Một cuộc chiến tranh dài
Tập IV
Chương 11: Những ngày cải tạo
(2)
-
Tất cả anh em mình đều là những kẻ bất lương. Cách
mạng vào đây dạy anh em mình thành những người lương
thiện. Than ôi!
Nói
xong anh cười gằn và bỏ ra ngoài.
Dù
sao, Định cũng là một giáo sư khá lâu năm nên nét chữ
của anh thực đẹp và rõ ràng. Mỗi lần nằm xuống sạp
thì cái khẩu hiệu đỏ choét đó đập vào mắt mỗi
người. Khẩu hiệu không phải chỉ được kẻ trong phòng
ngủ mà có khắp nơi, nhiều nhất là trong hội trường
mới cất. Hầu hết các khẩu hiệu có nội dung thóa mạ
nặng nề chế độ cộng hòa và các sĩ quan của chế độ
nầy. Lúc đầu anh em thấy rất khó chịu và nhục nhã
nhưng về sau quen dần. Vả lại, anh em đang trở lại nuôi
hi vọng được trả tự do sau khóa học nầy.
Vài
ngày sau, khóa học thực sự bắt đầu. Anh em xếp thành
hàng ngũ chỉnh tề trong hội trường, ai cũng náo nức
trong ngày khai giảng. Sau lễ chào cờ, quản giáo trưởng
đọc nội qui của khóa học và giải tán.
Trong
nhiều ngày sau đó, sáng và chiều, anh em phải tập họp
lên hội trường, ngồi trân mình để nghe những lời
mắng chửi và nguyền rủa của các giảng viên là các sĩ
quan của bộ đội cách mạng, bây giờ đã mang quân hàm
với cấp bậc rõ ràng. Tất cả các bài học đều xoay
quanh tội ác gán cho Mỹ, cho chính phủ cùng quân đội
Việt Nam Cộng hòa trước kia.
Sự
chịu đựng của anh em kết thúc sau một tuần lễ. Trong
buổi học cuối cùng, một người bộ đội mang cấp bậc
thiếu tá nói trong máy phóng thanh với giọng thực ôn
tồn:
-
Các anh đã được học các bài học về tội ác của Mỹ
ngụy. Mỗi người trong các anh, ít nhiều cũng đã tham
gia vào các tội ác đó. Bây giờ, để chứng tỏ rằng
mình đã tiếp thu được bài học, các anh hãy khai báo
những tội lỗi của mình ra. Nếu các anh thành thực thì
cách mạng và nhân dân sẽ khoan hồng, sớm cho các anh về
đoàn tụ với gia đình. Anh nào chưa thành thực, nghĩa là
còn giấu giếm tội ác của mình thì được xem như cải
tạo chưa tốt và còn phải học tập lâu dài cho đến
khi nào trở nên tốt mới thôi. Bây giờ các anh về phòng
suy nghĩ về cái quá khứ đầy tội lỗi của mình và
khai báo tất cả ra giấy. Tôi cho các anh tiếp tục nghỉ
làm lao động trong ba ngày để hoàn tất bản khai báo đó.
Chúng tôi sẽ đọc kỹ những điều các anh khai để xem
ai thành thực thì cho về trước với gia đình, ai chưa
thành thực thì tiếp tục ở lại học tập. Bây giờ các
anh đứng dậy và trở về phòng đi. Ngay chiều nay các
anh bắt đầu công việc khai báo của mình. Các anh nghe rõ
chưa?
Mọi
người lầm lũi ra khỏi hội trường. Đúng theo lời dặn
của ông thiếu tá cách mạng, cơm trưa xong, mọi người
bắt đầu ngồi trước trang giấy trắng, nặng óc ra để
nhớ lại trong quá khứ của mình có hành động nào đáng
được gọi là “tội ác” đối với cách mạng và đối
với nhân dân.
Ba
ngày trôi qua trong im lặng và nặng nề. Tất cả các bản
“tự khai tội” được góp về văn phòng ban quản giáo.
Anh em bắt đầu sống trong hồi hộp lẫn hi vọng.
Một
tuần lễ sau, có lệnh tập họp thành từng khối gồm
nhiều tổ dưới sự chủ tọa của một quản giáo. Lần
lượt mỗi người đọc bản “khai tội” của mình cho
mọi người nghe. Sau mỗi lần như thế thì quản giáo
khuyến khích những người trước đây cùng đơn vị hoặc
quen biết với người đọc tố cáo thêm những hành động
nào mà anh ta còn giấu giếm. Trong nhiều ngày, chẳng ai
tố cáo gì thêm, trái lại nhiều người còn ngạc nhiên
khi nghe khai những tội khó có thể xảy ra trong hàng ngũ
sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa trước đây.
Những
ngày nầy, không khí trong trại hết sức nặng nề. Đây
quả là một đòn cân não khủng khiếp mà anh em phải
chịu đựng. Cũng may, sau mười ngày thì cái đòn cân não
nầy chấm dứt. Anh em trở lại nếp sống bình thường,
với hai buổi lao động mỗi ngày. Lao động ở đây là
làm những công việc tay chân bên trong trại như trồng
rau, sửa sang nhà cửa cho quản giáo và bộ đội, hoặc
bên ngoài trại như dỡ nhà đem tôn và gỗ về cho quản
giáo, hay cuốc đất trồng sắn trồng khoai trên những
bãi đất hoang chung quanh trại.
Cuộc
sống mới bắt đầu phẳng lặng thì xảy ra hai sự việc
liên tiếp làm mọi người xôn xao. Đầu tiên là việc
một người tên Bảo đang đêm lẻn vào hội trường treo
cổ tự tử. Vài ngày sau, cũng vào ban đêm, có hai người
leo hàng rào trốn ra ngoài và bị bộ đội trông thấy
bắn chết tại chỗ. Xác của cả ba người bị chôn vùi
trên miếng đất trống bên ngoài trại. Bạn bè thân
thiết của người chết xin dựng bia bằng miếng tôn,
trên đó người ta lấy đinh đục những lỗ nhỏ ghi tên
họ để sau nầy thân nhân có thể tìm ra được hài cốt.
Tuy nhiên quản giáo không cho phép vì cho rằng đó là
những tên ác ôn đã gây nên tội ác đối với nhân dân
mà không chịu cải tạo để trở thành người lương
thiện. Rốt cuộc, xác của họ bị vùi xuống đất bên
trên san phẳng cho mất hết dấu vết.
Quản
giáo giải thích thêm rằng mỗi tên ác ôn đó không được
quyền có một ngôi mộ vì như thế là tốn phí hai mét
vuông đất sản xuất của nhân dân. Xác của họ chỉ
đáng dùng làm phân bón để sản xuất ra của cải vật
chất cho xã hội mà thôi.
Trong
những ngày sau sự kiện nầy, Định tỏ ra hết sức buồn
bã. Tân biết một trong hai người vượt ngục và bị bắn
chết là đại úy Thêm, bạn của Định. Một buổi chiều,
Định rủ Tân ra ngồi trên tảng đá cạnh đường đi,
nơi hai người thường ngồi nhìn hoàng hôn đến và đi.
Tân chưa kịp gợi chuyện để an ủi thì Định đã nói:
-
Vì thiếu úy Bảo tự tử nên đại úy Thêm mới vượt
ngục dù biết rằng mình khó thoát được.
Tân
ngạc nhiên:
-
Hai việc khủng khiếp đó có liên can với nhau à?
Định
thở dài:
-
Đúng vậy. Hai sự việc cực kỳ đau đớn đó có cùng
một nguyên nhân. Tôi phải kể từ đầu thì anh mới hiểu
được. Tôi và Thêm quen nhau từ thuở còn học chung ở
một trường trung học. Xong tú tài tôi vào sư phạm còn
Thêm đi học luật để trở thành luật sư. Hai chúng tôi
cùng tới tuổi bị động viên và cùng học khóa Mười
bốn Thủ đức như anh vậy. Tôi ra bộ binh và rồi được
biệt phái về dạy học với anh. Thêm thì trở thành sĩ
quan quân cảnh, vẫn còn tại ngũ và lên tới đại úy
khi miền Nam sụp đổ. Thêm là đại đội trưởng, dưới
quyền anh ấy có thiếu úy Bảo, xuất thân trường Bộ
binh Thủ đức khoảng năm 1971.
-
Có phải cái anh vừa treo cổ tự tử trong hội trường
không?
-
Đúng rồi. Theo lời Thêm, thiếu úy Bảo là một cậu bé
rất hiền lành và rất có hiếu với mẹ. Cha mất sớm,
bà mẹ tần tảo nuôi cho anh ta ăn học. Bà hi sinh tất cả
cho đứa con trai duy nhất của bà.
- Ủa, thế là anh ta là con
một à? Con một thì phải được hoãn dịch chứ.
-
Đúng, con một thì được miễn dịch luôn nhưng vì giấy
tờ lôi thôi sao đó mà anh ta bị gọi đi lính, rồi sau
đó nha động viên bộ quốc phòng có quá nhiều việc nên
không giải quyết cho xuất ngũ được. Vào học quân
trường Thủ đức xong rồi, Bảo được đi quân cảnh
cũng yên thân nên anh ta không làm đơn khiếu nại nữa,
hi vọng hết thời hạn quân dịch pháp định thì được
giải ngũ. Không ngờ, sau lệnh tổng động viên, không
còn ai được giải ngũ nữa.
Tân
phì cười:
-
Cuối cùng, anh ta cũng được cách mạng cho giải ngũ và
đi trình diện học tập với chúng mình.
Định
gật đầu:
-
Trình diện học tập chung với cả sếp
là đại úy Thêm nữa. Thêm nói với tôi là thiếu úy Bảo
quá chân thật và có phần ngây thơ nữa. Lúc ở Trảng
lớn, có lần Thêm gặp anh ta khóc rưng rức vì nhớ mẹ.
Là sĩ quan học tập mà đêm nào anh ta cũng quì bên giường
để cầu nguyện cho được sớm trở về với mẹ. Tóm
lại, anh ta thực sự rơi vào cơn khủng hoảng khi tiếp
tục bị giam giữ sau mười ngày trình diện học tập.
Vừa rồi nghe tin lên hội trường học chính trị, anh ta
vui mừng ca hát suốt ngày. Ca toàn những bài hát cách
mạng vừa học được. Rồi khi nghe cái ông thiếu tá
Việt cộng dụ dỗ khai tội để được về sớm thì anh
ta cũng như vài người khác hoàn toàn tin thật. Khổ nỗi,
làm quân cảnh, không trực tiếp cầm súng ngoài chiến
trường thì có tội ác gì quá lắm đối với cách mạng
nên anh ta phải tưởng tượng ra vài chuyện để tự kết
tội mình. Anh Thêm nói rằng khi nghe thiếu úy Bảo đọc
bản khai tội của mình thì Thêm chưng hửng vì trong đó
có nhiều điều láo khoét và rùng rợn vừa nguy hại cho
anh ta, lại vừa xúc phạm đến danh dự của binh chủng
quân cảnh, dù binh chủng đó ngày nay không còn nữa. Thêm
giận lắm. Là luật sư nên anh biết cái bản khai tội
nầy đích thị là cái bản án, cộng sản sẽ căn cứ
vào đó để định thời hạn giam cầm cho mỗi người.
Anh cũng nói thêm rằng trong lịch sử pháp lý của loài
người thì đây là trường hợp duy nhất mà bị cáo tự
nguyện vu khống cho mình những tội mà mình không phạm
phải để được khoan hồng!
Tân
sốt ruột:
-
Nhưng tại sao thiếu úy Bảo tự tử?
-
Nguyên nhân thế nầy. Sau khi thiếu úy Bảo đọc bản tự
thú tội của mình trong khối thì mọi người đều vô
cùng ngạc nhiên vì biết thiếu úy Bảo là người rất
hiền lành và binh chủng quân cảnh nổi tiếng là đứng
đắn và kỷ luật, vì đó là binh chủng có chức năng
thi hành kỷ luật và pháp luật. Riêng đại úy Thêm thì
biết rằng đó là chuyện bịa đặt nhưng không thể nói
gì được. Ai cũng biết, theo qui định, sau khi một bản
thú tội được đọc xong thì ý kiến của người khác
đưa ra phải là để buộc thêm tội chứ không phải để
gỡ tội. Biết thiếu úy Bảo không có tội như lời khai
nhưng đại úy Thêm đành câm miệng. Thêm tức lắm, nhưng
cố gắng chịu đựng và giữ im lặng trong suốt thời
gian các khối thông qua các bản khai tội. Cách đây vài
hôm, một buổi chiều, sau khi cơm nước xong, Thêm gọi
Bảo ra khu vườn rau mắng cho một trận và giải thích
cho Bảo nghe rằng anh ta đã lầm to và cái bản thú tội
bịa đặt đó sẽ kết án tù rất dài hạn cho anh, không
mong gì được về sớm với mẹ đâu. Ngay đêm đó, Bảo
tự tử chết.
Định
ngừng một chút để nén sự xúc động rồi ngậm ngùi
nói tiếp:
-
Đây là một thành tích lừa gạt thành công nhất của
cách mạng và đau đớn nhất đối với một số anh em
mình.
-
Có phải vì đau khổ và hối hận mà đại úy Thêm rủ
một người nữa vượt ngục và bị bắn chết không? Đó
có phải là một cách tự tử không?
-
Tôi cũng đoán như thế, nhưng không chắc lắm. Khi nói
chuyện với tôi, Thêm tỏ ra cực kỳ đau khổ nhưng không
tỏ ý gì muốn tự tử cả. Thêm nói rằng không ngờ
thiếu úy Bảo bị khủng hoảng tới nước đó; thà rằng
cứ để cho Bảo bị lừa gạt còn hơn nói ra sự thực
để cho Bảo tìm đến con đường tự tử. Tôi đoán rằng
Thêm không còn muốn tiếp tục sống nơi nầy nữa để
mỗi lần nhìn cái hội trường lại bị lương tâm dằn
vặt. Anh ta là luật sư mà. Đã là luật sư thì sự ray
rứt vì hối hận mạnh hơn chúng ta nhiều.
Sau
ba cái chết liên tiếp của tù nhân, cùng thái độ thù
hằn và không chút thương xót của quản giáo làm cho anh
em ý thức được rõ thân phận của mình đích thị là
những tù binh. Anh em cũng ý thức được, giữa người
chiến thắng và kẻ chiến bại vẫn còn một hố sâu
thăm thẳm của hận thù. Trước mắt anh em, những ngày
bị giam cầm chắc chắn sẽ còn kéo dài; kéo dài đến
bao lâu, có lẽ chỉ có những người lãnh đạo tối cao
trong bộ chính trị của trung ương đảng đang sống ở
Hà nội mới biết được.
Mọi
người bắt đầu lo toan cho cuộc sống dài hạn trong tù.
Đáng lo nhất là cái ăn hàng ngày. Thực phẩm do cách
mạng “ban cho” thì quá thiếu thốn nên sức khỏe của
anh em giảm sút rõ rệt, cần phải “tăng gia sản xuất”
để “cải thiện” bữa ăn. Đó là những từ mới mà
anh em học được ở quản giáo và bộ đội.
Tất
cả các miếng đất trống đều được chia cho các tổ
để trồng rau. Những con đường bị thu nhỏ lại vừa
đủ một người đi để lấy thêm đất mà canh tác. Dụng
cụ làm đất chỉ là những que sắt lượm được trong
trại vì vậy phải bỏ ra rất nhiều công sức thì đất
hoang mới trở thành những luống rau được.
Đất
đỏ vùng nầy chỉ tốt cho cây công nghiệp như cao su, cà
phê nhưng không tốt lắm cho rau cải. Vì vậy phân bón
rất cần thiết. Nguồn phân bón duy nhất ở đây là chất
thải hàng ngày của anh em. Cái thứ hôi hám đó bây giờ
trở nên rất quí giá. Mỗi tổ đều có một cái thùng
hay cái chậu lượm được trong khu gia binh mang về đặt
trước thềm để đựng nước tiểu. Cả trại có một
cầu tiêu công cộng thô sơ. Khi ra đó thì thường mỗi
người phải mang theo một vật dụng hứng lấy chất thải
của chính mình mang về đổ vào hố ủ phân trong miếng
đất “tăng gia” của tổ.
