Đầu năm 1975, miền Nam
yếu thế một cách rõ rệt. Trong khi Bắc Việt ồ ạt
chuyển quân và vô số trang bị và vũ khí tối tân vào
Nam thì ở bên Mỹ, quốc hội ra sức ngăn cản chính phủ
viện trợ cho Miền Nam. Các bộ phận thay thế của phi
cơ, của chiến xa, chiến thuyền dần dần thiếu hụt;
đạn dược cũng không còn dồi dào như trước. Ưu thế
quân sự thuộc hẳn về đối phương.
Những đơn vị tinh nhuệ nhất
của Việt Nam Cộng hòa được dồn về phòng vệ thủ đô
và chiến tuyến phía Bắc gồm hai tỉnh Quảng trị và
Thừa thiên. Ở những vùng khác lực lượng bảo vệ rất
mỏng. Biết được điều nầy, cộng sản điều động
một quân số rất lớn và tấn công vào thành phố Ban mê
thuột. Dù đã chiến đấu vô cùng anh dũng nhưng các đơn
vị phòng thủ không thể ngăn chận nổi cuộc tấn công
biển người của cộng sản, cộng thêm với sự yểm trợ
rất hữu hiệu của vô số xe tăng, trọng pháo và súng
phòng không.
Ban mê thuột thất thủ, quả tim
của cao nguyên bị Việt cộng chiếm đóng! Dân chúng
hoảng hốt bỏ chạy. Một số nhanh chân đã về được
Nha trang và Sài gòn, một số khác chạy theo những toán
quân bại trận của Việt Nam Cộng hòa và số sau cùng
đành ở lại với cái thành phố vừa được cộng sản
“giải phóng” xong.
Sau khi chiếm được Ban mê thuột
rồi, cộng sản quay sang tấn công vào các thành phố
khác. Không chịu nổi áp lực quá nặng nề nên các lực
lượng phòng thủ đành rút khỏi vùng cao nguyên rộng
mênh mông để về cố thủ vùng đồng bằng. Lập tức
dân chúng bỏ cả nhà cửa, của cải để chạy trốn
cộng sản, tạo nên một cuộc di tản khổng lồ đầy
máu và nước mắt.
Tin tức thảm bại ở Cao nguyên
gây nên sự xúc động rất lớn cho dân chúng thủ đô.
Chính phủ cố gắng trấn an để duy trì các hoạt động
dân sự của một thành phố thuộc loại văn minh nhất
của vùng Viễn đông. Sự cố gắng của chính phủ chỉ
tạo được dáng vẻ bình yên ở bề ngoài thôi, mọi
hoạt động dân sự không còn hiệu quả như trước nữa.
Trong các trường học, nét mặt
các thầy cô đầy vẻ đăm chiêu. Họ không còn hứng thú
để giảng bài trong lớp mà thích tụm năm tụm ba để
bàn bạc với hi vọng nhẹ bớt niềm ưu tư trong lòng.
Tân cũng cùng tâm trạng với các
đồng nghiệp của mình. Trong các năm vừa rồi, lúc nào
Tân cũng tỏ ra ưa thích công việc dạy học, nhưng bây
giờ, đứng trên bục giảng, anh cảm thấy thực chán
chường. Dạy học có mục đích tạo cho bọn trẻ một
tương lai tươi sáng. Nhưng tương lai của những đứa trẻ
trước mặt anh sẽ ra sao đây? Tình hình đã quá đen tối,
cộng sản có thể chiếm được cả miền Nam thì tương
lai của các em không còn là của các em nữa.
Sau hồi chuông tan học, Tân cho
sách vở vào cặp và đứng dậy một cách nghiêm trang. Cả
lớp lập tức đứng dậy theo. Tân đảo mắt nhìn từ
đầu đến cuối lớp. Tất cả im lặng nhìn về phía
trước, những gương mặt thơ ngây vẫn tiếp tục nhìn
cuộc đời bằng cặp mắt hồn nhiên, không cần biết
những gì đang chờ đợi các em trong những ngày sắp tới.
Lạ lùng thay, trong suốt cuộc chiến tranh dai dẳng, miền
Nam vẫn giữ được cho giới trẻ của mình tâm hồn
trong sáng, lạc quan yêu đời.
Tân cố mỉm cười với các em
và bước ra khỏi lớp. Trời đã về chiều, buổi chiều
mùa nắng ở miền Nam rất đẹp. Không khí đã dịu hẳn
sau một ngày nóng nực. Bên trên, bầu trời xanh cao thăm
thẳm, rải rác có những cụm mây trắng lững lờ. Một
ngọn gió nhẹ thổi qua, những chiếc lá của hàng cây
bên vệ đường lả lơi đùa giỡn với với tia nắng
vàng còn lưu luyến sau một ngày dạo chơi trên trần
gian.
Tân đưa xe ra đường cho nổ máy
và phóng nhanh về tổng y viện Cộng hòa. Anh dừng xe, đẩy
lên lề. Người lính trong nhà gác nhìn ra mỉm cười:
- Chào thầy. Thầy vào đây ngồi
nghỉ một chút. Hết giờ rồi nhưng có lẽ cô sẽ ra
trễ.
Tân gật đầu chào và cười đáp
lễ. Người lính gác cổng nầy đã quá quen thuộc đối
với anh. Đó là một binh nhì còn trẻ tuổi có gương mặt
sáng sủa và dễ thương. Tân dựng xe, bước đến gần.
Anh đứng một lát rồi hỏi người lính:
- Hôm nay chắc bận họp bất
thường nên vợ tôi ra trễ phải không?
