó, Tân cùng
vài anh em khác ngồi bên bếp lửa đến tận nửa đêm.
Anh nhìn gương mặt của từng người. Trong ánh sáng của
ngọn lửa bập bùng, những gương mặt đó trông xanh xao,
buồn bã, không còn lưu lại chút nào cái nét ngang tàng
của những người lính chiến lúc còn xông pha trên trận
mạc.
Tân
ngước mắt nhìn ra bên ngoài. Rừng tối đen như mực.
Phía dưới dòng suối vài con đom đóm lập lòe. Đêm nay
là đêm cuối cùng anh còn nhìn thấy cảnh núi rừng âm u
nầy. Nghĩ tới đó, anh cảm thấy lòng thật bùi ngùi.
Suốt
đêm, Tân ngủ rất ít, phần lớn thời gian nằm thao thức
lắng nghe từng ngọn gió thổi ào ào trong rừng. Thỉnh
thoảng có tiếng lầu bầu mớ ngủ của ai đó trong
phòng. Anh nghĩ rằng giờ nầy có nhiều người đang mơ
về với gia đình để sống nốt chuỗi ngày còn lại của
đời mình trong một đất nước không còn tiếng súng.
Gà
rừng eo óc gáy xa xa báo hiệu một ngày mới sắp đến.
Tân bước xuống giường, dậm mạnh hai chân để xua đuổi
rắn độc ban đêm thường lẻn vào. Anh bước ra ngoài.
Dưới ánh sáng nhạt nhòa của bầu trời đầy sao, anh
nhìn thấy rõ những dãy nhà nằm im lìm, cái hàng rào
hiện ra lờ mờ bên kia bờ suối, băng qua khu vườn rau
và khuất mất sau những dãy nhà làm văn phòng cùng chỗ
ở của quản giáo và vệ binh.
Tân
gom một ít củi khô để nhúm lửa và bắt nồi nước
lên. Vài người thức dậy đến ngồi quanh bếp. Họ im
lặng nhâm nhi chén nước trà trong sương lạnh của mùa
mưa vừa chợt đến.
Khi
trời đã sáng tỏ, Tân mang tất cả đồ dùng cá nhân
của mình phân phát cho anh em còn ở lại rồi bắt tay từ
giã từng người.
Thành
dang rộng hai cánh tay ôm chầm lấy Tân:
-
Hôm nay anh về với đời cho vui vẻ nhé. Hi vọng chúng ta
sẽ gặp nhau ở đâu đó để nhắc lại những ngày sống
trong tù. Chúng ta đã có một quãng đường đời không
thể nào quên được.
Tân
cảm động nhắc lại lời bạn:
-
Vâng, không thể nào quên được.
Tân
cúi chào anh em một lần nữa rồi bước ra cổng trại.
anh choáng ngợp với ý nghĩ vừa được phóng thích sau ba
năm bị giam cầm. Anh đang được tự do! Không hẳn thế.
anh nhớ lời Thành nói rằng người cộng sản đã biến
cả miền Nam lẫn miền Bắc thành một nhà tù khổng lồ.
Dù nhận định của Thành là đúng, anh vẫn bằng lòng
cái nhà tù khổng lồ đó vì được sống chung với Thùy
Liên và hai con của mình. Sống chung với những người
thân yêu đó thì địa ngục cũng hóa thành thiên đàng.