Trong
thời gian gần đây, có lẽ bên ngoài hàng hóa đã được
lưu thông, nên cứ một hai ngày, khẩu phần anh em lại có
thêm cá biển. Đó là những đống cá đã bắt đầu ươn
sình, toán trực làm nhà bếp không biết nấu cách nào
nên chia cho các tổ tự lo lấy. Thế là trong các phòng ở,
xuất hiện một cách kín đáo những bếp nhỏ để nấu
thức ăn. Anh em giành giật nhau những cây khô, những tấm
ván mục bên trong khuôn viên trại để làm củi đốt.
Mỗi lần ra bên ngoài để làm lao động, mỗi người đều
“tranh thủ” kiếm ít củi, giấu trong áo mang về phòng.
Có
cá sống mang về tổ rồi thì phải có dao cắt nó ra. Thế
là anh em moi móc khắp nơi, tìm những mảnh sắt về mài
để làm dao. Có người còn tìm được hay chế tạo ra cả
cưa, đục, kềm, búa nữa. Anh em dùng những dụng cụ nầy
để chế ra nhiều vật dụng cần thiết, và những món
đồ chơi xinh xắn với hi vọng sau nầy có dịp gởi về
cho con. Vì vậy, trong những ngày chúa nhật và giờ hết
lao động, khắp nơi vang lên những tiếng gõ, tiếng đục
ồn ào.
Quản
giáo chỉ cần đi một vòng quan sát là nhận ra ngay có
quá nhiều vật dụng bằng sắt mà tù nhân có thể sử
dụng làm vũ khí được. Hơn nữa vùng nầy trước đây
là một căn cứ quân sự và từng là chiến trường ác
liệt nên có thể đạn dược bom mìn và cả súng ống
nữa còn nằm lại đâu đó trên mặt đất. Những ông tù
binh nầy đều là sĩ quan của một quân đội thiện chiến
nên nếu họ thu lượm và tàng trữ những thứ đó trong
trại thì thực là nguy hiểm. Làm thế nào đây? Quản
giáo ra thông báo buộc mang tất cả sắt thép và chất nổ
lên văn phòng. Lệnh truyền như thế nhưng không chắc tù
nhân thi hành triệt để.
Cuộc
sống bị giam cầm kéo dài từ ngày nầy qua ngày khác
trong một không gian chật hẹp làm cho mọi người chán
ngán, Thỉnh thoảng nếp sống cũng thay đổi một chút
khi mọi người được nghỉ lao động để lên hội
trường học chính trị đôi ba ngày. Trước đây, anh em
nôn nao được học chính trị vì cho rằng sau khi học thì
được ra về với gia đình. Bây giờ, ai cũng biết rằng
mỗi người đều đã nhận lãnh một bản án bí mật do
Hà nội định đoạt nên việc học chính trị bây giờ
không còn là cánh cửa mở ra để thoát khỏi nhà tù nữa,
mà chỉ là một sự tẩy não thuần túy mà thôi. Vì vậy,
trên hội trường, anh em thờ ơ ngồi im chịu đựng cái
giọng chát chúa của giảng viên trong máy phóng thanh mở
với công suất tối đa.
Một
buổi sáng, khi anh em vừa thức dậy, anh đại diện chạy
bay xuống các dãy nhà, la to nhiều lần:
-
Chuyển trại đi nơi khác anh em ơi. Chúng ta chỉ có mười
phút để thu gom đồ dùng rồi ra tập họp nhanh ở sân
trước của văn phòng quản giáo. Nhanh lên anh em ơi, đoàn
xe sắp tới rồi.
Khắp
các dãy nhà bùng lên tiếng reo hò mừng rỡ. Không cần
biết sẽ đến đâu, cứ đi khỏi nơi nầy là vui thích
lắm. Ở đây chán lắm rồi. Cả ngàn con người trong một
khu đất chật hẹp, ngày nầy qua ngày kia, chỉ trông thấy
những dãy nhà xấu xí, những đám rau cải xanh khăm khắm
mùi phân người. Rời khỏi nơi đây, đó là điều mọi
người đều mong muốn. Anh em thiết tha thay đổi chỗ ở
dù cho chỗ sắp đến là đồng hoang cỏ cháy hay chốn
thâm sơn cùng cốc.
Chưa
đầy mười phút sau, mọi người đã ra khỏi phòng. Chiếc
túi đựng dụng cụ cá nhân của mỗi người đều to hơn
lúc mới đến đây vì nó chứa thêm một số đồ vật
nhặt được trong các nhà ở của các gia đình binh sĩ
trước đây. Các tổ lần lượt di chuyển lên văn phòng
quản giáo. Mọi người đều tỏ vẻ hân hoan, cố gắng
đi thực đúng hàng để làm vui lòng quản giáo. Có lẽ,
các ông quản giáo nầy sẽ cùng đi với anh em đến chỗ
ở mới, làm vui lòng họ thì hi vọng họ sẽ dễ dãi với
anh em ở nơi sắp đến.
Khi
tất cả tù nhân đã tập họp xong đầy đủ, quản giáo
trưởng nói to trong loa cầm tay:
-
Các anh kéo giãn đội hình ra.
Có
tiếng thì thào:
-
Kéo giãn đội hình là làm cái gì?
Tiếp
theo là tiếng giải thích:
-
Là đứng xa nhau ra. Nhanh lên. Đứng cách xa để lên xe
cho nhanh. Có lẽ xe sắp đến rồi.
Vài
phút sau tiếng bước chân lào xào chấm dứt, chỉ còn
tiếng bàn bạc rì rào mà thôi. Mọi người đều muốn
nói lên phỏng đoán của mình về chỗ ở sắp đến.
Giọng
quản giáo trưởng trong loa lại vang lên:
-
Các anh im lặng ngồi xuống tại chỗ, mở bao hành trang
ra, sắp xếp tất cả mọi thứ trên mặt đất.
Tiếng
động lào xào cùng tiếng rì rầm lại vang lên. Tân nghe
giọng nói nho nhỏ sau lưng mình:
-
Soạn ra thế nầy để làm gì? Nếu xe tới làm sao lên
cho kịp.
Có
tiếng người khác trả lời:
-
Phải khám để biết chúng ta đem thứ gì đến chỗ ở
mới chứ. Có lẽ về thành phố mới khám kỹ trước khi
lên đường chứ lần di chuyển trước có khám gì đâu.
Biết đâu chúng ta được đưa trả về Sài gòn.
Một
tiếng cười khẩy tiếp theo là giọng nói mỉa mai:
-
Đừng có mơ mộng như thế. Chuyến nầy thì ra tận miền
thượng du Bắc Việt mà cải tạo đến già đầu.
Tiếng
nói của quản giáo trưởng trong loa lại vang lên:
-
Các anh im lặng, nghe lệnh tiếp theo đây. Bây giờ các
anh cởi áo và quần dài ra. Chỉ mặc một quần ngắn và
ở trần.
Mọi
người vô cùng ngạc nhiên nhưng cũng nhanh chóng làm theo
lệnh. Vài phút sau tiếng loa tiếp tục phát ra:
-
Được rồi. Các anh cuộn áo quần để xuống đất và
ngồi yên tại chỗ. Cảnh vệ bắt đầu làm việc đi.
Thu gom tất cả sắt thép và chất nổ. Dù lớn, dù nhỏ
không chừa một món nào cả.
Những
chú bộ đội đã đứng sẵn tự lúc nào trong văn phòng,
vội bước ra, mỗi người cầm một cái bao, hùng hổ
xông vào khám xét và thu lượm. Dao, cưa, đục, búa, kềm,
những món đồ chơi xinh xắn làm từ vỏ đạn, lần lượt
chui cả vào những chiếc bao.
Cuộc
khám xét chấm dứt, các cảnh vệ ì ạch mang những chiếc
bao nặng trĩu vào văn phòng.
Quản giáo trưởng ra lệnh:
-
Các anh mặc áo quần vào, dọn dẹp đồ đạc vào túi
rồi ngồi im tại chỗ.
Nữa
giờ sau, ông ta ra lệnh:
-
Các anh đứng dậy. Lần lượt các tổ trở về chỗ ở
của mình, cất đồ đạc và đi làm lao động.
Sau
vài giây ngạc nhiên, anh em lặng lẽ, lủi thủi về
phòng.
Chỗ
ở của anh em vừa bị lục tung. Sạp nằm bị lật lên,
những bếp con bị quăng ra sân, nhiều nơi mặt đất bị
đào xới.
Định
đứng nhìn một phút rồi phá lên cười rũ rượi. Một
vài người khác cũng cất tiếng cười bi thương.
Tân
đau khổ nói:
-
Thôi đi, anh Định.
-
Cả một tập thể trí thức ưu tú, nào là kiến trúc sư,
giáo sư, kỹ sư, bác sĩ, nào là cử nhân, tiến sĩ, thạc
sĩ... còn mấy tay luật sư nữa. Vậy mà bị đánh lừa
một cú thực là ngoạn mục. Thế là bây giờ cả trại
chẳng còn một con dao nào nữa nhé. Trưa nay, nếu nhà
thầu đem cá đến thì anh em mình dùng răng mà cắn ra
từng miếng rồi nhúm lửa lên mà nướng nghe chưa?
Trí
đáp lời:
-
Không, chúng ta sẽ dùng những viên đá để đập cho nát
cá ra. Chúng ta đang đi ngược lịch sử văn minh của loài
người. Hôm qua chúng ta sống ở thời đại đồ sắt,
hôm nay sang thời đại đồ đá.
Định
quay lại hỏi to:
-
Rồi ngày mai?
- Ngày mai, chúng mình sẽ
trở thành một lũ vượn người!
Lần
này, mọi người cùng cười vang vui vẻ rồi vào phòng
dọn dẹp và sắp xếp trở lại.
Nhờ
dùng mưu kế nên quản giáo và cảnh vệ đã tịch thu
toàn bộ sắt thép của tù nhân chất thành một đống to
tướng ở văn phòng. Ngay ngày hôm sau, những anh em đi lao
động bỏ công tìm kiếm và lén mang về những mảnh sắt
vụn để làm lại những con dao, những lò nấu; không bao
lâu sau, sinh hoạt trở lại bình thường.
*
*
*
Sau
một thời gian dài ngưng hoạt động, nhà máy điện ở
Long khánh chạy trở lại. Quản giáo ra lệnh cho anh em
đóng tiền mua bóng đèn và dây điện mắc quanh rào để
lính gác dễ phát hiện người trốn trại. Mỗi dãy nhà
cũng được gắn ba bóng đèn thắp sáng đến nửa đêm.
Từ
khi có ánh sáng ban đêm, dần dần hình thành những “câu
lạc bộ nước trà”. Một hai anh em lén đưa tiền nhờ
cảnh vệ ra chợ mua trà rồi hàng đêm nấu ấm nước
sôi trên lò nhỏ làm bằng tôn. Anh em nhâm nhi nước trà
và tâm tình với nhau đến lúc có kẻng báo giờ ngủ mới
giải tán. Tân và Định tham gia vào một câu lạc bộ ở
tổ kế bên.
Trong
lúc uống nước trà, anh em thường kể cho nhau nghe những
câu chuyện trong quá khứ, hầu hết là những kỷ niệm
về chiến tranh. Có những chuyện thực hào hùng trên
chiến trường ngập khói súng, có những chuyện thực
thương tâm trong những ngày tàn của chế độ mà anh em
từng phục vụ.
Trong
cái câu lạc bộ mà Tân và Định tham dự, có Tấn là
người ham kể chuyện nhất. Tấn là trung úy đại đội
trưởng của sư đoàn Năm Bộ binh. Trong những ngày miền
Nam sắp thất thủ, đại đội của anh được lệnh rút
về bảo vệ cho bộ tư lệnh sư đoàn ở Lai khê thuộc
tỉnh Bình dương.
Một
hôm, Tấn kể cho anh em nghe một chuyện rất thương tâm:
-
Vào cái ngày cuối cùng đó, đại đội của tôi ra sức
chận những cuộc tấn công biển người của cộng quân.
Trước mặt tôi, đã có hai chiếc xe tăng của chúng nó
bị bắn cháy. Cộng quân tạm thời rút lui vào một làng
gần đó. Tôi đoán chừng, chúng đang củng cố lực lượng
để tràn ngập tuyến phòng thủ nầy, đánh chiếm bộ tư
lệnh sư đoàn thì mới thẳng đường về thủ đô được.
Vì vậy tôi ra lệnh cho cả đại đội ở tại hố cá
nhân của mình và nếu không chận được địch thì phải
chết trong hố đó. Những ngày vừa qua, tin thất trận
khắp nơi dồn dập đưa về, nhưng anh em trong đại đội
tôi, từ sĩ quan đến binh sĩ đều thề chiến đấu đến
giọt máu cuối cùng. Thình lình thiếu úy Ái trong đại
đội tôi hét lên: “Trung úy ơi, tổng thống đầu hàng
rồi. Ông ra lệnh cho quân đội buông vũ khí. Trời ơi,
tức chết đi được. Tại sao lại đầu hàng? Tại sao
không hi sinh cho Tổ quốc đến giọt máu cuối cùng?”
Cậu ta mếu máo, một tay cầm súng, một tay cầm cái máy
thu thanh nhỏ phóng chạy về phía tôi trong khi trong làng,
Việt cộng bắt đầu thụt súng cối ra để chuẩn bị
tấn công. Tôi thét bảo thằng binh sĩ mang máy truyền tin
liên lạc gấp với cấp trên. Nó gọi liên tục một lúc
khá lâu. Lúc đó, súng nhỏ trong làng bắt đầu khai hỏa.
Thằng binh sĩ đưa ống nghe của máy truyền tin cho tôi,
bảo rằng cấp trên muốn liên lạc trực tiếp với tôi.
Tôi nghe giọng tiểu đoàn trưởng vừa nói vừa khóc, bảo
rằng đại tá tư lệnh vừa bắn vào đầu để tự sát.
Trước khi chết, đại tá bảo các sĩ quan có mặt ra lệnh
cho toàn thể sư đoàn bỏ vị trí nầy. Ai muốn đầu
hàng theo lệnh của Sài gòn thì buông súng, ai muốn về
miền Tây lập chiến khu chiến đấu thì cứ đi. Riêng
đại tá tư lệnh thì không thể đầu hàng, cũng không
thể chống lại lệnh của tổng thống vì theo hiến pháp
thì tổng thống là tổng tư lệnh tối cao của quân đội.
Vì vậy đại tá tự tử, sau khi đứng nghiêm để chào
lá quốc kỳ lần cuối cùng. Tôi vội vàng quay lại thông
báo với mọi người có mặt. Thiếu úy Ái nhảy lên và
gào một cách thảm thiết: “Trời ơi là trời! Đại tá
chết rồi sao? Tại sao lại tự tử? Tại sao lại đầu
hàng? Xương máu của biết bao chiến sĩ đã đổ ra để
bây giờ chúng ta đầu hàng sao? Trung úy, tôi đi trả thù
cho đại tá tư lệnh đây. Trung úy tìm cách nói với ba
má và anh chị tôi rằng hôm nay là ngày giỗ của tôi.”
Nói xong, thiếu úy Ái nhảy ra khỏi hố cá nhân phóng về
phía làng.
Tấn
ngừng nói, rót nước ra chén. Mọi người ngồi nghe rất
hồi hộp. Định khịt mũi rồi hỏi:
-
Thiếu úy đó có bị bắn chết không?
-
Chắc chắn là chết rồi nhưng tôi không thấy rõ. Lúc Ái
gào xong, tôi định cản cậu ấy lại nhưng không kịp.