- Không, chẳng họp hành gì đâu
nhưng công việc nhiều lắm vì từ sáng đến giờ, trực
thăng rồi xe cứu thương chở thương binh về quá nhiều.
Đánh lớn khắp nơi, nhất là trong cuộc di tản từ
Pleiku về Tuy hòa, quân đội và dân chúng chết và bị
thương nhiều lắm. Bệnh viện quân sự và dân sự ở
Tuy hòa chứa không hết phải chuyển bớt vào Nha trang và
tuốt về đây. Mọi người việc tất bật suốt ngày
đêm. Nhiều bác sĩ và y tá trong phòng giải phẫu làm
việc liên tục, bỏ cả cơm trưa, có người mệt quá gần
ngất xỉu phải ra bên ngoài ngồi thở vài phút rồi trở
vào làm việc tiếp.
Người lính dừng lại nhìn vào
trong và nói như reo lên:
- Kìa, cô ra rồi kìa.
Tân bước qua cổng, nhìn vào
trong. Trên con đường tráng nhựa, giữa hai hàng cây cao,
Thùy Liên đang bước đi vội vã, nét mặt nàng bơ phờ
vì mệt nhọc nhưng cũng cố nở nụ cười với chồng.
Tân cầm tay vợ, âu yếm:
- Em mệt lắm phải không?
Nàng gật đầu và hỏi lại:
- Anh đến lâu chưa?
- Gần nửa giờ. Nghe người lính
gác nói hôm nay có rất nhiều việc, anh nghĩ rằng phải
đợi em lâu hơn nữa.
- Nhiều lắm, mọi người làm
việc suốt ngày và ở lại đêm, nhưng vì em có con nhỏ
nên nhiều người hối thúc em về trước để lo cơm nước
cho con.
- Thương binh về nhiều lắm phải
không?
Thùy Liên gật đầu, nét hãi
hùng thoáng qua đôi mắt:
- Nhiều lắm, khiếp lắm.
- Nhưng, em làm ở kho thuốc đâu
có tiếp xúc với thương binh.
- Hôm nay tổng y viện điều động
tất cả nhân viên đến săn sóc thương binh.
Nàng lắc đầu rồi nói tiếp:
- Không phải chỉ có thương binh
mà có cả dân thường nữa. Bị thương trên đường số
Bảy khi di tản từ Cao nguyên về Tuy hòa. Trực thăng tải
thương bốc hết tất cả người bị thương không kể
lính hay dân, đông quá, chẳng còn có thể phân biệt được
nữa. Mà lính hay dân cũng đều là nạn nhân của chiến
tranh, nạn nhân của cộng sản cả. Trưa nay có một đứa
bé gái năm tuổi chết trên tay em. Ba ngày rồi, nó chịu
đựng vết thương do đạn pháo của Việt cộng, đến
trưa nay thì nó không còn sức chịu đựng nữa. Khi nó
chết, không có cha mẹ hay anh chị em nào bên nó. Nó nắm
chặt tay em rồi buông ra và trút hơi thở cuối cùng.
Thùy Liên ngưng nói, nghẹn ngào.
Tân quay sang nhìn đôi mắt ướt của nàng:
- Thôi, chúng mình về.
Hai người lẳng lặng đi qua
cổng, cúi chào người lính gác và lên xe. Họ ghé chợ
chiều ở Phú nhuận mua một ít thức ăn rồi đến đón
hai đứa con về nhà.
Trong khi Tân lo tắm rửa cho hai
đứa bé thì Thùy Liên vào bếp nấu nướng cho bữa ăn
tối. Không khí đầm ấm của gia đình làm cho tâm tư của
hai vợ chồng dịu lại. Tiếng cười trong trẻo, giọng
nói dễ thương của hai đứa trẻ có mãnh lực đẩy lùi
nỗi ưu tư của cha mẹ chúng. Trẻ em là thiên thần hiện
ra trên trần thế để làm vơi đi sự đau buồn của con
người. Tuy nhiên, ở mảnh đất miền Nam nầy, các thiên
thần nhiều khi cũng không thoát khỏi viên đạn của
những kẻ nhân danh là người đi giải phóng cho đồng
bào mình.
Bữa cơm đã dọn lên, cả nhà
quây quần vui vẻ. Như thường lệ, sau bữa cơm, mọi
người ngồi sau màn hình máy vô truyến và một lát sau,
ba mẹ con vào phòng ngủ trong khi Tân ngồi làm việc một
mình ở phòng ngoài đến khuya.
Đêm nay, Tân dự định chấm cho
xong mấy xấp bài làm để kịp có điểm hàng tháng cho
các lớp. Tuy nhiên anh không tập trung được tư tưởng
nên không hiểu được học sinh viết gì trong bài làm của
chúng. Tân đứng dậy, ra ngồi ngoài hàng hiên, khép cửa
lại và móc thuốc ra hút trong bóng tối lờ mờ. Dạo nầy
thành phố đi ngủ sớm vì giờ giới nghiêm tăng lên, các
vũ trường, các nơi giải trí về đêm đều đóng cửa.
Tình hình chiến sự bi đát làm đầu óc mọi người căng
thẳng hoặc lo buồn nên những trò giải trí và trụy lạc
không còn thích hợp nữa.
Mới mười giờ mà ngoài đường
đã vắng tiếng xe cộ, trong xóm hoàn toàn im lặng, hầu
hết mọi nhà đều đóng cửa tắt đèn. Tân ngồi yên,
hút xong điếu thuốc thứ hai và vứt mẩu thuốc thừa
vào góc hàng hiên thì nghe có tiếng bước nhè nhẹ trong
nhà.