Tôi chỉ thấy bóng dáng mảnh khảnh thư sinh của Ái chạy
ngoằn ngoèo để tránh đạn, hai tay ôm súng đưa về phía
trước. Tôi nhìn theo cho đến khi Ái khuất bóng sau một
gian nhà. Tôi quay lại. Cả trung đội vũ khí nặng của
Ái đều ôm mặt khóc ngất. Tôi ra lệnh cho xạ thủ đại
liên trong trung đội của Ái bắn lên cao tất cả ba thùng
đạn về phía làng để vĩnh biệt thiếu úy Ái rồi cho
anh em quăng súng, ai muốn đi đâu thì đi.
Tấn
đưa tay áo chặm vào mắt mình. Định hỏi:
-
Sau đó anh có tìm đến gia đình thiếu úy Ái để báo
tin theo lời trối trăng của anh ấy không?
-
Có, tôi biết địa chỉ của ba má Ái và có đến nhà ở
Tân định nhưng nhà bị niêm phong. Cả gia đình đã kịp
di tản một ngày trước khi miền Nam thất thủ. Tôi tự
hứa với lòng rằng, cho đến khi tôi tìm được ba má
hay anh chị của Ái để báo tin thì hàng năm, tôi vẫn
làm đám giỗ cho Ái vào cái ngày anh ấy tuẫn tiết.
Định
thở dài:
-
Anh làm đám giỗ vào ngày đó thì sẽ có rất nhiều anh
em mình về hưởng chứ không riêng gì thiếu úy Ái.
Tấn
nối lời một cách sôi nổi:
-
Phải rồi, anh Định nói đúng. Ngày đó có nhiều người
tuẫn tiết, cấp bậc nào cũng có, tư lệnh quân đoàn,
tư lệnh sư đoàn và rất nhiều sĩ quan khác nữa.
Tấn
nói tiếp với giọng ngậm ngùi:
-
Hơn nửa năm rồi mà thỉnh thoảng tôi vẫn nghe văng vẳng
lời nói của Ái: “Xương máu của biết bao nhiêu chiến
sĩ đã đổ ra để ngày nay chúng ta đầu hàng hay sao?”
Tất cả chúng ta đây đã đầu hàng, đều là những kẻ
hèn nhát đáng khinh. Cũng may, miền Nam nầy còn có những
người như thiếu úy Ái, như đại tá tư lệnh sư đoàn
Năm, vân vân, mà vong linh của hàng triệu anh hùng tử sĩ
dưới suối vàng cũng đỡ tủi được phần nào. Không
biết lịch sử có ghi nhận những cái chết oanh liệt và
bi thương đó hay không?
Định
lắc đầu, giọng chua chát:
-
Không đâu, lịch sử là của kẻ chiến thắng. Việt Nam
Cộng hòa đại bại rồi thì cũng sẽ biến mất luôn
trong lịch sử.
Buổi
uống nước trà chấm dứt với nỗi buồn thấm thía.
*
*
*
Anh
đại diện Hải chạy nhanh xuống các khối để báo tin
là anh em được viết lá thư đầu tiên gửi về nhà.
Trước khi viết thư, mọi người phải xuống hội trường
để nghe hướng dẫn nội dung được viết.
Mọi
người reo mừng và vội vàng xuống tập họp thành hàng
ngũ chỉnh tề trong hội trường. Quản giáo trưởng bước
lên bục thuyết trình. Sau vài lời ca tụng cách mạng rồi
chửi rủa chế độ cũ đúng với thông lệ, ông ta phổ
biến một số qui định nghiêm nhặt cần phải tuân thủ
khi viết thư. Đại khái, thư phải thực ngắn, phải ca
tụng cách mạng, ai có gần chết cũng nói mình khỏe
mạnh, có buồn rầu thúi ruột cũng phải nói mình vui vẻ
phấn khởi. Và cuối cùng khuyên nhủ gia đình chấp hành
tốt mọi chủ trương đường lối của cách mạng. Quản
giáo trưởng cũng cho biết số “hòm thư”, tức là địa
chỉ, và mỗi gia đình được phép gửi một lá thư phúc
đáp.
Mọi
người trở về phòng và cắm cúi viết thư. Viết xong,
người nầy đưa cho người kia đọc để góp ý xem có vi
phạm qui định hay không. Có tổ còn tập họp thành vòng
tròn, nghe từng người đọc lá thư của mình gửi cho vợ
để mọi người thẩm định theo đúng với lập trường
cách mạng! Nhìn thấy cảnh nầy, Định than thở với
Tân:
-
Anh em mình đang sống theo mẫu mực của chủ nghĩa xã
hội, nghĩa là sống hoàn toàn với tập thể, không còn
chỗ nào là riêng tư nữa. Con người rồi sẽ trở thành
một bầy thú vật, hành động đồng loạt theo lệnh của
người chăn thú.
Hơn
mười ngày sau khi thư được kiểm duyệt và gửi đi thì
những lá thư hồi âm bắt đầu đến trại. Lúc anh Hải
đưa xuống ba lá thư đầu tiên để phát cho ba người
may mắn nhất thì cả dãy phòng đều nhốn nháo. Kể từ
hôm nó, ngày hai lần, anh đại diện mang thư xuống phát
và ngày hai lần, tiếng reo vui vang dậy khắp các dãy nhà.
Tất cả các bao thư đều bị cắt sẵn do bị kiểm
duyệt. Khi một người được thư thì cả tổ xúm lại
hỏi thăm tin tức bên ngoài.
Trong
tổ mình, Tân nhận được thư trước tiên. Nhìn nét chữ
mềm mại của Thùy Liên ngoài bao thư, Tân vô cùng xúc
động. Lá thư thực ngắn ngủi và khô khan. Tân còn nhớ
trước đây, thư của Thùy Liên bao giờ cũng dài và rất
hay, có lần Tân gọi đó là những bức thư tình tuyệt
tác. Bây giờ lá thư như một đống sỏi khô khan mặc dù
Tân biết rằng trong gần một năm xa cách Thùy Liên có
hàng ngàn điều tha thiết, hàng vạn nỗi nhớ nhung để
nói với chồng.
Sau
khi đọc xong lá thư, thấy cả tổ hỏi thăm, Tân nói:
-
Bên ngoài cũng được học tập kỹ như chúng ta trong nầy
vậy. Đây, thư của vợ tôi, các anh cứ đọc. Trong chủ
nghĩa xã hội, có lẽ những lá thư không có gì khác
nhau.
Thư
về mỗi ngày một nhiều hơn. Năm ngày qua, cả tổ của
Tân đều nhận được thư gia đình ngoại trừ tổ trưởng
mà thôi. Anh em đều ngạc nhiên còn Định thì tỏ ra hết
sức lo lắng. Anh tâm sự với Tân:
-
Tôi để ý thấy các anh em có gia đình ở Sài gòn đều
nhận được thư trong hai ngày đầu. Ba ngày sau, hầu hết
là thư ở các tỉnh xa gửi đến. Vợ con tôi ở Sài gòn,
tại sao giờ nầy, tôi chưa nhận được thư? Không lẽ
vợ con tôi đã trốn đi ngoại quốc rồi sao? Không, khi
tôi chia tay để đi trình diện học tập thì vợ tôi
không hề tỏ ra ý đó.
Định
hạ thấp giọng như nói với chính mình:
-
Biết đâu cô ta đã quyết định như thế. Gần một năm
rồi, xã hội bên ngoài bị cuốn hút trong một cơn cuồng
phong làm thay đổi tất cả thì tâm tính con người cũng
có thể bị lung lay tận gốc. Môi trường sống chắc
chắn ảnh hưởng mãnh liệt đến sự suy tư của mỗi
người.
Tân
nghe bạn nói thì chỉ biết im lặng chứ biết nói gì với
con người trí thức nầy.
Bỗng
Định ngẩng lên, mắt lóe ra chút hi vọng. Từ xa, có
bóng đại diện Hải bươn bả đi xuống. Tân nhìn kỹ,
trong tay anh ta không có phong thư nào cả. Anh dừng trước
phòng la to:
-
Phan văn Định, lên văn phòng trình diện quản giáo.
Định
đứng phắt dậy, giọng thảng thốt:
-
Chuyện gì vậy?
-
Không biết. Quản giáo gọi anh trình diện ngay.
-
Có mang theo áo quần không?
-
Không, nếu cần thì về lấy sau cũng được.
Tân
lo lắng cho bạn nên hỏi đại diện:
-
Anh Hải có đoán được việc lành hay dữ không?
Hải
nhíu mày:
-
Đoán sao nổi. Mấy cha đó mặt lúc nào cũng lạnh như
tiền, không khi nào biểu lộ chút tình cảm thì làm sao
biết được. Bộ đội ngoài Bắc vào ai cũng thế. Có
lẽ, sống một thời gian trong chủ nghĩa xã hội, con
người không còn tình cảm nữa. Thôi, anh Định nhanh lên,
quản giáo đợi anh trên đó.
Định
mặc vội quần áo và đi ngay.
Đây
là lần đầu tiên có người bị quản giáo gọi đích
danh lên văn phòng. Vì vậy tất cả anh em trong tổ và
nhiều người khác tổ xúm lại bàn tán sôi nổi. Mỗi
người đưa ra một giả thuyết để giải thích lý do.
Các lời đoán lành có dữ có và ai cũng trông ngóng Định
trở về.
Độ
nửa giờ sau, Định xuất hiện ở đầu dãy nhà làm văn
phòng và thong thả đi về, nét mặt có vẻ thản nhiên.
Nhiều người lên tiếng hỏi, nhưng Định không trả lời
ngay mà cười chúm chím đi vào nhà, thủng thẳng cởi
quần áo bên ngoài ra, chỉ còn mặc một quần ngắn mà
thôi.
Tân
nổi cáu, gắt:
-
Chuyện bí mật lắm hay sao mà kín miệng vậy?
-
Có gì đâu mà kín miệng. Chuyện rất ngộ nghĩnh và lạ
lùng nên tôi muốn kể tỉ mỉ cho các anh nghe. Phải cởi
áo quần cho thoải mái thì kể mới lý thú.
Định
ngồi vào sạp gỗ, cả tổ bu chung quanh. Anh bắt đầu:
-
Tôi lên văn phòng thì anh quản giáo trưởng bảo tôi ngồi
vào ghế trước bàn làm việc của anh ấy rồi vào đề
ngay: “Chúng tôi đã cho anh học mấy khóa chính trị rồi
và yêu cầu anh khai báo thành thực, tại sao anh còn giấu
giếm?” Nghe xong, tôi quá ngạc nhiên, không biết ông nầy
muốn nói điều gì đây. Quả tình tôi hơi sợ vì nghĩ
rằng ở ngoài đời có thể có đứa nào đó thù ghét
mình mà đi vu cáo. Lập tức tôi xét lại những người
mà mình đã quen biết, nhưng không thể nghi ngờ ai cả.
Tôi là thằng thầy giáo chỉ làm nghề dạy học thôi thì
đâu có gây thù chuốc oán với ai. Mặc dầu lo sợ, tôi
cố giữ vẻ bình tĩnh để trả lời: “Không, thưa anh,
tôi không có ý giấu giếm điều gì với cách mạng cả.
Trong các bản lý lịch và tự khai mà tôi đã làm, tất
cả bạn bè, bà con xa gần, tôi đã kể ra tất cả, tài
sản của gia đình, tiền lương hàng tháng, nhẫn cưới
và đồng hồ đeo tay của hai vợ chồng tôi đều đã
khai tất cả, không sót một thứ gì”.
Trí
cười sằng sặc:
-
Đúng rồi, chúng ta đã khai tất cả, chỉ trừ việc ban
đêm ngủ với vợ thế nào là chưa khai ra thôi.
Tân
cự nự:
-
Thôi đừng nói bậy nữa. Để anh Định kể tiếp nào.
Định
gật đầu:
-
Vâng tôi xin kể tiếp câu chuyện. Tôi vừa nói xong thì
anh quản giáo gằn giọng: “Không, tôi không nói những
thứ đó. Tôi bảo anh giấu giếm chúng tôi thứ quan trọng
hơn. Anh vẫn còn ngoan cố”. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy
tức giận nên hóa liều. Tôi hơi to tiếng: “Tôi xin long
trọng lấy danh dự xác nhận với anh một lần nữa là
tôi không ngoan cố giấu giếm điều gì cả. Có lẽ có
ai đó thù oán vu cáo cho tôi. Nếu đúng như thế thì anh
không nên kết tội tôi vội vàng mà phải về địa
phương tôi ở mà thẩm tra lại cho chính xác. Tôi tuy là
sĩ quan nhưng đã được biệt phái về dạy học nhiều
năm rồi thì tôi chẳng có gì để phải giấu giếm các
anh. Nhất định tôi đã bị vu cáo. Xin anh hãy cho tôi
biết kẻ nào đã tố cáo tôi và cho tôi đối chất với
người đó”. Ông quản giáo tiếp tục gằn giọng: “Anh
muốn biết người tố cáo phải không? Được rồi, tôi
cho anh biết. Nhưng người đó không tố cáo anh mà không
biết vô tình hay cố ý tiết lộ điều anh muốn giấu
giếm mà thôi. Người đó chính là vợ anh! Chị ta tưởng
có thể qua được đôi mắt tinh tường của cách mạng!”
Anh
em đang ngồi nghe, buộc miệng thốt lên:
-
Trời đất!
Định
nói tiếp:
-
Lúc đó tôi bủn rủn tay chân, ú ớ một lúc mới nói ra
được câu hỏi vô duyên: “Thực vậy sao?” Anh quản
giáo độp lại liền: “Sao lại không thực. Anh cho rằng
tôi nói dối anh à? Tôi có bằng chứng hẳn hòi!”. Tôi
cúi đầu, hơi thở dồn dập. Tôi cảm thấy rất mệt
nhọc. Vợ tôi vu khống tôi thực sao? Nàng đã phản bội
tôi một cách khủng khiếp như thế sao? Nàng muốn tôi
vĩnh viễn bị giam cầm hay bị xử tử trong tù hay sao? Ừ
nhỉ, bây giờ, mình làm thân kẻ chiến bại. Ngoài đời
hiện nay có biết bao nhiêu người từ ngoài Bắc vào, từ
trong rừng ra với danh hiệu rất vẻ vang là “anh hùng
giải phóng”! Nhưng còn thằng Đạt, con trai tôi, kết
quả của tình yêu nồng thắm giữa nàng và tôi, cục
vàng cục ngọc của vợ chồng chúng tôi? Năm nay, cục
vàng cục ngọc đó vừa được ba tuổi. Nàng phản bội
tôi để đi theo một vị “anh hùng giải phóng” và có
dẫn nó đi theo không hay là quăng nó ở đầu đường xó
chợ nào rồi? Tôi đau buồn quá và muốn chết đi ngay
tức thì. Có lẽ, với gương mặt bí xị, tôi rất giống
với một tên tội đồ đang hối hận nên ông quản giáo
nói với giọng ôn tồn: “Anh nên biết rằng cách mạng
và đảng ta thì cực kỳ độ lượng. Có tội chết mà
thành thực hối lỗi thì cũng được khoan hồng. Anh đã
học chính trị rồi và phải hiểu điều đó. Thôi, hãy
thành thực khai báo đi”. Tôi ngẩng lên hỏi: “Anh bảo
tôi khai cái gì?” Ông quản giáo giữ giọng ôn tồn:
“Khai về cái hầm bí mật chứa vũ khí hay chứa tài
liệu gì đó trong nhà anh”. Hầm bí mật? Tôi như người
bị quăng từ trên mây xuống đất. Tôi cố gắng bình
tĩnh để nhận định việc gì đã và đang xảy ra. Hầm
bí mật trong nhà? Không, nhất định vợ tôi không dại
gì vu cáo tôi như thế. Nàng là người có học, đã tốt
nghiệp đại học sư phạm thì nàng phải hiểu rằng vu
cáo tôi một cách cụ thể như thế thì lập tức người
ta sẽ đến nhà tôi và biết ngay đó là một điều láo
khoét. Không, nhất định vợ tôi không làm chuyện quá
ngu ngốc như thế. Tôi thấy mình bình tĩnh và tự tin hẳn
ra. Tôi ngồi thẳng dậy, nói to với một giọng cương
quyết: “Thưa anh, vợ tôi không bao giờ vu cáo cho tôi
như thế. Tôi không tin có chuyện nầy”. Ông quản giáo
hơi giật mình, mặt có sắc giận nên xẵng giọng: “Anh
không tin à? Anh cho rằng tôi nói dối anh à. Đây, anh xem
chữ của ai đây?”. Ông quản giáo kéo hộc bàn ra, cầm
một phong thư đưa lên. Một lần nữa, tôi lại bủn rủn
tay chân. Trời ơi! Nét chữ mềm mại và thân yêu của
chính vợ tôi. Chữ thực đẹp và hơi cầu kỳ với nhiều
đường cong kéo dài đặc biệt là chữ “Đ” ở đầu
tên tôi thì bao giờ nàng cũng viết thực nắn nót với
nét chữ uốn lượn, tôi nhìn thoáng qua là nhận ra ngay.