Cánh cửa mở ra, Tân không quay
lại vì biết Thùy Liên sau lưng mình. Nàng mang ra một
chiếc ghế nhỏ, khe khẽ đặt xuống và ngồi cạnh
chồng. Tân nắm lấy bàn tay mềm mại của vợ siết nhè
nhẹ trong hai tay của mình:
- Em còn thức à? Các con ngủ
chưa?
- Em không ngủ được. Các con
đang ngủ say. Sao anh không làm việc mà ra ngồi đây?
- Anh mang mấy xấp bài của học
trò ra chấm nhưng đọc lui đọc tới có một đoạn ngắn
mà không hiểu đúng hay sai nên đành thôi. Để đó, sáng
mai anh dậy sớm giải quyết cho xong. Với tình hình chiến
sự thế nầy, không biết còn dạy được đến khi nào.
Thùy Liên không trả lời, ngồi
im lặng vài phút rồi bỗng nói:
- Anh Tân, hôm nay, em gặp một
chuyện muốn nói cho anh nghe nhưng ngại anh buồn.
- Em cứ nói đi. Em không nói thì
anh cũng buồn sẵn rồi. Chuyện gì vậy?
- Chuyện liên quan đến cuộc di
tản từ Pleiku về Tuy hòa.
- Anh biết rồi và khi chiều em
đã kể cho anh nghe về cái chết của đứa bé gái năm
tuổi. Có phải chuyện đó không?
- Không, chuyện em muốn nói có
liên quan đến anh Thảo.
Tân giật mình quay lại, nắm lấy
vai Thùy Liên:
- Anh Thảo? Trung tá Thảo biệt
động quân?
- Anh Thảo, bạn thân của anh chớ
còn ai nữa.
Tân hỏi đồn dập:
- Anh Thảo thế nào? Bị thương
hay là….
Thùy Liên lắc đầu:
- Không, anh Thảo chẳng bị sao
cả.
- Nhưng tại sao em gặp anh Thảo
trong tổng y viện Cộng hòa?
Thùy Liên phì cười:
- Em nói gặp anh Thảo trong tổng
y viện hồi nào?
- Thế thì anh Thảo đang ở đâu?
- Em đâu có biết hiện giờ anh
ấy đang ở đâu. Nhưng em biết anh ấy đã tham gia đoàn
di tản khỏi cao nguyên và đã đến Tuy hòa bình yên. Thế
thôi.
- Nhưng sao em biết?
- Trong số thương binh đưa về
tổng y viện có một thiếu úy biệt động quân bị đạn
pháo mất cả hai chân. Thiếu úy đó cũng tên là Thảo
thuộc liên đoàn biệt động quân do anh Thảo chỉ huy.
- Nhưng tại sao em biết?
- Anh đừng nóng, để thủng
thẳng em kể cho anh nghe. Sau khi em thay băng cho thiếu úy
Thảo xong định sang giường khác thì chợt thấy thiếu
úy nhìn xuống hai chân mình và hai giọt nước mắt lăn
ra khỏi khoé mắt. Em sững sờ vài giây rồi bước đến
đầu giường gỡ tấm bảng ra đọc: “Thiếu úy Trần
Hiếu Thảo, sinh ngày 28 tháng 2, năm 1954”. Nghĩa là vừa
tròn hai muơi mốt tuổi và ngày mai là ngày sinh nhật của
Thảo. Đúng vào trước ngày sinh nhật, Thảo nằm ứa
nước mắt khi biết đã vĩnh viễn hi sinh hai chân mình
cho nền tự do của miền Nam. Em cảm động suýt khóc nên
không vội bỏ đi. Em kéo ghế ngồi lại để hi vọng an
ủi được chút nào nỗi đau buồn của người sĩ quan
trẻ tuổi đáng thương nầy. Em hỏi Thảo về cha mẹ,
anh chị em, Thảo lắc đầu không chịu nói. Có lẽ Thảo
không muốn nhắc đến những người thân vì e sợ không
cầm lòng được mà bật khóc thì không xứng đáng với
tư cách của người chiến sĩ được mang từ mặt trận
về. Nhưng khi em hỏi về đơn vị, đồng đội và những
trận đánh thì Thảo vui vẻ trả lời. Em bảo rằng mình
có một người bạn thân là sĩ quan biệt động quân và
cũng tên là Thảo, cấp bậc trung tá thì thiếu úy Thảo
bỗng ngẩng đầu như muốn bật dậy. Cậu ta nằm xuống
rên rỉ vì động tới vết thương nơi hai chân bị cưa
cụt tới gối. Cậu nhắm mắt lại, mặt nhăn nhúm, mồ
hôi rịn ra trên trán, hơi thở dồn đập. Em hoảng quá
định chích cho cậu một mũi thuốc giảm đau thì Thảo
mở mắt ngăn em lại, miệng méo xệch vì một nụ cười
cố gắng. Em vẫn ngồi yên nhìn gương mặt người bệnh
nhân để theo dõi và yên tâm khi nét mặt, hơi thở và
nhịp tim trở lại bình thường. Cuối cùng rồi cậu mở
mắt ra và mỉm cười. Nụ cười bây giờ khá tươi. Cậu
hỏi tên em, hỏi thăm anh và hai con rồi nói: “Trung tá
Thảo là sếp của em. Trung tá là một sĩ quan tuyệt vời,
một người anh cả hết sức xứng đáng của liên đoàn.
Em chỉ được gặp trung tá vài lần thôi nhưng em rất
kính mến qua cách đối xử của trung tá với cấp dưới
của mình”. Cậu ấy cũng kể thêm rằng, dưới sự chỉ
huy của anh Thảo, liên đoàn đã góp công rất lớn để
bảo vệ cho đoàn di tản về tới Tuy hòa.