Ông quản giáo hạ phong thư xuống, hỏi tôi: “Nhận ra
chữ của ai chưa?” Tôi cố nín hơi để trả lời:
“Vâng, đúng chữ của vợ tôi, nhưng ai đã nhét cái gì
vào trong phong thư đó?” Ông quản giáo cười gằn:
“Trong đó chỉ có một lá thư của vợ anh thôi. Đây,
tôi cho anh xem lá thư nầy thì anh mới chịu thành thực
khai báo”. Ông ấy quăng phong thư cho tôi. Tôi móc ngay tờ
giấy bên trong ra đọc ngấu nghiến. Đây, lá thư thế
nầy đây, tôi đọc để các anh nghe cho vui.
Định
đứng dậy, đến chỗ treo áo trên vách, móc ra một lá
thư, trở về chỗ ngồi và đọc to:
-
Sài gòn ngày….Thôi,
đoạn đầu bỏ qua vì vợ tôi cho hay hai mẹ con đều
khỏe mạnh, sau đó là những lời ca tụng cách mạng,
nghe mãi đến phát ngấy rồi. Đây, chỗ nầy, anh em nghe
được. “Anh ạ,
Anh có nhớ chú Bảo không? Đó là chú họ của em, trước
là trung sĩ đóng ở Bình dương, bây giờ về thuê nhà
gần nơi ở của chúng mình. Em và chú Bảo tìm mãi mà
không thấy cái nắp hầm cầu. Nếu có mặt ở nhà, anh
biết ngay cái nắp ở chỗ nào thì những thứ cất kỹ
dưới đó được giải quyết ngay. Cuối cùng phải đục
thủng tấm đậy và ban đêm, đợi thiên hạ ngủ hết
mới có thể thủ tiêu mấy thứ cất kỹ bấy lâu nay
xuống ống cống. Bây giờ khỏe rồi, không phải lo lắng
khổ sở nữa.”
Định
ngừng đọc, xếp lá thư lại và cười to:
-
Mọi thứ rắc rối là ở cái hầm cầu không tìm được
nắp và những thứ cất kỹ dưới đó. Vợ tôi có tính
hay bông đùa, người trí thức nào mà chẳng có tính đó.
Nếu nàng nói thẳng tên những thứ dưới hầm thì tôi
đâu có bị quản giáo trưởng hành hạ suốt hơn nửa
giờ.
Tân
cũng cười theo:
-
Sau khi đọc thư xong, anh giải thích cho quản giáo hiểu
và được cho về với lá thư oan nghiệt nầy phải không?
Định
gật đầu:
-
Đúng vậy. Tôi cố giải thích cho anh ấy hiểu nhưng cũng
không dễ dàng lắm đâu. Anh ta không thể hình dung được
là cầu tiêu lại làm ngay trong bếp của mỗi nhà.
Quát
buộc miệng:
-
Trời hỡi! Ở miền Bắc không có cầu tiêu tự hoại à?
Anh ấy là thượng úy, một sĩ quan thuộc về loại khá
mà không biết loại cầu nầy hay sao?
-
Ông ấy không hề biết, thực là lạ lùng và khó tin. Nếu
không phải là chuyện của tôi thì tôi cũng không thể
tin được. Ông ấy giảng giải rằng ở quê Nghệ an của
ông ta chỉ có “hố xí hai ngăn” để lấy phân bón
ruộng. Đi đâu rồi cũng rán về nhà mà đi tiêu để
khỏi phải phí mất cục phân. Bọn tư sản miền Nam...
Quát
ngắt lời:
-
Đó là ở Nghệ an. Còn ở những thành phố lớn, các nhà
không trồng trọt thì sao, nhà cầu thế nào?
Định
trả lời:
-
Ở thành phố thì có những cầu tiêu công cộng, phân
được hứng trong các thùng và mỗi ngày có người đến
đổ và chở ra ngoại ô để bón ruộng.
Quát
vỗ tay:
-
Đúng rồi, có lần tôi nghe những người lớn tuổi nói
ở Sài gòn trước kia cũng có loại cầu tiêu nầy, những
đó là thời xưa lúc dân chúng còn rất lạc hậu. Bây
giờ, tuy bị chiến tranh triền miên mà miền Nam cũng đã
bỏ quá xa cái thời lạc hậu đó rồi. Thế mà miền Bắc
với mấy chục năm hòa bình và xây dựng chủ nghĩa xã
hội mà trình độ xã hội vẫn dậm chân tại chỗ hay
sao?
Trí,
tự nãy giờ im lặng, bây giờ mới chen vào:
-
Không phải dậm chân tại chỗ mà còn đi thụt lùi nữa.
Định
trừng mắt:
-
Thôi đi, các cha hãy giữ mồm giữ miệng một chút.
Trí
cãi lại:
-
Mình nói lên sự thực cho nhau biết chứ đâu có bày đặt
chuyện để đã kích ai đâu. Ở đây chúng mình với
nhau, lại đều là người có học, không lẽ chịu để
cho sự thực bị bóp méo hay sao? Xã hội văn minh lại bị
xã hội lạc hậu đánh bại. Nghĩ cũng phi lý và đau đớn.
Tức thật!
Tân
ngắt lời:
-
Đừng có tức, trong lịch sử nhân loại, chuyện nầy
cũng đã xảy ra nhiều lần rồi. Dân tộc văn minh bị
người lạc hậu đánh bại rồi cai trị là chuyện
thường. Thí dụ, trong lịch sử Trung hoa, nhà Tống và
nhà Minh là hai triều đại văn minh lại bị rợ Mông cổ
và rợ Mãn châu từ miền Bắc đánh bại và người Hán
đành chịu làm nô lệ trong mấy trăm năm.
Định
góp lời:
-
Hay hay, ông giáo sư sử địa mang cả lịch sử của Trung
hoa ra để dẫn chứng cho sự kết thúc chiến tranh Việt
Nam. Nhà Nguyên của Mông cổ và nhà Thanh của Mãn châu,
sau đó cũng bị Hán tộc đồng hoá, cởi bỏ lớp áo lạc
hậu để khoát vào lớp áo văn minh của Hán tộc. Tôi hi
vọng điều đó có thể lặp lại với đất nước của
chúng ta hiện nay.
Quát nói:
-
Nghĩa là miền Bắc sẽ bớt lạc hậu khi sống chung với
xã hội miền Nam. Nếu thế thì công cuộc gọi là giải
phóng nầy cũng có chỗ đáng gọi là có ích.
Trí
ngắt lời:
-
Được như vậy là may. Tôi sợ miền Nam bị lôi tuột
xuống ngang hàng với miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì
thực là khốn nạn cho cả hai miền.
Định
khoát tay, nói to:
-
Thôi, chuyện của ngày mai thì hôm nay làm sao biết được.
Tốt hơn hết là nên hình dung tương lai bằng cặp mắt
lạc quan. Cứ nghĩ toàn chuyện đen tối sắp tới thì chỉ
làm khổ cho những cái đầu nhạy cảm của chúng ta mà
thôi, chứ có ích lợi gì đâu.
Sau
câu nói rất hữu lý đó của tổ trưởng, anh em không
bàn cãi nữa.
*
*
*
Việc
đập phá khu gia binh kế cận diễn ra trong vòng hai tháng
liên tiếp thì hoàn tất. Cái hôm đứng nhìn căn nhà cuối
cùng bị đập cho sụm xuống, Định buồn bã nói với
Tân:
-
Chiến tranh đã phá nát biết bao nhiêu thứ của miền Nam
rồi. Tưởng rằng một khi đã im tiếng súng thì người
ta lập tức bắt tay vào để xây dựng. Ai ngờ hòa bình
rồi mà người ta cho lệnh đập phá như thế nầy. Chiến
tranh đã làm cho cả hai miền Nam Bắc của chúng ta kiệt
quệ. Hiện nay, biết bao nhiêu người không nhà không cửa
trong khi hàng ngày chúng ta được lệnh đập phá những
căn nhà quí giá nầy. Nếu không cấp cho dân thì cứ giữ
lại để làm các trại chăn nuôi, sản xuất lương thực
thì có lợi biết bao. Không biết những ông lãnh tụ miền
Bắc muốn gì sau khi chiếm được miền Nam của chúng ta.
-
Anh Trí nói với tôi rằng sư đoàn Mười tám nầy có đến
hai mươi khu gia binh và biết bao nhiêu là nhà cửa của bộ
tư lệnh sư đoàn. Có lẽ hầu hết đã bị đập phá như
khu trước mặt mình đây. Tôi nghĩ rằng việc đập phá
không phải chỉ riêng ở đây. Từ ngày miền Nam được
“giải phóng” cho đến nay, người ta đã cho lệnh đập
phá không biết bao nhiêu thứ trên đất nước nầy. Thực
đáng tiếc, thực đáng tiếc cho miền Nam thân yêu của
chúng ta.
Sau
câu nói đó, hai anh ra tập họp để điểm danh và về
trại.
Những
ngày sau đó anh em ở tại trại vì không còn nhà để đập
phá nữa.
Có
lẽ sợ anh em ở không lâu ngày sẽ sinh biến nên các
quản giáo nặn óc ra tìm việc cho anh em làm lao động.
Bên trong trại thì chẳng có việc gì để làm vì khu đất
quá nhỏ đối với cả ngàn người sống trong đó. Cần
phải cho anh em thay nhau, mỗi ngày có một số ra ngoài làm
việc. Trong nhiều ngày, quản giáo dẫn anh em đi phá phi
đạo ở sân bay của tỉnh, gỡ những tấm vĩ sắt mang
về chất đống và bán cho dân. Công việc thường kéo
dài suốt ngày, buổi sáng mang cơm đi, buổi chiều cứ
hai người vác về trại một tấm vĩ sắt.
Một
buổi chiều, sau một ngày làm việc mệt nhọc, Định rủ
Tân đi dạo chơi bên ngoài. Hai người ngồi ở khu vườn
rau, gió chiều mát mẻ nhưng có mùi khăm khắm của phân
tươi. Không sao, mũi của anh em đã quá quen với mùi đó
rồi.
Định
gợi chuyện:
-
Hôm nay tôi được phân công làm việc chung với bác sĩ
Hiền ở khối Một. Anh biết bác sĩ đó không?
-
Biết chứ, ông ấy là thiếu tá quân y được biệt phái
về làm giám đốc một bệnh viện dân sự. Nghe anh em
khen ông ta giỏi lắm.
Định
gật đầu:
-
Đúng, anh ấy là một bác sĩ tài ba. Trong trại mình có
gần ba mươi bác sĩ quân y thế mà ở khối Một có ai
bệnh nặng lại phải gọi anh ấy đến. Tất cả bác sĩ
đây đều phục tài định bệnh của anh Hiền. Tuy nhiên,
định được bệnh mà không có thuốc trị thì cũng đành
chịu.
-
À, có điều tôi thắc mắc là tại sao đây là trại tập
trung giam giữ sĩ quan cấp úy mà ông ấy là thiếu tá lại
vào đây ở chung với chúng mình. Cấp tá đã trình diện
trước và bị đưa đi đâu cả rồi mà.
-
Đúng rồi. Hôm nay, tôi có hỏi điều đó. Buổi sáng, ra
tới phi trường, quản giáo ra lệnh cho tôi và anh ấy gỡ
tấm vỉ sắt nằm ngoài cùng trong vòng hơn một giờ là
xong nên hai anh em chúng tôi ngồi chơi trong bóng mát nói
chuyện đến xế chiều mới về. Anh Hiền giải thích với
tôi thế nầy. Khi cộng quân tiến vào Sài gòn, anh ấy
vẫn ở trong bệnh viện. Anh ta là giám đốc nhưng lúc đó
đến tận giường để săn sóc bệnh nhân vì hầu hết y
tá và bác sĩ đã bỏ nhiệm sở để về với gia đình
hoặc trốn đi ngoại quốc rồi. Lúc đó người ta chở
vào một số thương binh mặc quân phục bộ đội cộng
sản. Hiền đưa ngay lên phòng mổ rồi đích thân giải
phẫu và băng bó vết thương. Nhiều người được Hiền
cứu sống. Rồi người ta tiếp thu bệnh viện và Hiền
tiếp tục làm việc. Khi nghe ủy ban quân quản ra lệnh
cho tướng lãnh và sĩ quan cấp tá trình diện học tập
thì Hiền vui vẻ từ giã mọi người nhưng ban tiếp quản
giữ lại vì công việc quá sức bừa bộn, máy móc của
bệnh viện lại quá tối tân, mấy ông bác sĩ quân y của
Việt cộng chỉ đứng nhìn thôi. Nhưng mấy ông nầy lại
không chịu nhận cái dốt của mình lại buông ra những
lời nói hỗn xược, mạ lỵ ngành y miền Nam nên Hiền
nản chí và quyết định trốn khỏi bệnh viện để đi
trình diện học tập. Lúc đó, thời hạn trình diện cho
sĩ quan cấp tá hết từ nhiều ngày rồi và bắt đầu
thời hạn cho cấp úy. Hiền khai mình là đại úy để
vào điểm tiếp nhận. Cho đến khi lên đây, Hiền mới
khai thực mình là thiếu tá quân y.
-
Thế tại sao không bị trừng phạt hoặc chuyển đến nơi
giam giữ cấp tá.
Định
lắc đầu:
-
Không phạt đâu vì anh ấy có cái gốc cách mạng to lắm,
đáng lẽ được trả tự do lâu rồi những anh ấy không
chịu về.
-
Lạ nhỉ.
-
Ừ chuyện có thực mà ly kỳ y như tiểu thuyết vậy. Ba
của Hiền là đại tá quân đội cộng sản.
Tân
ngạc nhiên:
-
Trời đất! Anh nói sao?
-
Ba của Hiền là đại tá trong đoàn quân Việt cộng tiến
vào Sài gòn trong những ngày đầu.
-
Thế thì may cho anh ấy rồi.
-
Không, Hiền đã từ chối cái may đó.
-
Tại sao kỳ lạ vậy?
-
Đúng là kỳ lạ. Để tôi nói xa một chút về quá khứ
thì anh mới rõ. Hiền kể với tôi rằng quê anh ấy ở
một tỉnh ở miền Tây. Ba Hiền theo cách mạng từ năm
1945. Lúc đó Hiền mới được năm tuổi. Tới năm 1954,
ba của Hiền đi tập kết thẳng ra Bắc còn Hiền về
sống với mẹ ở Sài gòn và đi học. Hiền không có chút
kỷ niệm nào về cha mình và không còn nhớ mặt ông ấy
nữa. Suốt mấy chục năm thơ ấu và trưởng thành, Hiền
luôn luôn bảo với mọi người rằng mình không có cha.
Làm hồ sơ lý lịch, Hiền đều khai cha là vô danh. Hiền
chịu ảnh hưởng của mẹ và ông ngoại nên rất ghét
cộng sản. Anh ấy rất thông minh, tốt nghiệp y khoa với
hạng rất cao và bị gọi vào quân y rồi sau đó biệt
phái về bộ Y tế.
-
Làm sao, cái ông đại tá Việt cộng đó biết con mình
nằm trong trại cải tạo?
-
Chính Hiền cũng không biết tại sao? Anh đoán rằng ông
ấy đã về quê hỏi thăm và tìm ra mẹ Hiền ở Sài gòn.
Sau đó, nhờ ủy ban quân quản dò trong danh sách tù cải
tạo là ra ngay. Ông ấy đã đến tận đây tìm. Quản
giáo đích thân xuống trại gọi Hiền lên văn phòng gặp
cha là đại tá quân giải phóng. Quản giáo sửng sốt khi
nghe Hiền bảo rằng mình không có cha; trong các bản lý
lịch trước và sau ngày “giải phóng”, Hiền đều khai
cha là vô danh và Hiền giữ nguyên lời khai đó; trên đời
nầy, không có người đàn ông nào là cha của Hiền cả.
Hiền nhất định không lên gặp ông đại tá đó nên ông
ta phải về. Vài ngày sau, ông ấy lên nữa nhưng, cũng
như lần trưóc Hiền nhất định từ chối gặp mặt.
-
Tại sao, ông đại tá không theo quản giáo xuống trại để
gặp mặt con?
-
Có thể ông ta tự ái hoặc muốn giữ thể diện trước
mặt quản giáo vì ông ấy là đại tá còn quản giáo cao
nhất chỉ là thượng úy mà thôi. Cũng có thể nội qui
của trại không cho phép bất cứ ai xuống gặp tù nhân
tại trại.
-
Anh ta hành động có vẻ gàn dở nhỉ.
-
Gàn dở hay khí khái? Gàn dở hay tự trọng? Gàn dở hay
quá yêu nước? Khó mà định cho thực chính xác được.
Nhưng nghe cái giọng kể bùi ngùi, nét buồn mênh mông
trên khuôn mặt cực kỳ thông minh thì tôi cho đó không
phải là người gàn dở.
Tân
thở dài:
-
Trong cái mùa “giải phóng” nầy, có quá nhiều chuyện
buồn anh nhỉ?
Định
lẳng lặng gật đầu.
*
*
*
Thấm
thoát đã được một năm tròn kể từ khi đến đây. Mọi
người đều cam chịu thân phận của mình. Nỗi uất hận
của kẻ chiến bại dần dần phai nhạt, nỗi thương nhớ
gia đình cũng bớt nung nấu tâm can. Với cuộc sống đầy
vẻ thờ ơ nầy, không có sự vi phạm nào đáng kể đối
với nội qui của trại.
Một
buổi sáng, anh em được lệnh tập họp lên hội trường.
Quản giáo trưởng bước lên bục thuyết trình và thay
cho những lời chửi rủa quen thuộc thì ông lại tỏ lời
khen ngợi anh em. Mọi người đều ngạc nhiên nhưng chẳng
ai thấy hân hoan hay vui thích tí nào.
Sau
một hồi ca tụng chính sách khoan hồng độ lượng của
đảng và nhà nước, ông công bố quyết định của cấp
trên cho phép gia đình đến thăm anh em tại trại. Lập
tức bùng nổ tiếng reo hò mừng rỡ, từ lâu lắm rồi
không có trong trại.
Quản
giáo trưởng khoát tay ra lệnh cho anh em im lặng rồi đọc
lên những điều qui định cho mọi người biết để gủi
thư về nhà. Cuộc thăm viếng sẽ bắt đầu đúng hai
tuần lễ nữa và diễn ra trong vòng bốn ngày liên tiếp.
Từ đây đến đó, anh em phải làm cho xong một cái nhà ở
ngoài cổng, trong đó anh em sẽ ngồi mà nói chuyện với
thân nhân của mình.
Từ
hội trường về, anh em cắm cúi viết thư. Các kỹ sư và
kiến trúc sư lại được phân công làm cái nhà thăm nuôi
trong thời hạn là hai tuần, nhưng chỉ mới hai ngày là
xong. Sau đó anh em tận dụng mọi thứ có trong trại để
trang hoàng cái nơi mà mình sẽ được ngồi nói chuyện
với người thân.
Hai
tuần lễ chờ đợi chậm chạp trôi qua. Những thân nhân
đến trong ngày đầu tiên hầu hết là những người đang
sinh sống trong khoảng từ Long khánh đến Sài gòn, trong
đó có gia đình của Định và Tân.
Từ
sáng sớm, Tân đã mặc bộ áo quần mà anh đã giặt sạch
từ mấy ngày trước rồi xếp lại cho vào dưới cái bao
dùng làm gối. Đó là bộ áo quần còn sót lại trong hai
bộ mang theo. Bộ kia đã vứt bỏ từ lâu, bộ nầy thì
còn dùng được nhưng đã rách lỗ chỗ nhiều nơi. Tuy
vậy, mặc áo quần vào, lấy tay vuốt dọc theo thân áo
và hai ống quần, Tân cảm thấy bỗng nhiên mình sang
trọng hẳn lên. Nguồn vui biến mất cả năm trời rồi,
nay trở về làm cho Tân thấy lòng phơi phới.
Vừa
nghe tiếng gọi tên mình trên loa, Tân vọt ra khỏi phòng
và chạy ra cổng. Phòng thăm nuôi đã có khá đông người
ngồi chờ. Anh đứng sững lại. Thùy Liên, Thùy Dung và
Hòa bình bằng xương, bằng thịt trước mặt chứ không
phải là những hình bóng mờ mờ ảo ảo trong những giấc
mơ của suốt hơn một năm rồi.
Thùy
Liên cũng đứng im nhìn chồng sững sờ, trong khi hai đứa
bé nhào tới ôm cứng hai chân của cha.
Tân
cúi xuống nâng cả hai đứa lên, hôn lấy hôn để vào
hai khuôn mặt ốm và xanh xao.
-
Anh Tân!
Nghe
tiếng gọi của vợ, Tân đặt hai đứa trẻ xuống đất,
bước lên một bước. Thùy Liên, đưa cả hai tay ra. Tân
nắm lấy hai bàn tay mềm mại và nhìn sững khuôn mặt
tiều tụy của nàng. Từ khóe mắt của Thùy Liên, hai
giọt nước to lóng lánh trào ra, lăn dài xuống đôi má.
Nàng nghẹn ngào:
-
Anh Tân, anh có khỏe không?
-
Anh vẫn khỏe như trước kia vậy.
-
Không, anh nói dối em. Trông anh không khỏe đâu.
Nàng
đưa bàn tay vuốt nhẹ dài theo cánh tay của chồng, giọng
vẫn đầy nước mắt:
-
Anh ốm lắm. Áo anh rách cả rồi. Em đáng trách lắm phải
không anh? Khi anh đi, em không chuẩn bị đầy đủ cho anh
nên anh phải chịu thiếu thốn hơn một năm rồi.
Tân
an ủi vợ:
-
Không, em không đáng trách tí nào đâu. Lúc đó mình cứ
nghĩ là chỉ đi học mười ngày thôi mà.
Thùy
Liên thút thít:
-
Em nhớ, lúc đó hết mười ngày rồi mà anh chưa về, mẹ
con em gần như điên cuồng, em chạy khắp nơi để hỏi
thăm nhưng chẳng được giải đáp gì cả. Đúng là những
ngày….
Nàng
giật mình ngừng nói vì một tiếng thét to:
-
Nầy hai anh chị kia, nghe bảo nầy!
Tân
quay lui. Một chú cảnh vệ, trông còn trong tuổi vị thành
niên, vai mang súng AK, đứng dạn chân, mắt trợn trừng,
miệng hét to với giọng miền ngoài nặng chình chịch
nghe thực khó chịu:
-
Mấy người không biết nội qui thăm nuôi sao? Vào rồi
thì phải tìm ngay chỗ ngồi để nói chuyện chứ không
được đứng nghênh ngang giữa phòng cản trở người
khác. Muốn tớ đuổi ra hay không đấy?
Nói
xong, chú cảnh vệ quay ra cổng với dáng điệu cố tình
ra vẻ là người có quyền. Tân nắm lấy tay hai con cùng
vợ đi về cuối phòng và ngồi trên một băng dài đã
được anh em đóng một cách thô sơ nhưng chắc chắn.
Tân
hậm hực:
-
Giọng nói xấc xược và thái độ ngạo mạn của thằng
cảnh vệ oắt con thực là đáng ghét. Ở đây, tụi nó
đều như vậy cả. Thường ngày anh chẳng thèm để ý,
hôm nay thấy nó hỗn hào với em, anh muốn nện cho nó một
trận cho hả giận.
Thùy
Liên bóp chặt tay chồng:
-
Đừng anh ạ, phải cố nhịn đi. Bên ngoài, em và mọi
người cũng phải chịu đựng như các anh trong nầy vậy
thôi. Họ đã phải chịu khổ, chịu chết quá nhiều rồi
mới được chiến thắng. Họ hống hách, ngạo mạn thì
cũng là điều bình thường.
Thùy
Liên thấy chồng im lặng, mặt chưa hết sắc giận nên
thỏ thẻ:
-
Anh Tân, anh là ông thầy giáo đã quen sống với những
đứa học trò hiền lành ngoan ngoãn của anh rồi, bây giờ
thấy những đứa, tuổi chỉ bằng học trò của anh mà
hỗn láo xấc xược thì nổi giận cũng phải. Nhưng anh
phải cố nhịn. Họ là người chiến thắng. Họ có súng
còn mình tay không mà. Em và các con mong anh về từng ngày,
từng giờ. Anh phải cố gắng chịu đựng để có ngày
về với mẹ con em.
Nàng
ngưng nói, lấy khăn chặm vào mắt làm Tân rất xúc động.
Anh nói:
-
Không, em đừng lo. Vì có mặt em và thấy nó ăn nói xúc
phạm đến em nên anh nổi giận một tí thôi. Thường
ngày anh vẫn chịu đựng rất tốt. Cái lẽ sống duy nhất
của anh bây giờ là được về gần gũi em và các con.
Tất mọi thứ khác, dù cao quí đến đâu anh cũng vứt
hết nếu nó cản trở cái lẽ sống duy nhất đó của
anh.
Thùy
Liên dịu dàng nhìn mặt chồng và nhắc lại:
-
Em và các con mong anh từng ngày từng giờ. Em và các con
thương yêu anh vô cùng vô tận.
Nàng
quay lại hai đứa bé:
-
Phải không hai con?
Thùy
Dung nghe mẹ nói nhảy lên ôm cổ cha:
-
Phải phải, con thương ba, em Hòa Bình cũng thương ba. Ngày
nào chúng con cũng mong ba về với chúng con.
Tân
cầm bàn tay nhỏ xíu của con gái:
-
Con ngoan lắm. Ở nhà con có đi học không?
-
Có, con học hết lớp hai rồi. Con sắp lên lớp ba. Cô
giáo khen con học giỏi nhất lớp và hát hay nữa.
Tân
siết chặt con vào lòng:
-
Vậy hả? Con biết hát bài gì?
-
Bài Giải phóng miền Nam, bài Ai yêu bác Hồ chí Minh hơn
chúng em nhi đồng. Còn nhiều bài nữa.
-
Còn em Hòa Bình?
-
Em đi bán với mẹ nên không biết hát.
Tân
quay về phía Thùy Liên, hơi sửng sốt:
-
Tự nãy giờ cứ nói chuyện đâu mà chưa hỏi việc sống
của mấy mẹ con ra sao. Em và con đi buôn bán à?
Thùy
Liên trả lời một cách thản nhiên:
-
Em phải đi buôn bán mới có cái ăn cho con chứ.
-
Em buôn bán thứ gì?
-
Đủ thứ. Ai bán thứ gì rẻ thì em mua rồi bán lại. Áo
quần, giày dép, xà bông, kem đánh răng, vân vân.
-
Ở đâu có những thứ đó?
-
Phần nhiều là đồ cũ do miền Nam sản xuất và vẫn
còn. Anh ở trong nầy không thể ngờ được. Trong những
năm chiến tranh tàn phá ác liệt, mình cứ ngỡ dân trong
Nam cực khổ hơn ngoài Bắc. Hòa bình rồi mới biết miền
Bắc nghèo nàn, dân chúng cơ cực không thể nào tưởng
tượng được.
Thùy
Liên xích lại gần chồng và nói nho nhỏ:
-
Trước đây, mình thường nghe nói cộng sản bần cùng
hóa nhân dân, bây giờ nghe người ta mô tả cảnh sống ở
miền Bắc mới biết lời nói đó không sai chút nào. Lúc
đầu cán bộ và quân giải phóng chóa mắt vì của cải
ở miền Nam. Thế là đua nhau hốt mang về Bắc. Máy may,
truyền hình, truyền thanh, tủ lạnh, xe máy, xe hơi, vàng
bạc, vải vóc, soong nồi, tuôn về Bắc như thác đổ.
Các xe của cán bộ, của đảng chạy vào thì đầy người,
chạy ra thì đầy vật dụng. Chính mắt người bạn gái
em thấy xe của ông phó chủ tịch nước về Bắc chở
theo ba cái máy truyền hình. Nó nói rằng chở ba cái là
quá ít; ông phó chủ tịch nước ngang hàng với ông phó
tổng thống của miền Nam trước kia. Thế là con buôn
đường dài từ Bắc vào Nam cũng rộ lên. Họ thu mua hàng
hoá trong Nam chở ra Bắc để bán. Cán bộ và bộ đội
thì chở đồ lấy được từ các công sở và các nhà đã
bỏ đi ngoại quốc. Con buôn thì chở đi những thứ mua
được từ các gia đình còn ở lại. Họ không đủ thời
giờ đi thu mua nên cần đến một số người sẵn tiền
đi từng nhà thu mua rồi bán lại cho họ, có lời khá
lắm. Chính em dẫn con trai mình đi làm việc đó. Em thường
mua được nhiều hơn người khác. Có nhiều người soạn
sẵn đồ dùng và chờ em đến mới bán.
Tân
chăm chú nghe vợ nói. Đến đây anh mới chen lời:
-
Nếu anh ở ngoài mà gặp người thu mua có gương mặt và
giọng nói như em thì anh sẵn sàng mang cả bàn thờ tổ
tiên ra để bán.
Thùy
Liên cười khúc khích:
-
Hơn một năm rồi, hôm nay em lại được nghe cái giọng
khôi hài dễ thương của anh. Em nói tiếp cho anh nghe để
anh yên tâm về sự sống của mẹ con mà lo học tập cho
tốt để chóng về. Lúc đầu em có nhiều tiền làm vốn
nên việc thu mua khá dồi dào.
-
Tiền ở đâu vậy?
-
Anh quên món tiền chị Hai gởi cho mình trước khi xuống
tàu ra ngoại quốc sao?
-
À, anh nhớ rồi.
-
Nhưng sau khi đổi tiền thì kể như mất hết.
Tân
ngạc nhiên:
-
Sao lại mất hết? Đổi tiền cũ lấy tiền mới mà?
Thùy
Liên lắc đầu:
-
Chính phủ cách mạng gọi là đổi tiền, thực chất là
tịch thu và chỉ cho lại mỗi gia đình một chút ít để
mua gạo và nước mắm sống qua ngày.
Tân
tức giận:
-
Thế là ăn cướp chớ đổi tiền gì.
Thùy
Liên vuốt nhẹ bàn tay của chồng:
-
Đừng tức giận anh ạ. Em đã nói với anh rồi. Kẻ
chiến thắng có thể làm mọi chuyện đối với người
chiến bại. Ăn cướp nhưng vẫn còn cho lại một chút để
sống cũng là có nhân đạo lắm rồi.