Tân không còn kiên nhẫn để
nghe Thùy Liên kể dài dòng nữa. Anh ngắt lời:
- Em ạ, cái cậu thiếu úy đó
có nói hiện nay anh Thảo ở đâu không?
- Em có hỏi nhưng cậu ấy bảo
rằng không biết. Cậu ấy kể rằng, khi ra khỏi Cung sơn
và về còn cách Tuy hòa lối một hai chục cây số, liên
đoàn được lệnh nằm lại để chận một sư đoàn quân
cộng sản Bắc Việt, mấy hôm rồi đuổi theo đoàn và
có thể nhân dịp tràn xuống thị xã Tuy hòa. Sư đoàn
cộng sản bị liên đoàn biệt động quân chận đứng
không tiến quân được nên chúng cho đại pháo bắn vào
phòng tuyến biệt động quân một cách dữ dội. Chính
lúc đó thiếu úy Thảo bị trúng đạn và được trực
thăng bốc đi. Cậu ấy quả quyết với em rằng trung tá
Thảo vẫn bình yên. Em vặn hỏi tại sao lại quả quyết
như thế thì cậu ấy không trả lời được. Thấy cậu
có vẻ mệt, em bảo nằm nghỉ, rồi từ giã để sang săn
sóc người khác.
Thùy Liên thở dài chép miệng:
- Không biết cha mẹ anh chị em
cậu ấy ở đâu để báo tin.
Tân ngồi im, chìm đắm trong nỗi
buồn cùng cực. Hồi lâu, anh khẽ nói:
- Thùy Liên!
- Dạ.
- Sáng mai, trên đường đi, anh
ghé mua một món quà sinh nhật.
Thùy Liên ngạc nhiên:
- Quà sinh nhật cho ai?
Nhưng nàng chợt hiểu, vội nói
tiếp:
- Quà sinh nhật cho thiếu úy Thảo
phải không anh? Anh Tân, anh làm như thế là phải. Cậu ấy
là sĩ quan của anh Thảo, bạn thân của chúng mình mà.
Giọng nàng bỗng trở nên nghẹn
ngào:
- Cậu ta chỉ mới hai mươi mốt
tuổi thôi. Sau nầy khi vết thương lành, cậu ta sẽ không
còn ra chiến trường, không còn được tung tăng, đi đây
đi đó nữa. Không biết anh Thảo có được bình yên như
cậu ấy nói hay không. Sao anh không nói với anh Thế tìm
cách hỏi xem sao. Ở tổng tham mưu, có lẽ người ta biết
nhiều tin tức của các đơn vị đang tham chiến.
- Lâu lắm rồi, anh không gặp
anh Thế. Tình hình quá nguy hiểm nên anh ấy phải ở luôn
trong tổng tham mưu.
- Chị Mai bảo rằng, một vài
ngày, anh ấy về thăm nhà độ năm mười phút rồi lại
đi. Anh ấy không kịp nói gì cả nhưng cứ trông nét mặt
lo lắng của chồng là chị Mai đoán biết tình hình nguy
ngập lắm rồi.
Thùy Liên ngưng một chút để
suy nghĩ rồi nói tiếp:
- Sáng mai trên đường đưa con
đi học, mình ghé qua gặp chị Mai một chút để nhờ chị
nhắn vào tổng tham mưu nói với anh Thế hỏi thăm tin tức
liên đoàn của anh Thảo.
- Phải rồi chỉ còn cách đó
thôi.
Tân nói xong đứng dậy, hai vợ
chồng vào nhà đi ngủ.
Sáng hôm sau, như dự tính, Tân
chở vợ con đến nhà Bạch Mai rất sớm, đưa bé Hòa
Bình đến nhà giữ trẻ, bé Thùy Dung đến trường tiểu
học, chở Thùy Liên đến tổng y viện rồi mới đến
trường. Không khí học đường vẫn tiếp tục uể oải,
thầy cô chểnh mảng trong việc dạy, học sinh thích thú
vì được ngồi chơi nhiều hơn là học hành căng thẳng.
Buổi chiều, Tân thở phào khi
trống tan trường đổ liên hồi. Anh ra khỏi trường,
chạy xe ngay đến tổng y viện Cộng hòa. Thùy Liên đã
ngồi sẵn ở nhà gác cổng để đợi chồng.
Về đến nhà Tân ngạc nhiên
thấy một mảnh giấy trắng cuộn tròn nhét vào ổ khóa.
Anh rút giấy ra, đọc vội vã:
“Anh Tân và Thùy Liên sang nhà
ngay, có anh Thảo về. Bạch Mai.”
Tân trao mảnh giấy cho vợ và
vội vàng trở đầu xe ra đường, chở cả vợ và hai con
sang nhà Bạch Mai. Anh vừa dừng xe thì từ trong nhà vang
ra tiếng reo to của Bạch Mai:
- Anh Tân và Thùy Liên đến rồi
kìa.
Thảo bước ra, oai vệ trong bộ
quân phục biệt động quân, hai bông mai bạc lấp lánh
trên ngực. Hai người bạn siết chặt tay nhau. Tân vội
hỏi:
- Anh về đây từ lúc nào?
- Tôi về đến Sài gòn trưa nay.
Thu xếp xong việc là vào tổng tham mưu tìm anh Thế ngay.
Tôi biết các bạn mong tin tôi lắm phải không?
Tân gật đầu, Thùy Liên đáp
lời thay cho chồng:
- Anh Tân quay quắt khi biết liên
đoàn của anh tham dự cuộc di tản từ cao nguyên về đồng
bằng.
Thảo ngạc nhiên:
- Sao các bạn biết?
Thùy Liên không trả lời ngay mà
hỏi lại:
- Trong liên đoàn anh, có một cậu
thiếu úy cùng tên Thảo phải không?
Thảo nhíu mày:
- Phải, thiếu úy Thảo, trung đội
trưởng, còn trẻ lắm, bị thương trên một ngọn đồi
dẫn vào thị xã Tuy hoà. Chị có bà con với thiếu úy
Thảo à?
- Không, thiếu úy ấy được đưa
về tổng y viện Cộng hòa, và mất cả hai chân.
Thảo tái mặt:
- Trời hỡi!
Thảo thở dài và nói tiếp:
- Lúc nó bị thương thì tôi đang
ở trên một cao điểm khác và đang nhìn mấy chiếc xe
tăng của Việt cộng bị lính của tôi bắn cháy, khói
lên nghi ngút. Tội nghiệp, nó còn trẻ quá. Tôi để ý
đến nó nhiều hơn các sĩ quan khác vì lúc nó về trình
diện tôi cách nay khoảng một năm rưỡi, nhìn cái mặt
non choẹt của nó mang lon chuẩn úy ai cũng tức cười.
Không ngờ, sau đó ai cũng phải nể vì sự gan dạ và tài
chỉ huy trung đội của nó. Tôi mới gắn lon thiếu úy
cho nó tháng trước đây. Nó đã cho chị Liên biết tôi
là cấp chỉ huy của nó phải không?
Thùy Liên cười:
- Thiếu úy đã khen anh cũng như
vừa rồi anh khen thiếu úy đó vậy. Hôm nay là sinh nhật
của cậu ấy nên sáng nay anh Tân có gởi một hộp bánh
vào làm quà. Anh ấy cảm động đến rưng rưng nước
mắt.
Trung tá Thảo cũng tỏ ra xúc
động:
- Cám ơn anh chị đã có lòng tốt
đối với một sĩ quan bất hạnh của liên đoàn chúng
tôi.
Bạch Mai bước ra nói to:
- Xin mời tất cả vào nhà nói
chuyện, cơm dọn sẵn rồi. Vừa ăn vừa chuyện trò cũng
được.
Mọi người vội đi vào và ngồi
chung quanh bàn ăn. Thiếu tá Thế nói một cách trịnh
trọng như một lời khai mạc:
- Hơn hai tháng rồi, chúng ta
không có dịp dùng cơm chung với nhau vào chiều thứ bảy
như trước kia.
Bạch Mai cướp lời chồng, giọng
có vẻ hờn dỗi:
- Em cũng nhớ những bữa cơm
thân mật như thế nầy lắm nhưng anh cứ phải trực
trong bộ tổng tham mưu, chẳng mấy khi về nhà cho được
lâu. Bây giờ, trại lính là nơi ở chính thức của anh
rồi, ngày làm việc trong đó, đêm cũng ngủ lại luôn.
Thế nhìn vợ:
- Anh đâu có muốn như thế. Nằm
chèo queo một mình trên cái giường sắt nhà binh thì có
sung sướng gì. Có hôm mơ màng đưa tay sờ trúng một cái
gì đó, tưởng là cánh tay của vợ vội hôn một cái,
giật mình vì cánh tay sao mà lạnh toát và cứng đờ.
Định thần lại mới biết là đang ôm chặt cây súng M16
chứ không phải là tay của vợ.
- Anh quỉ nầy, ăn nói bậy ba,
không sợ bạn bè cười cho sao?
Bạch Mai vừa nói, vừa đấm vào
vai chồng trong khi mọi người cười ha hả.
Thảo quay sang hỏi:
- Lệnh cấm trại có từ lúc
nào, có phải từ lúc mất Ban mê thuột hay không?
- Không, trước nữa, từ khi Việt
cộng chiếm được tỉnh lỵ Phước long, ngay sau Tết.
Hơn hai tháng rồi, từ đó đến nay, tình hình càng này
càng tồi tệ hơn.
Thùy Liên đột ngột lên tiếng
hỏi Thảo:
- Khoan nói đến tình hình đã.
Chúng em muốn biết tại sao hôm nay chúng em được gặp
anh ở đây. Rồi chừng nào anh phải lên đường và đi
về đâu?
- Sáng mai tôi phải ra phi trường
rất sớm để về Nha trang. Liên đoàn tôi đang đóng tạm
ở gần đèo Rù rì.
Bạch Mai nói:
- Nghe nói chuyến di tản khỏi
cao nguyên khủng khiếp lắm và được một đài phát
thanh ngoại quốc gọi là cuộc rút lui đầy máu và nước
mắt. Anh tham dự từ đầu đến cuối, kể lại cho chúng
tôi nghe đi.
- Dạ, khiếp đảm và đau đớn
lắm. Tôi chỉ có thể kể sơ lược thôi vì không có
nhiều thì giờ. Trước đó liên đoàn biệt động quân
của tôi đang trấn giữ phía bắc Pleiku để bảo vệ cho
bộ tư lệnh quân đoàn Hai, thì nhận được tin Ban mê
thuột bị tấn công dữ dội. Chúng tôi được quân đoàn
cho lệnh chuẩn bị đi tiếp viện cho sư đoàn Hai mươi
ba ở Ban mê thuột nhưng chưa kịp xuất phát thì Ban mê
thuột thất thủ. Rồi sau đó ít lâu, chúng tôi nhận
được lệnh di chuyển về đồng bằng. Lúc đầu, tôi cứ
tưởng đó là lệnh chuyển quân bình thường. Biệt động
quân là lực lượng cơ động có nhiệm vụ tăng viện
cho các sư đoàn bộ binh ở những điểm nóng của chiến
trường nên chúng tôi nhận lệnh di chuyển một cách bình
thản. Không ngờ, ở Pleiku và các quận lỵ, dân chúng
bỗng náo loạn, tình hình đột nhiên sôi lên sùng sục.