Tân
thở dài:
-
Vậy là em hết tiền buôn bán, làm sao mấy mẹ con sống
được?
Thùy
Liên mỉm cười:
-
Nhà nước chỉ hiếp đáp được dân lành và chất phác
thôi chứ làm sao áp chế được con buôn. Tháng tư 1975,
miền Nam bị cách mạng đánh gục về quân sự. Đến
ngày đổi tiền, miền Nam bị cách mạng đánh gục luôn
về kinh tế. Sinh hoạt trong dân chúng bị tê liệt đúng
theo đường lối của cách mạng nhưng con buôn lại hoạt
động mạnh hơn.
-
Tiền bị tịch thu gần hết thì con buôn làm sao hoạt
động?
-
Tiền ngoài Bắc đổ vào.
-
Nhưng em làm gì có tiền Bắc?
-
Con buôn ngoài đó vô ứng trước cho em. Họ ôm tiền vào,
lựa một số ít người trong nầy tín nhiệm được thì
giao tiền để thu mua. Em là một trong số người được
sự tín nhiệm đó.
Tân
cười, trở lại giọng khôi hài:
-
Nhờ có cách mạng mà một cô y tá rất tận tụy trong
quân y viện trở thành một nhà buôn bán sừng sỏ trong
thương trường. À anh quên hỏi em. Bên quân y hay bên y tế
có gọi em vào làm việc trở lại không?
-
Có một lần gọi nhưng em không trở lại làm.
-
Họ gọi đích danh em và em từ chối?
Thùy
Liên mỉm cười:
-
Nếu bị gọi đích danh thì em đâu có dám từ chối. Họ
chỉ thông báo trên đài phát thanh thôi nên em lờ đi.
-
Tại sao em không trở lại làm việc?
-
Anh hỏi em như thế là vì anh ở trong nầy không hiểu
tình hình ngoài đó. Đi làm với họ là để cho họ bóc
lột tàn tệ. Tiền lương may lắm chỉ đủ cho riêng em
sống vật vờ còn hai con thì lấy gì mà ăn. À có chuyện
nầy rất quan trọng em phải nói kẻo hết giờ thăm nuôi.
Tân
ngạc nhiên:
-
Chuyện quan trọng sao em không nói trước mà đợi đến
bây giờ?
-
Em biết chuyện nầy sẽ làm anh xúc động mà không nghe
hết hoàn cảnh sống của mẹ con em trong hiện tại.
-
Chuyện gì vậy, em nói đi.
-
Em đã gặp anh Vinh.
Tân
giật mình:
-
Anh Vinh nào?
-
Anh ruột của anh từ ngoài Bắc vào.
Nếu
không tự kềm chế kịp thì Tân đã nhảy dựng lên rồi.
Anh nói trong hơi thở hổn hển:
-
Em gặp lúc nào?
-
Hơn một tháng rồi.
Tân
bỗng nhìn thẳng trước mặt, cặp mắt như đờ đẫn ra
trong một phút rồi quay lại hỏi Thùy Liên một cách dồn
dập:
-
Anh Vinh còn sống à? Anh Vinh vào Nam rồi à? Anh Vinh vào
với đoàn quân giải phóng phải không? Anh ấy mang cấp
bậc gì rồi? Tại sao bây giờ em mới gặp?
-
Không, anh Vinh không phải là bộ đội. Anh ấy là cán bộ
được Hà nội cho hồi kết để vào xây dựng bộ máy
cầm quyền trong Nam. Anh ấy vào sớm lắm, có lẽ từ lúc
anh chưa đi trình diện học tập nhưng đâu có biết anh ở
đâu mà tìm. Anh Vinh đã bỏ ra nhiều công sức, đi hỏi
rất nhiều nơi cuối cùng gặp được cái chị gì đó
lúc trước đưa anh vào chiến khu.
Tân
nói vội:
-
Chị Chi! Chị ấy còn sống à?
-
Anh còn nhớ tên chị ấy sao? Mười mấy năm nay sống ở
Sài gòn, anh có gặp chị ấy không?
-
Không hề gặp. Thế mà chị ấy vẫn theo dõi anh, ghê
thực. Em thấy anh Vinh thế nào? Có mạnh khỏe không?
-
Khỏe, trông rất giống anh nhưng già hơn anh nhiều lắm.
-
Già hơn anh nhiều lắm? Em nói gì lạ vậy? Anh Vinh chỉ
hơn anh có bốn tuổi thôi mà.
-
Em nói thực đó, già hơn anh đến trên mười tuổi. Ở
miền Bắc khổ lắm nên con người chóng già. Khổ về
vật chất đã đành rồi, khổ về tinh thần mới thực
sự làm cho người ta chóng già.
-
Em nói gì lạ vậy, anh Vinh mà khổ à? Về vật chất thì
cán bộ như anh Vinh làm sao khổ được? Về tinh thần,
anh ấy là con cưng của đảng. Anh ấy hoạt động cho
cách mạng từ thuở nhỏ, bị bắt cầm tù rồi được
trao trả tù chiến tranh và tập kết ra Bắc. Chắc chắn,
anh ấy đã trở thành một cán bộ cao cấp, có khi là ủy
viên cấp tỉnh cũng nên.
Thùy
Liên lắc đầu:
-
Hình như anh Vinh chẳng phải là cán bộ cao cấp gì lắm.
Nếu là cán bộ cao cấp thì phải đi bằng xe hơi riêng
và có tài xế lái đi chứ. Đằng nầy anh ấy đi đến
với một chiếc xe gắn máy cũ mèm. Em rất ngạc nhiên
thấy anh ấy có vẻ buồn chứ không tỏ ra phấn khởi hồ
hởi hoặc hống hách như mấy ông quân quản.
-
Anh Vinh đến nhà tìm em à?
-
Dạ phải. Anh ấy đến buổi sáng lúc em đi vắng nên để
giấy lại hẹn chiều đến. Giấy ký tên là Vinh mà không
nói rõ là anh ruột của anh. Tuy không biết Vinh là ai
nhưng trưa về đọc xong tờ giấy em cũng ở nhà chờ
đợi. Khoảng bốn giờ thì anh ấy đến. Em đang ngồi
trước chiếc bàn làm việc của anh. Lúc nào ở nhà, em
cũng thích ngồi nơi đó để nhớ lại những ngày tháng
hạnh phúc của mình. Em nhìn ra thấy một người đàn ông
đi xe gắn máy đến, chậm rãi dựng xe, tắt máy rồi
bước vào. Em đứng lên cúi đầu chào. Người ấy hỏi
em bằng giọng nửa Bắc nửa Nam: “Đây phải là nhà của
chú Tân không?”. Em đáp phải. Ông ta hỏi tiếp: “Cô
là gì của chú Tân?”. Em bực mình. Người lạ sao mà ăn
nói sỗ sàng bất lịch sự như thế. Em sực nhớ ở
ngoài miền Bắc người ta đả phá phép lịch sự vì cho
đó là của tư sản. Nếu ông ấy từ Bắc vào thì em
tiếp chuyện còn nếu là người của miền Nam thì em tìm
cách mời ra khỏi nhà. Em không trả lời mà hỏi lại:
“Thưa ông, có phải ông vừa mới ở ngoài Bắc vào
không ạ?” Ông ấy trả lời: “Vâng, tôi ở ngoài Bắc
vào đây công tác. Tôi tìm nhà chú Tân mấy tháng nay. Cô
là gì của chú Tân?” Lúc đó em mới trả lời: “Tôi
là vợ của anh Tân”. Ông ấy nhìn sững làm em phát sợ
rồi nói nho nhỏ: “Thực vậy à? Thằng Tân có vợ rồi
à? Ông ấy nhìn xuống thấy thằng Hòa Bình đang đeo chân
em, nên bảo: “Con nó đây phải không? Y hệch thằng Tân
lúc còn ở ngoài làng. Ba mươi năm rồi còn chi.” Ông ta
ngẩng lên nói với em: “Cô là vợ của thằng Tân à?
Tôi là Vinh, anh ruột của nó đây”. Em nghe nói thì vô
cùng xúc động. Em nắm lấy tay ông ấy mà nói: “Anh là
anh ruột của anh Tân à? Em là em dâu của anh đây”. Em
thấy anh Vinh nhắm mắt lại một chút rồi mở mắt ra,
rưng rưng lệ. Anh ấy cúi xuống bế thằng Hòa Bình lên
rồi hỏi em: “Có phải thằng Tân đi học tập cải tạo
rồi không?” Em bỗng cảm thấy lo sợ vì anh Vinh dù sao
cũng là một cán bộ ngoài Bắc vào, có nghĩa là người
của phía chiến thắng còn chúng ta là của phía chiến
bại, nên em chỉ gật đầu để xác nhận mà không nói
gì thêm. Anh Vinh nhìn em, nói như gằn giọng: “Tại sao
thằng Tân và cô không trốn ra nước ngoài để bây giờ
phải đi cải tạo thế nầy?”
Tân
chăm chỉ nghe nhưng đến đây, không dằn được tiếng
thốt:
-
Trời hỡi!
Thùy
Liên cười:
-
Lúc đó em cũng thầm kêu trời như anh vậy. Rồi bỗng
nhiên em cảm thấy lo sợ. Phải chi lúc đó, anh Vinh mắng
chửi chúng mình là đồ phản dân hại nước, đồ ôm
chân thực dân đế quốc thì em đỡ phải lo sợ vì em đã
quen nghe như vậy, vì biết người ta đã gọi đích danh
mình và mình chỉ cần im lặng là yên thân. Đằng nầy
anh Vinh không mắng chửi lại trách mình không trốn đi để
tiếp tục “ôm chân đế quốc Mỹ” thì thực là lạ
lùng và đáng lo. Có lẽ nhìn thấy nét mặt đầy lo sợ
và nghi ngờ của em nên anh Vinh đoán được ý em. Anh ấy
cười khẩy: “Tôi nói thật đó, cô không tin tôi à? Cô
tưởng tôi là công an đến đây thử lòng cô hay sao?
Không, tôi là anh ruột của thằng Tân đây, tôi nói thật
đó. Hơn hai mươi năm rồi, tôi mới nói được một câu
thật lòng. Hai mươi năm sống trong giả dối, lúc nào
cũng mong được về miền Nam để nói lên một lời thực
bụng”. Lúc đó em sực nhớ ra là anh Vinh và em vẫn còn
đứng trên bệ cửa nên em mời anh ấy vào nhà ngồi và
pha nước mời uống. Tới giờ Thùy Dung đi học về nên
em vội chạy sang nhà bác Sĩ nhờ đi đón con. Em trở về
ngồi nói chuyện với anh Vinh. Anh ấy hỏi anh và em làm
gì trước ngày giải phóng. Em cho biết nghề nghiệp của
chúng mình. Anh ấy bảo rằng ở miền Bắc, hai ngành giáo
dục và y tế bị đối xử bạc bẽo nhất nhưng lại
được đề cao dữ dội nhất. Y sĩ và giáo viên lúc nào
cũng được nhà nước cho ăn bánh vẽ. Anh Vinh nhìn quanh
trong nhà, thấy ngổn ngang đồ đạc, hỏi em làm gì với
lắm thứ thế nầy. Em trả lời là thu mua để bán lại.
Anh gật gù bảo: “Được, buôn bán mà sống cho qua ngày
nào hay ngày ấy. Chui vào cơ quan nhà nước, nếu không
phải là cán bộ cao cấp có đặc quyền đặc lợi thì
chỉ có đói rách mà thôi”.
Tân
ngạc nhiên:
-
Đặc quyền đặc lợi? Đó là cái từ mà người ta gán
cho miền Nam trong các bài học chính trị để chửi rủa
chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Miền Bắc
cũng có đặc quyền đặc lợi nữa à.
Thùy
Liên gật đầu:
-
Dạ phải, đặc quyền đặc lợi là một trong những từ
mà miền Bắc đưa vào để thóa mạ miền Nam. Nhưng ở
miền Nam thì làm gì có đặc quyền đặc lợi. Hành động
tham nhũng và hối lộ trong nầy bị xem là vi phạm pháp
luật và bị trừng phạt. Mọi công dân đều được xã
hội đối xử một cách công bình, ai làm việc giỏi thì
được lương cao, ai dở và lười biếng thì lương thấp,
điều đó quá rõ ràng. Chính ở ngoài Bằc mới có đặc
quyền đặc lợi dành cho đảng viên. Ở khắp nơi, từ
thành thị đến thôn quê, từ đồng bằng đến những
vùng rừng núi xa xôi, mọi thứ béo bở đều dành cho
đảng viên. Em suy nghĩ thấy trong các bài học chính trị,
tất cả những gì xấu xa mà họ dùng để chửi rủa
miền Nam thì đều có ở miền Bắc cả. Hình như cái ông
viết những tài liệu chính trị đó chưa hề biết miền
Nam là gì cả, nên lấy tất cả những gì xấu xa ở miền
Bắc viết ra và gán cho miền Nam.
Tân
thở dài:
-
Thùy Liên ạ, em đừng nhắc đến tài liệu chính trị
nữa, anh chán lắm rồi. Anh Vinh có cho em biết vào Nam tạm
thời hay lâu dài không? Anh ấy hiện ở đâu?
-
Anh Vinh vào nhận công tác luôn trong nầy. Anh ấy là cán
bộ của ủy ban cách mạng thành phố, được cấp một
cái biệt thự ở đường Cao Thắng, vợ con cũng vào ở
đó luôn.
-
Ủa, có cả vợ con nữa? Em có hỏi thăm chị và các cháu
không?
-
Có, chị ấy làm ở thành ủy. Có hai đứa con trai, đứa
lớn được mười một tuổi rồi. Anh Vinh bảo rằng rất
mong gặp anh nhưng không biết đến bao giờ. Nhắc tới
anh là anh Vinh có vẻ xúc động lắm.
-
Anh Vinh có biết anh là sĩ quan của miền Nam không?
-
Biết chứ. Không phải là sĩ quan thì sao phải đi học
tập cải tạo?
-
Anh Vinh có tỏ vẻ chê trách không?
-
Không. Anh ấy còn bảo tại sao không bỏ trốn đi ngoại
quốc nữa kia mà. Anh Tân!
-
Gì vậy em?
-
Em đọc thấy trong đôi mắt, trong giọng nói của anh Vinh
một nỗi chán chường, gần như là bất mãn.
Tân
lắc đầu:
-
Sao lại như thế được? Anh ấy phải là con cưng của
chế độ miền Bắc mà. Anh ấy đã hi sinh cả tuổi thanh
xuân của mình cho cách mạng. Chắc chắn anh ấy phải có
một địa vị cao trong hàng ngũ của đảng cộng sản.
-
Nếu quả thực anh ấy là đảng viên thì có lẽ đó là
người đảng viên duy nhất mà em có cảm tình, không phải
chỉ vì anh ấy là anh chồng của em. Ngoài cảm tình ra em
còn thấy một cái gì đó hơi tội nghiệp, đáng thương
hại.
Tân
cười thành tiếng:
-
Em quên rằng anh Vinh là một cán bộ cao cấp à? Mới giải
phóng xong, hai vợ chồng vào Nam xây dựng chính quyền,
chồng thì xây dựng nhà nước, vợ thì xây dựng đảng,
cả hai đều ở cấp thành phố. Em đi thương hại cho hai
anh chị ấy à? Em nên dành cái lòng thương hại đó cho
những người đang bị họ thống trị.
Thùy
Liên vuốt vai Tân, giọng nhỏ nhẹ thực dễ thương:
-
Đừng hằn học như thế anh Tân ạ. Anh Vinh là anh ruột
của anh, người ruột thịt duy nhất còn sót lại trên
đời nầy. Anh thường nói với em như thế mà. Anh Vinh
nhớ thương anh nhiều lắm, em cam đoan như thế với anh.
Tân
thở dài:
-
Anh nói thế thôi chứ anh cũng nhớ thương anh Vinh vô
cùng. Bao nhiêu năm nay, có bao giờ anh quên anh ấy đâu.
Thuở còn thơ dại, hai anh em đã mất cả cha lẫn mẹ,
được anh đưa vào Nam rồi mất luôn cả anh. Anh đã được
anh Vinh đùm bọc, lớn lên và đi học trong cái thành phố
to lớn của miền Nam. Như thế làm sao anh không thương
nhớ anh Vinh cho được.
Tân
chép miệng và nói tiếp:
-
Hai mươi ba năm xa cách rồi chứ có ít đâu. Bây giờ gặp
nhau có còn thân thiết như xưa không? Chiến tranh qua rồi
nhưng ảnh hưởng đau thương của nó kéo dài không biết
đến bao giờ?
Tân
ngừng nói vì trong loa có tiếng động rột rẹt rồi một
giọng nói nặng nề trong đó phát ra:
-
Đợt thăm nuôi chấm dứt. Thân nhân hãy ra về và anh em
cải tạo vào trại ngay, không được chậm trễ.
Trong
nhà thăm nuôi, mọi người uể oải đứng dậy. Tân và
Thùy Liên cũng đứng dậy theo. Thằng Hòa Bình ôm chặt
lấy cha mếu máo:
-
Ba, ba, chừng nào ba về với con? Con thích ba về với con
bây giờ. Con không chịu ba ở lại đây đâu. Ba, ba, về
với con nghe ba!
Tân
cúi xuống bế con trai lên siết chặt vào lòng. Anh nhìn
sang một bên thấy Thùy Liên ôm mặt khóc nức nở. Thùy
Dung cũng rấm rứt khóc theo mẹ.
Ba
mẹ con dắt díu nhau ra cổng. Tân đứng im nhìn theo cho
đến khi một cảnh vệ đến đập mạnh vào vai:
-
Anh nầy vào đi. Bắt đầu đợt thăm nuôi tiếp theo.
Tân
lững thững xách giỏ đồ tiếp tế đi vào như một kẻ
mất hồn.
*
*
*
Những
ngày sau đợt thăm nuôi, các “câu lạc bộ uống trà”
ban đêm trở nên rôm rả hơn, vì có trà ngon, đường, và
bánh kẹo do gia đình đưa vào. Anh em chuyện trò khuya hơn
thường lệ nhờ quản giáo dễ dãi, không bắt anh em phải
giải tán sớm.
Chao
ôi, có biết bao nhiêu chuyện để kể cho nhau nghe. Hơn
một năm anh em sống biệt lập trong trại cải tạo nầy
thì xã hội bên ngoài thay đổi đến tận gốc rễ. Những
người cách mạng gọi đó là cuộc “đổi đời”. Ở
thôn quê thì chẳng có gì gọi là đổi đời, cuộc sống
cơ cực trong chiến tranh nay cũng vẫn cơ cực trong hòa
bình. Tuy nhiên trong các thành phố, quả thực là đổi
đời. Từ một cuộc sống sung túc và tự do nay đổi
thành cuộc đời thiếu thốn và bị siết chặt bởi quá
nhiều qui định của ủy ban quân quản, của ủy ban nhân
dân cách mạng, của công an các cấp, vân vân.
Hôm
đầu tiên câu lạc bộ họp lại, Trí vừa nhóm bếp vừa
nói:
-
Bữa nay, anh em hãy cho tôi khai trương câu lạc bộ với
một món ăn rất đặc sắc. Hai hôm rồi, tôi cố nhịn
thèm để đến hôm nay mới khui ra trước mặt anh em.
-
Cái gì mà nói nghe quí giá thế?
-
Kẹo đậu phộng! Thứ nầy, trước ngày “giải phóng”
chẳng ai thèm cho vào miệng nhưng bây giờ chỉ cần trông
thấy là nước bọt đã tuôn ra rồi.
Định
nói tiếp:
-
Đâu phải riêng chúng ta ở đây thôi đâu. Xã hội bên
ngoài bây giờ trở nên vô cùng thiếu thốn. Một ít hàng
hóa còn tồn đọng trong Nam thì tuồn ra Bắc hết.
Quát
nối lời:
-
Thực là nghịch lý. Trong những năm chiến tranh, đời
sống sung túc đầy đủ, hòa bình rồi thì thiếu thốn
cơ cực.
Tân
cười:
-
Tài liệu chính trị nói rằng miền Nam sống trong sự
phồn vinh giả tạo.
Định
cười khẩy:
-
Phải rồi miền Nam trước đây sống trong “phồn vinh
giả tạo”, bây giờ thì sống trong “cơ cực đích
thực” cho giống với miền Bắc. Ở miền Nam, ngay trong
những năm chiến tranh, chúng ta vẫn cố gắng duy trì
những cơ sở sản xuất để đáp ứng nhu cầu của dân
chúng. Nay hòa bình rồi, những cơ sở đó đều bị quốc
hữu hóa rồi ngưng hoạt động. Vợ tôi kể, máy móc bị
tháo gỡ, một phần mang về Bắc, một phần vứt bừa
bãi trong nhà máy.
Tân
hỏi:
-
Đó có phải là chủ trương của đảng trong chiến dịch
đánh tư sản?
-
Phải rồi, bên ngoài đang rất sôi nổi về cái chuyện
đánh tư sản do Hà nội ra lệnh.
Trí
nhíu mày:
-
Đánh tư sản là thế nào?
Định
cười to:
-
Mới học về chiến dịch đánh tư sản trong đợt học
chính trị vừa rồi mà quên rồi à?
Trí
cười bẽn lẽn:
-
Mấy ngày học đó tôi ngủ gục từ đầu đến cuối giờ
nên có nghe gì đâu. Bây giờ, anh Định làm giảng viên
giải thích lại nghe chơi.
Định
gật đầu mỉm cười:
-
Được, “đồng chí” lắng nghe tôi giảng đây. Miền
Nam trước đây theo tư bản chủ nghĩa, phần lớn tư liệu
sản xuất như nhà máy, vốn liếng nằm trong tay những
người gọi là tư sản mại bản. Bây giờ cách mạng
thành công rồi, giai cấp vô sản lên nắm chánh quyền,
phải lấy lại toàn bộ tư liệu sản xuất đó, đồng
thời đập cho bọn tư sản không còn ngóc đầu dậy
được. Anh hiểu rõ chưa?
Trí
gật đầu:
-
Rõ rồi, nhưng đó là tài liệu dạy chính trị còn thực
tế thì thế nào?
Quát
giành câu trả lời:
-
Lý thuyết về mục đích đánh tư sản là như thế nhưng
thực tế là điều khác hẳn. Người cộng sản luôn luôn
đưa ra một lý thuyết thực là trau chuốt để che đậy
một mưu đồ khác hẳn. Ngay cái việc trọng đại và căn
bản là giải phóng Miền Nam thì lý thuyết là cởi ách
đô hộ của Mỹ nhưng thực tế là bành trướng lãnh thổ
cho đệ tam quốc tế.
Định
tỏ vẻ đồng tình:
-
Rất đúng. Nhưng thôi, chuyện giải phóng miền Nam xong
rồi, không bàn tới nữa. Tôi muốn nói tới những điều
đang xảy ra trong xã hội tác động trực tiếp đến cuộc
sống của vợ con chúng ta.
Trí
góp ý một cách sôi nổi:
-
Phải phải, đó là điều lo âu của tất cả anh em mình.
Anh bảo rằng kinh tế miền Nam bây giờ đã hoàn toàn
kiệt quệ. Vợ tôi cũng nói như thế và chắc chắn anh
em mình ở đây đều nghe gia đình than thở về điều
nầy.
Định
gật đầu:
-
Đúng vậy. Mặc dù bị chiến tranh và bại trận nhưng
kinh tế miền Nam, sau ngày 30 tháng tư năm 1975 vẫn còn
mạnh lắm. Tuy nhiên sau cú đánh tư sản do đảng và nhà
nước phát động thì nền kinh tế đó hoàn toàn sụp đổ.
-
Thực là vô lý. Sau chiến tranh thì cái điều cần thiết
nhất là phục hồi kinh tế. Ngay cả một đứa học sinh
cũng biết điều đó. Không lẽ những người lãnh đạo
ở Hà nội không biết sao?
-
Biết chứ sao lại không, nhưng họ cố tình làm ngược
lại.
-
Làm ngược lại là sao? Là phá hoại nền kinh tế miền
Nam đã quá chật vật mới đứng vững được cho hết
cuộc chiến tranh à?
Định
gật đầu:
-
Đúng, họ chủ trương phải phá nát nền kinh tế miền
Nam.
-
Vô lý! Miền Nam bây giờ là của họ rồi mà.
-
Khoan, trước khi có ý kiến về thắc mắc của anh, tôi
trở lại chuyện đánh tư sản trước đã. Sau khi Sài gòn
thất thủ thì ở miền Nam không còn tư sản nữa. Một
số lớn đã bỏ ra ngoại quốc, số còn lại thì cũng
biết thân biết phận nên đã hiến nhà máy cho cách mạng.
Tân
cãi lại:
-
Nhưng tôi biết cũng có nhiều người vẫn giữ lại một
vài máy móc và vẫn còn có thể cho hoạt động trong phạm
vi gia đình như máy chà gạo loại nhỏ, máy xay bột, vân
vân.
-
Những người đó không thể gọi là tư sản được. Theo
lý thuyết của Marx, tư sản phải là những người có
vốn liếng, sắm tư liệu sản xuất tức là máy móc và
nguyên vật liệu rồi thuê nhân công để sau đó bóc lột
họ. Nhưng bây giờ người ta đánh hết tất cả mọi
người có tài sản, dù tài sản đó không phải là tư
liệu sản xuất và do chính mồ hôi nước mắt làm ra.
Khởi đầu công cuộc đánh tư sản để triệt hạ kinh
tế là đổi tiền để thủ tiêu tất cả tài sản bằng
hiện kim. Kế đó là kê khai vàng bạc, châu báu trong nhà.
Những của quý nào được kê khai thì kể như bị nhà
nước quản lý và có thể bị tịch thu bất cứ lúc nào.
Tài sản nào giấu đi không chịu kê khai thì trở thành
bất hợp pháp và không thể sử dụng một cách công khai
được. Đòn sau cùng và là đòn quyết định, đó là
phát động phong trào tố cáo nhau trong dân chúng, công an
đi khám xét, tịch thu. Tủ rương bị phá tung, cả vách
tường, chậu hoa của nhiều nhà cũng bị đập tan để
tìm vàng bạc và châu báu giấu trong đó. Thực là thê
thảm hơn cả thời kỳ chúng ta bị Tàu và Pháp đô hộ
nữa.
-
Hà nội làm như thế với mục đích gì?
Định
suy nghĩ một chút rồi giải thích:
-
Dựa vào ý kiến của vợ tôi và sự suy nghĩ của riêng
tôi thì họ làm như thế vì hai mục đích. Thứ nhất là
đền ơn những người đã góp công “giải phóng” được
miền Nam. Những người đó đã chịu hi sinh quá nhiều,
miền Bắc thì có gì đâu để trả công cho họ. Cho phép
họ khám xét các nhà bị tố cáo là tư sản, tịch thu
của cải, nhận hối lộ của nhiều nhà để khỏi bị
khám xét. Một số cán bộ trở nên giàu to.
-
Đó là một hình thức ăn cướp. Còn mục đích thứ hai?
-
Mục đích thứ hai thì to lớn hơn, có tính chiến lược.
Đó là đập cho tan nát nền kinh tế miền Nam, gấp rút
hạ thấp mức sống của dân miền Nam xuống, không để
quá chênh lệch với mức sống vô cùng thấp kém của dân
miền Bắc. Các nhà lãnh đạo miền Bắc thừa sức hiểu
rằng trong hai mươi năm đất nước bị chia cắt, hai miền
biến đổi theo hai hướng ngược nhau. Miền Nam, dù sống
trong chiến tranh phá hoại, kinh tế vẫn tiến triển đều
đều, vô số nhà máy và nhà ở được xây dựng; từ
thành thị đến những vùng nông thôn có an ninh, mỗi gia
đình đều có nhà cửa tương đối đàng hoàng. Đường
sá, điện nước, trường học, mọi thứ đều không thua
sút lắm những nước trong vùng Đông nam Á không bị
chiến tranh tàn phá. Trái lại, miền Bắc thì quá thảm
thương. Vợ tôi nói rằng hầu như mọi kiến trúc đều
do người Pháp để lại nhưng đã hư hỏng nhiều. Những
gì mới được làm thêm thì tệ lắm. Vợ tôi có cho tôi
xem một tấm hình chụp toàn bộ một nông trường chăn
nuôi mà miền Bắc hãnh diện. Rõ ràng, nông trường đó
không hơn cái trại chăn nuôi gia đình của bạn tôi, một
trại chăn nuôi thuộc loại tầm thường trong miền Nam
của chúng ta.
Trí
ngắt lời:
-
Thế mà trong các bài học chính trị cứ nhắc đi nhắc
lại từ “sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Thực là
một trò bịp bợm. Nhưng tôi không hiểu tại sao vợ anh
lại có tấm hình đó và hiểu rõ miền Bắc như thế. Có
lẽ chị ấy là cán bộ miền Bắc được trung ương đưa
vào đây để kể rõ sự thê thảm của miền Bắc để
cho miền Nam động lòng thương xót phải không?
Trí
nói xong cười hì hì làm cả đám bạn bè cũng cười
theo.
Định
khoát tay:
-
Để tôi giải thích. Vợ tôi là người Bắc di cư đầu
năm 1955. Lúc cả nhà xuống tàu vào Nam thì ông anh cả
đang còn ở chiến khu Việt Bắc. Khi Sài gòn thất thủ
thì anh ta mang lon thượng tá, vào Nam tìm được cô em gái
là vợ tôi. Cha mẹ vợ tôi đều chết cả rồi, anh ta
nghe tin thì tỏ vẻ thương xót lắm. Tuy là sĩ quan cao cấp
của quân đội Bắc Việt nhưng với cô em gái trí thức
thì anh ấy cũng tiết lộ một vài sự thực để cô em
liệu hồn mà sống với chế độ mới. Sự thực là như
vậy, anh Trí hiểu chưa?
Trí
chắp tay, giọng khôi hài:
-
Thưa anh hiểu rồi. Xin anh nói tiếp về tình hình miền
Bắc cho anh em hiểu thêm.
-
Trong hai mươi năm qua, miền Bắc rất tệ. Đường sá hư
hỏng hết. Nhà cửa thì hết sức thiếu thốn. Nhiều gia
đình cùng sống chui rúc trong một căn phố từ thời Pháp
thuộc để lại. Chỉ có thủy lợi, tức là dẫn thủy
nhập điền thì tương đối phát triển ở đồng bằng
sông Hồng, vì chính phủ chú tâm về việc nầy?
Trí
lại hỏi:
-
Tại sao lại chú trọng riêng về việc nầy?
-
Vì dân số tăng quá nhanh không đủ ăn nên đồng ruộng
phải làm ba vụ mỗi năm. Theo một định luật về xã
hội học, đất nước càng lạc hậu thì dân số càng
tăng nhanh, như ở châu Phi, châu Mỹ la tin, Trung hoa, Ấn
độ, vân vân.
-
Tại sao vậy?
-
Hai lý do. Thứ nhất vì người ta không coi trọng sự nuôi
dưỡng và săn sóc trẻ em và thứ hai vì thiếu phương
tiện giải trí nên vợ chồng lấy chuyện chăn gối làm
cuộc vui.
Cả
bọn cười xòa. Định nói tiếp:
-
Miền Bắc quá cơ cực nên đảng và nhà nước ra sức
bưng bít không cho người dân biết nếp sống của xã hội
miền Nam vì sợ người dân có thể nổi loạn khi nhìn
thấy sự thực. Vì vậy tất cả mọi người ở miền
Bắc đều đinh ninh miền Nam còn lạc hậu hơn miền Bắc
nữa.