Tôi hỏi thăm các đơn vị bạn thì tất cả có lệnh di
chuyển. Lúc đó chúng tôi mới biết là chính phủ quyết
định rút bỏ Cao nguyên để về cố thủ ở đồng bằng.
Từ vài tháng nay, có tin đồn, chúng ta đề nghị nhượng
cho Việt cộng một vài vùng để đổi lấy hòa bình cho
dân hết đau khổ, nhưng cộng sản Bắc Việt không chịu,
nhất định đòi chiếm hết miền Nam. Sau đó thì lại có
tin đồn chính phủ buộc phải bỏ phần lớn vùng Một
và vùng Hai Chiến thuật, để về cố thủ vùng Ba và
Vùng Bốn. Nay lệnh rút quân đi khỏi cao nguyên rất phù
hợp với tin đồn. Thế là dân chúng trở nên hoảng loạn
vì họ biết rằng không bao lâu nữa, mảnh đất mà họ
đang sinh sống sẽ rơi vào tay cộng sản. Thực là đáng
thương! Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng mới thấy được
lòng người. Bình thường, dân chúng chẳng tỏ dấu hiệu
gì chứng tỏ họ sợ hãi và thù ghét cộng sản, nhưng
đến khi đứng trước nguy cơ phải sống chung với cộng
sản thì họ hoảng hốt và tìm cách bỏ chạy với bất
cứ giá nào.
Thảo ngừng nói, gắp thức ăn
nhai một cách ngon lành. Mọi người im lặng chờ đợi,
anh kể tiếp:
- Sau khi Ban mê thuột thất thủ,
tôi có bắt đài phát thanh Hà nội, nghe chúng nó bảo
rằng toàn thể nhân dân Ban mê thuột đã tự động đứng
lên hân hoan đón tiếp quân giải phóng để hợp đồng
tác chiến. Nghe chúng nó tuyên truyền kiểu đó, tôi tức
đến cái độ muốn kéo hết quân ra Hà nội để đánh
một trận cho đã nư. Bây giờ, nhìn thấy cảnh đồng
bào mình hớt hơ hớt hải vì lo sợ cộng sản sắp vào
đây rồi nghĩ đến vài hôm nữa, đài Hà nội và đài
Giải phóng lại bảo rằng nhân dân hồ hởi đón tiếp
bộ đội, tôi gần như phát điên lên và muốn chống lại
lệnh di chuyển của quân đoàn, ở lại đây liều chết
với cộng sản một phen. Tuy nhiên, đó chỉ là ý nghĩ
thầm kín và riêng tư mà thôi, chứ làm sao dám hành động
ngược với mệnh lệnh được. Mình là sĩ quan quân đội,
lại phải chịu trách nhiệm với một khối sĩ quan, hạ
sĩ quan, binh sĩ trong liên đoàn. Sau đó, tôi được lệnh
về họp với bộ tư lệnh quân đoàn và được giao nhiệm
vụ bảo vệ đoàn di tản nếu bị Việt cộng tấn công
và truy kích. Tôi đinh ninh là chúng ta sẽ rút đi bằng
quốc lộ Mười chín là con đường gần nhất từ Pleiku
đến Qui nhơn. Con đường nầy thì tôi đã quen đi lắm
rồi. Đường khá tốt, trong chiến tranh vẫn thường
xuyên được tu bổ vì đó là đường bộ huyết mạch mà
quân đoàn Hai dùng liên lạc với các tỉnh vùng đồng
bằng. Giữa quãng đường lại có thị trấn An khê, một
vị trí đồn trú khá vững chắc của quân đội chính
qui và địa phương quân. Tuy nhiên, khi ông tướng tư lệnh
chỉ lên bản đồ thì mới biết rằng chúng ta không rút
quân bằng đường Mười chín mà rút bằng đường số
Bảy để về Tuy hòa.
Tự nãy giờ, Tân lắng tai nghe.
Đến đây, anh ngạc nhiên phải lên tiếng:
- Tại sao lại chọn đường số
Bảy? Theo tôi biết, đường nầy rất xấu, hình như từ
lâu không dùng nữa.
Thảo ngạc nhiên:
- Anh biết đường số Bảy à?
- Có, tôi có biết vì đã từng
đi từ Tuy hòa đến Cung sơn.
- Đúng rồi, lúc sư đoàn Chín
còn ở vùng Hai chiến thuật thì con đường đó vẫn còn
sử dụng để liên lạc với Cung sơn, Phú túc và Phú
bổn. Tuy nhiên, sau đó thì con đường nầy bị bỏ phế
luôn. Hơn mười năm rồi mặt đường và tất cả cầu
cống đã bị lũ cuốn trôi hết.
- Thế tại sao lại rút bằng
đường nầy?
- Con đường đó hư hỏng hoàn
toàn. Chúng ta sử dụng nó vì đó là yếu tố bất ngờ
đối với Việt cộng. Chúng ta cần tránh đụng độ trực
tiếp với lực lượng của chúng. Lúc bây giờ cộng sản
đang tập trung tại đó đến ba sư đoàn đầy đủ quân
số và trang bị toàn vũ khí tối tân lại được sự yểm
trợ của rất nhiều xe tăng và đại pháo.
- Nhưng quân đoàn Hai cũng có hai
sư đoàn và nhiều liên đoàn biệt động quân.
- Đúng, quân đoàn Hai có hai sư
đoàn nhưng đóng rải rác ở các tỉnh, trong đó sư đoàn
Hai mươi ba gần như tan rã sau khi Ban mê thuột thất thủ.
Vì vậy, lực lượng Việt cộng tập trung trong vùng, đông
và mạnh gấp năm đến sáu lần chúng ta. Mặt đối mặt,
chúng ta không thể chống cự lại được. Vì vậy chúng
ta phải lánh mặt được lúc nào thì hay lúc đó.
Tân thở ra một hơi dài, có vẻ
bất mãn:
- Mang danh là một quân đoàn của
một quân đội có tiếng thiện chiến mà rút lui như một
cuộc trốn chạy nhục nhã thế sao? Đã vậy thì còn chọn
đường số Bảy làm chi nữa. Cứ tuôn vào trong rừng mà
chạy. Rừng núi cao nguyên bạt ngàn, ta lủi vào trong đó
thì địch biết đâu mà tìm.
Nghe chồng nói, Thùy Liên sửng
sốt, quay sang nhìn rồi nói to:
- Anh Tân, sao anh lại nói như
thế? Anh Thảo vừa thoát khỏi cái chết để về đây
thăm mình mà anh lại phê phán nặng nề như thế. Anh
không sợ làm anh Thảo buồn và giận sao?
Trung tá Thảo mỉm cười một
cách độ lượng:
- Không sao đâu chị Thùy Liên.
Anh Tân nói như thế là còn nghĩ đến cái danh dự của
một quân đội đang chiến đấu cho nền tự do của miền
Nam. Anh Tân nói đúng, cuộc di tản vừa rồi đúng là một
cuộc trốn chạy nhục nhã. Mãi mãi về sau nầy, khi nhắc
đến cuộc di tản đó, chắc chắn những người có tâm
huyết vẫn còn thấy đau lòng. Tuy nhiên sự nhục nhã đó
có lý do để biện minh được.
Bạch Mai bỗng lên tiếng:
- Đó là hộ tống khối đồng
bào vô tội cùng tham gia vào cuộc di tản phải không?
Thảo mừng rỡ:
- Đúng vậy, chị Thế nói đúng.
Chúng ta trốn tránh cộng sản chỉ vì phải cưu mang cả
hai trăm ngàn thường dân sợ sống chung với cộng sản
và quyết tâm đi theo chúng ta. Họ bỏ tất cả tài sản
dành dụm trong suốt cả cuộc đời cần lao và mang cả
sinh mạng ra đổi lấy một cuộc sống trong vùng tự do.
Dù phải chịu một vạn lần nhục nhã để bảo vệ được
họ thì quân đội chúng ta cũng phải cam tâm.
Giọng của Thảo như rít lên rồi
bỗng trầm xuống và nín bặt trong cảm xúc. Tân quay sang
nhìn bạn:
- Anh Thảo, tôi thành thật xin
lỗi anh.
Thảo lấy lại nét mặt bình
thản:
- Không, anh chẳng có lỗi gì cả.
Anh và Bính là hai người bạn thân nhất và đáng quí
nhất của tôi trên đời nầy. Anh là người có tâm hồn
ngay thẳng và chân thật. Tôi rất thích những lời nói
thẳng của anh. Trước đây anh đã hoạt động cho cộng
sản vì lòng yêu nước của tuổi trẻ, có đúng không
nào? Và cũng chính vì sự ngay thẳng của tâm hồn mà anh
nhận ra bản chất của người cộng sản để từ bỏ,
có đúng vậy không? Những con người như anh, một khi đã
suy nghĩ chín chắn và dứt khoát theo con đường nào thì
đó phải là con đường của chính nghĩa. Tôi rất mến
anh và hãnh diện là bạn thân của anh. Anh là người dứt
khoát từ bỏ chủ nghĩa cộng sản vì đã hiểu chủ
nghĩa nầy. Tôi là người vượt biên để xa lánh vùng
đất của cộng sản sau khi đã chứng kiến tận mắt
hành vi của chúng. Chúng ta đã gặp nhau ở miền Nam nầy,
đã cùng đổ mồ hôi trong quân trường và đã cầm súng
để gìn giữ nền tự do cho nửa phần còn lại của Tổ
quốc. Vì vậy, hiện nay và mãi mãi sau nầy, anh vẫn là
người bạn quí nhất của tôi.
Thiếu tá Thế ngắt lời:
- Tôi rất hoan nghênh tình bạn
của hai anh. Bây giờ, anh Thảo hãy tiếp tục nói cho tôi
nghe về cuộc di tản đi. Ở tổng tham mưu, tôi có dịp
đọc các công điện và bản tin để biết được toàn
bộ sự việc nhưng không thích bằng nghe chính người
trong cuộc kể lại.
Thảo cười, cố lấy giọng khôi
hài để làm cho không khí nhẹ nhàng hơn:
- Xin tuân lệnh thiếu tá. Tôi
đang nói gì nhỉ? À, nói về việc theo đường số Bảy
để trốn chạy vì phải mang theo đồng bào. Nếu chỉ có
quân đội mà thôi thì, đúng như lời anh Tân, chúng tôi
có thể băng rừng vượt núi mà đi. Mà cũng chẳng cần
băng rừng vượt núi. Cứ đi theo đường nào thuận tiện
nhất. Địch có chận lại thì đánh, đánh xong thì đi
tiếp, thế thôi. Còn có đồng bào đi theo thì không thể
được.
Thùy Liên ngắt lời:
- Nhưng nếu trong đoàn di tản có
thường dân thì cộng sản cũng phải nương tay để tránh
đổ máu cho người vô tội chứ.