Quát
góp ý một cách sôi nổi:
-
Phải rồi, lúc chưa đi trình diện, tôi nghe quá nhiều
câu chuyện về điều đó. Ngay như ở gia đình tôi cũng
vậy. Vợ chồng con cái chúng tôi sống chung với cha mẹ
vợ trong một biệt thự bé tí thế mà bộ đội vào bảo
rằng đây không thể là nhà của tư nhân được mà phải
là của công sở hay của ngoại giao đoàn. Tôi cũng nghe
nói khi phái đoàn cao cấp của bộ y tế Bắc Việt đến
tiếp thu trường đại học Y khoa trong Chợ lớn thì họ
cứ đứng ngẩn ngơ ra mà lắc đầu và nói với nhau:
“Cái nhà to thế nầy mà là trường học à? Phi lý nhỉ!”
Rồi qua tiếp thu bệnh viện Chợ rẩy thấy các phòng
bệnh có máy thu hình thì họ lại lắc đầu và luôn
miệng nói: “Phi lý, phi lý!”.
Định
gật đầu và nói tiếp:
-
Phải rồi, miền Bắc quá nghèo và lạc hậu. Sự chênh
lệch giữa hai miền quá rõ rệt. Do đó, cho đến bây giờ
thống nhất hơn một năm rồi mà đảng vẫn ra sức ngăn
cấm sự qua lại giữa hai miền, ngoại trừ các cán bộ
đi công tác và những người được đảng tín nhiệm. Có
nhiều người trong Nam muốn ra cho biết miền Bắc xây
dựng chủ nghĩa xã hội thế nào nhưng không thể nào đi
được.
Trí
hỏi:
-
Nhưng hết chiến tranh rồi, làm sao duy trì mãi sự cấm
đoán để bưng bít sự thực?
-
Đúng vậy, điều gấp rút mà đảng phải làm là ngăn
chận sự phát triển của miền Nam. Trong chiến tranh mà
miền Nam vẫn phát triển mạnh thì trong hoà bình sự phát
triển sẽ vượt qua miền Bắc đến đâu nữa, làm sao
chấp nhận được. Thế là ban chỉ đạo cuộc đánh tư
sản vừa rồi tha hồ ra tay đập phá kinh tế miền Nam.
Định
ngừng nói, mọi người đều im lặng, không khí bỗng
nhiên trở nên nặng nề. Trong trí óc của mỗi người
đều có sự tiếc nuối chế độ miền Nam và đau đớn
cho sự sụp đổ của chế độ nầy.
Định
thở dài và nói với giọng rầu rĩ:
-
Tôi đã suy nghĩ liên tục gần một năm nay. Đối chiếu
với những lời kể của vợ tôi trong đợt thăm nuôi vừa
rồi thì rõ ràng những ý nghĩ của tôi không sai chút
nào. Sĩ quan chúng ta là tập hợp phần lớn thành phần
ưu tú của xã hội, thế mà chúng ta bị giam giữ không
được góp sức xây dựng đất nước sau chiến tranh.
Quát
tham gia ý kiến:
-
Lúc đầu tôi cũng có thắc mắc như thế nhưng bây giờ
sau khi nghe anh trình bày thì tôi hiểu rõ rằng người ta
đâu có cần chúng ta góp công xây dựng vì cộng sản cố
tình làm cho miền Nam trở nên lạc hậu cho ngang với miền
Bắc. Thế mà tài liệu chính trị dạy mình thì bảo rằng
nay đất nước đã thống nhất, hai miền ra sức hàn gắn
vết thương chiến tranh, chấn hưng kinh tế để chỉ
trong vài năm nữa, chúng ta sẽ trở thành cường quốc
vượt qua cả Nhật bản.
Định
cười khẩy:
-
Lấy ai mà chấn hưng kinh tế. Ở miền Bắc, hơn hai chục
năm nay, tất cả mọi người đều được tận dụng để
phục vụ cho cuộc chiến ở miền Nam. Chương trình học
của học sinh bị rút ngắn để sớm đưa các em ra chiến
trường. Trong Nam thì luật tổng động viên đưa một số
lớn nhân tài vào quân đội rồi bây giờ bị giam giữ
trong các trại cải tạo như là những tội phạm chiến
tranh vậy.
Quát
nói:
-
Chúng ta đâu phải là tội phạm chiến tranh. Theo công
pháp quốc tế, tội phạm chiến tranh là người gây ra
cuộc chiến tranh và có hành vi tàn ác đối với dân
thường. Chúng ta đâu có gây ra chiến tranh mà chỉ tham
gia vào một cuộc chiến tranh tự vệ bằng một sắc luật
động viên của một chế độ được quốc tế công
nhận. Việc giam giữ chúng ta là một hành động phi pháp.
Tôi hi vọng một ngày nào đó, người ta thấy được
điều đó và sẽ thả chúng ta ra để chúng ta góp phần
xây dựng lại đất nước.
-
Tôi cũng hi vọng như thế. Và đó là dịp may cho Tổ quốc
chúng ta. Tuy nhiên hi vọng đó quá mỏng manh. Đường lối
căn bản của cộng sản vẫn là bần cùng hóa nhân dân
để phát triển thành phần vô sản. Nhưng thôi, đừng
nên hi vọng quá nhiều. Họ cho chúng ta sống như thế nầy
để còn có dịp gặp mặt vợ con là may lắm rồi. Vợ
tôi lén bắt đài phát thanh ngoại quốc, có nghe nói bên
Cam bốt, công sản chiếm được xứ đó thì giết người
hàng loạt kinh khủng lắm.
-
Ừ, tôi cũng có nghe tin đó. Thế tại sao có sự khác
nhau giữa Việt Nam và Cam bốt như vậy?
Định
giải thích:
-
Cộng sản nào thì cũng như nhau, đều coi rẻ mạng sống
con người. Họ cho con người là sản phẩm của xã hội
thì họ có thể nhân danh xã hội mà giết người như
loại bỏ một sản phẩm không dùng được. Tuy nhiên, ở
miền Nam Việt Nam hoàn cảnh có khác. Trong hàng ngũ mặt
trận Giải phóng miền Nam, có nhiều người thực sự là
dân miền Nam, là anh em ruột thịt của nhiều người
trong số chúng ta đây nên các nhà lãnh đạo ở Hà nội
ngại không dám loại bỏ chúng ta như ở bên Cam bốt.
-
Biết đâu một ai đó trong hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc
biết khả năng của anh em mình nên muốn để lại làm
thứ dự trữ, sau nầy có dịp thì mang ra dùng.
Định
gật đầu:
-
Cũng có thể như thế. Chính Lê nin cũng có dạy rằng lúc
đầu nên dùng các chuyên gia của tư sản cho đến khi
đảng đào tạo được chuyên gia của mình rồi thì mới
loại bỏ chuyên gia tư sản đi.
Trí
nhìn thẳng vào mắt Định:
-
Nếu sau nầy ra khỏi trại cải tạo anh được gọi đi
dạy lại thì anh có nhận hay không?
Định
cười mỉa mai:
-
Tôi chưa quyết định được vì chưa ước lượng được
mức độ cải tạo của mình lúc đó. Còn với bản chất
của tôi ngay bây giờ thì tôi từ chối.
-
Tại sao vậy?
-
Vợ tôi đi dạy được mấy tháng rồi cũng bỏ nghề vì
không chấp nhận được nền giáo dục xã hôi chủ nghĩa.
Tôi cũng không thể chấp nhận được.
Quát
cãi lại:
-
Nhưng miền Nam mới được giải phóng thì đâu có gì gọi
là xã hội chủ nghĩa.
-
Đúng vậy, trong Nam chỉ mới hô hào “tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” mà thôi
và đang trong giai đoạn đập phá xã hội cũ trước đã.
Tuy nhiên, như tôi đã nói với các anh, vợ tôi có người
anh ruột trí thức ở ngoài đó nên cô hỏi thăm rất kỹ
nền giáo dục miền Bắc vì biết rằng không sớm thì
muộn miền Nam cũng phải áp dụng nền giáo dục ấy.
-
Thế chị đã nghe nói nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
thế nào mà quyết định không hợp tác. Nó khác với nền
giáo dục trong Nam của chúng ta trước đây lắm à?
-
Hai nền giáo dục khác nhau từ bản chất. Miền Nam dạy
học sinh lòng nhân ái, ngoài Bắc dạy học sinh ý thức
căm thù; trong Nam, học sinh học lễ nghĩa, tôn trọng
người khác, ngoài Bắc, học sinh được huấn luyện về
lập trường giai cấp, phân biệt rõ bạn và thù. Nền
giáo dục trong Nam dạy học sinh gìn giữ giềng mối gia
đình, phải làm người con hiếu đễ rồi mới thành
người công dân tốt của xã hội; miền Bắc thì cố
tình phá bỏ sự ràng buộc của gia đình đối với đứa
trẻ để nó dễ thoát ly, tuân lệnh đảng vào Nam chiến
đấu.
Quát
gật đầu:
-
Anh Định có nhận xét rất chính xác. Kết quả của hai
nền giáo dục khác nhau đã hiện ra rõ ràng. Vợ tôi kể
rằng chính người bà con của cô ấy là một cán bộ hồi
kết về Nam cho biết trẻ con trong Nam rất ngoan còn trẻ
con ngoài Bắc rất ngỗ nghịch. Ông ta kể, một tháng sau
khi miền Nam sụp đổ, ông vào Nam bằng đường bộ để
công tác. Xe qua cầu Hiền lương, bắt ngang qua sông Bến
hải ở vĩ tuyến Mười bảy chia đôi đất nước, chạy
thêm hai mươi cây số nữa thì đến Đông hà, xe dừng
lại ăn cơm trưa. Có một đứa bé độ mười một tuổi
bưng một rổ bánh đến mời mua một cách hết sức nhã
nhặn. Ông sửng sốt vì lời mời của đứa bé. Hai mươi
năm rồi, ông chưa bao giờ nghe được một lời nói nào
lễ phép và dễ thương như lời của đứa bé bán bánh
nghèo khổ nầy. Ông sực nhớ mình đã vào tới miền
Nam, cái nơi mà thuở nhỏ ông đã được học những bài
luân lý đề cao lễ nghĩa, đề cao lòng nhân ái chứ
không phải bài học về chú bộ đội trong một ngày bắn
chết được hai mươi quân thù. Ông vuốt tóc đứa bé,
móc tiền ra mua mấy cái bánh rồi bước ra ngoài quán,
quay về phương Bắc nhổ bãi nước bọt và thề trong
lòng rằng không bao giờ trở lại miền Bắc nữa.
Tân
ngạc nhiên:
-
Chuyện lạ lùng như thế mà có thực sao?
Quát
quả quyết:
-
Tôi cam đoan với các anh đó là chuyện thực một trăm
phần trăm. Nếu các anh không tin thì khi nào có dịp, tôi
sẽ nhờ vợ tôi dẫn các anh đến gặp ông cán bộ hồi
kết đó để xác nhận. Thái độ của đứa bé miền Nam
ở Đông hà đã gây cho ông ấy một ấn tượng mạnh cho
đến đỗi ông kể chuyện đó cho nhiều người nghe dù
ông biết rằng nếu điều nầy tới tai công an thì ông
có thể gặp rắc rối.
Định
gật đầu:
-
Tôi tin đó là chuyện có thực. Với sự giáo dục của
cộng sản, thanh thiếu niên dễ trở thành những kẻ đáng
sợ. Các anh có nhớ bọn Hồng vệ binh bên Trung cộng
không? Ở đâu cũng thế cả. Dạy cho trẻ em lễ nghĩa
thì khó nhưng dạy cho nó ngỗ nghịch thì dễ lắm. Vợ
tôi còn kể một chuyện kinh khủng về giáo dục xảy ra
trong một trường cấp ba ở miền Bắc.
Tân
nhíu mày:
-
Chuyện thế nào?
-
Trong cuộc họp kiểm điểm của tổ chức đoàn Thanh niên
Lao động của trường, học trò mượn cớ phê bình để
mắng nhiếc thầy cô của nó trong buổi họp. Thế mà
thầy cô đành cúi đầu im lặng vì thằng học sinh đó
con của đảng viên và ở trong ban chấp hành chi đoàn,
còn thầy cô bị nó mắng nhiếc chỉ là đoàn viên thường
thôi. Nghe ông anh kể câu chuyện nầy xong, vợ tôi dứt
khoát bỏ nghề dạy học.
Quát
tham gia ý kiến:
-
Xã hội miền Bắc như thế mà sau khi chiếm được miền
Nam, họ bịa ra bao nhiêu chuyện xấu xa để gán cho chúng
ta, ngay như cán bộ gốc gác miền Nam cũng không chịu
nổi. Chắc các anh còn nhớ tài liệu học tập chính trị
do Hà nội đưa vào bảo rằng Sài gòn có nửa triệu gái
điếm và mọi người đều chú ý tới con số kinh khủng
nầy. Vợ tôi kể rằng, trong một buổi học chính trị,
giảng viên, một người Nam có gia đình sống tại Sài
gòn, đọc đến đây thì bỏ qua con số đó mà chỉ nói
Sài gòn có nhiều gái điếm thôi. Đến giờ nghỉ giải
lao, vài học viên nắm sẵn tài liệu trong tay mới chất
vấn ông giảng viên điều nầy. Bỗng nhiên, ông ta nổi
giận nói thẳng: “Đô thành Sài gòn của miền Nam trước
đây chỉ có hai triệu dân, phân nửa là phái nữ, trong
đó có nửa triệu là đàn bà còn trong tuổi sinh hoạt
tình dục được. Nói như tài liệu thì tất cả những
người đó đều là gái điếm, kể cả vợ và em gái tôi
nữa sao?”. Nghe ông ta nói, tất cả mọi người đều
sửng sốt nhưng không ai dám tỏ ra đồng tình hay phản
đối.
Trí
thêm ý kiến:
-
Tôi nghĩ rằng ngay trong nội bộ của họ cũng có sự
phân biệt Nam và Bắc.
Quát
gật đầu:
-
Đúng vậy. Tôi có nghe câu chuyện một cán bộ cấp cao
của Hà nội có nhận xét về cán bộ trong Nam thế nầy:
“Trong suốt hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ, nếu
anh không bị bắt thế là có vấn đề rồi. Còn nếu anh
bị bắt và được thả ra thì cũng lại có vấn đề nữa
rồi”.
Trí
nhíu mày, thắc mắc:
-
“Có vấn đề” là gì, tôi không hiểu.
Định
giải thích:
-
“Có vấn đề” nghĩa là có thể đã bị địch mua
chuộc. Điều đó có nghĩa là lãnh tụ ở miền Bắc
không hoàn tín nhiệm cán bộ nằm vùng ở miền Nam và
nghi ngờ nhiều người không hoàn toàn trung thành với
đảng. Có thể lãnh tụ miền Bắc cố tình tạo ra ấn
tượng không mấy tốt đẹp như thế nhằm không thừa
nhận công lao to lớn của cánh miền Nam để khỏi phải
chia chác nhiều quyền lợi lấy được ở miền Nam. Đó,
ngay trong nội bo của họ, hai cánh Nam và Bắc cũng tìm
cách bôi nhọ lẫn nhau.
Trí
có vẻ hào hứng:
-
Biết đâu, có ngày hai bên sẽ kình chống nhau thực sự
và một cuộc chiến tranh khác lại nổ ra. Cuộc chiến đó
không còn được gọi là cuộc chiến huynh đệ tương tàn
nữa mà là cuộc chiến “đồng chí tương tàn”, như
cuộc chiến tranh biên giới giữa Liên xô và Trung cộng
trước đây vậy. Tôi cầu mong chuyện đó xảy ra để
chúng ta đứng nhìn cho vui.
Định
ngắt lời:
-
Anh đừng nói thế. Chiến tranh nào thì thường dân vô
tội cũng là nạn nhân đầu tiên. Ba mươi năm loạn lạc
rồi, chưa đủ sao?
*
*
*