Thảo cười khẩy:
- Chị Liên nhầm rồi. Cộng sản
không hề nương tay chút nào cả đối với những người
không chịu sống chung với chúng dù đó là những người
không có một tấc sắt trong tay. Lập trường “ta, bạn,
thù” của cộng sản thì rất rõ. Theo họ là bạn còn
không theo họ là thù, không còn nghi ngờ gì nữa. Chị
Liên không tin à? Đây nầy bằng chứng rõ ràng. Khi dân
chúng ở Pleiku nghe tin quân đội mình bỏ cao nguyên thì
họ nhốn nháo, nhà nào cũng tháo gỡ đồ đạc ầm ầm
nhưng rốt cuộc quăng lại hết, chỉ mang một ít áo
quần, tiền bạc nữ trang cùng lương thực. Ai có xe hai,
bốn bánh thì đi xe, ai không có xe thì đi bộ. Nhưng chạy
đi đâu? Loanh quanh trong thành phố. Lên phi trường thì
phi trường ngưng hoạt động lại lộn về. Đến khi có
tin theo quốc lộ Bảy về Phú bổn thì người ta ùn ùn
chạy về phía đó. Một đoàn xe hai bánh của dân thường
vọt đi trước được một đoạn đường thì gặp một
toán du kích Việt cộng chận lại và xả súng bắn làm
nhiều người ngã gục.
Giọng Thùy Liên run run vì sợ
hãi:
- Di chuyển cả quân đoàn mà
không có kế hoạch mở đường để cho một nhóm du kích
đánh chận hay sao?
- Có chứ. Theo kế hoạch thì
liên đoàn của tôi cùng hai tiểu đoàn công binh chiến
đấu đi mở đường, vừa đảm bảo an ninh, vừa bắt
cầu tạm cho đoàn đi sau nhưng chưa kịp xuất phát thì
một số đồng bào chạy trước và lâm nạn. Khi nghe tin,
chúng tôi vội đến tiếp cứu, đánh đuổi ngay bọn du
kích dã man, gọi trực thăng chở những người bị thương
về Tuy hòa, còn những người chết thì đành vùi xuống
bên vệ đường. Cuộc hành quân quân rút lui dự trù hoàn
tất trong hai đến ba ngày nhưng không ngờ đoàn người
chạy theo quá đông, ước lượng phải đến hai trăm
ngàn. Số xe có thể lên đến mười ngàn chiếc kể cả
quân xa. Đoàn người lại là dân thường trong cơn hoảng
loạn nên chẳng thế nào chỉ huy được họ. Họ chen lấn
xô đẩy nhau, giành lên bất cứ xe nào có thể lên được.
Rồi nhiều người bị đẩy xuống, ngã lăn trên đường
cùng gạo cơm mắm muối làm cản trở và tắt nghẽn giao
thông. Thực là một thảm cảnh cùng cực. Nhưng thảm
cảnh không dừng tại đó.
Thảo dừng lại uống nước và
nói tiếp:
- Như tôi đã nói khi nãy, trong
vùng chung quanh Pleiku, cộng quân đang tập trung ba hay bốn
sư đoàn nhưng chúng không ngờ chúng ta rút lui theo đường
số Bảy nên không có phản ứng gì trong hai ngày đầu
tiên. Nhưng đến ngày thứ ba thì bộ đội cộng sản
rượt kịp. Từng đợt một, chúng bắn xối xả vào đoàn
di tản. Những loạt đạn đại pháo chế tạo từ Liên
xô và Trung cộng rót một cách chính xác vào đoàn người.
Tiếng bom đạn hòa lẫn với tiếng khóc, tiếng gào thét
của đàn bà con nít. Máu chảy ngập cả đường đi, thây
người ngã xuống chồng chất lên nhau. Người chết, gần
như toàn bộ là dân thường, đa số là đàn bà, ông già
bà cả và trẻ con vì họ không hề biết tránh đạn như
bọn quân nhân chúng mình. Liên đoàn chúng tôi đang đi mở
đường thì được lệnh trở lui để tiếp cứu. Nhìn
thấy những xác chết của đồng bào, đa số là ông bà
già và trẻ em trên đường, máu trong huyết quản biệt
động quân của chúng tôi sôi lên. Chúng tôi xông vào
rừng đánh bọc vào cạnh sườn một cánh quân của Việt
cộng. Chúng tôi lao vào tàn sát để trả thù cho đồng
bào, làm cho bọn chúng đông hơn gấp bội mà đành phải
rút lui. Sau đó, chúng tôi được lệnh nằm lại để bảo
vệ cho đoàn cuối cùng đi qua. Các bạn thấy chưa, cộng
sản đi “giải phóng” miền Nam như thế đó!
Thùy Liên lấy khăn lau mồ hôi
trên trán còn Bạch Mai cúi đầu thở dài. Thiếu tá Thế
hỏi:
- Nghe nói đã có xảy ra một số
vụ cướp bóc và hãm hiếp do lính biệt động quân phải
không?
- Khi về đến Tuy hòa, tôi có
nghe chuyện đó. Tôi hỏi bên quân cảnh thì họ nói có
cướp bóc chứ không có hãm hiếp. Quân cảnh bắt được
vài tên là biệt động quân biên phòng, thứ lính bậy bạ
mới sát nhập vào binh chủng chúng tôi, và số đông hơn
là bọn tù ở Pleiku, tự phá khám ra và lấy được áo
quần biệt động quân trong kho mà chúng ta chưa kịp phá
hủy. Quân cảnh bắn chết mấy tên ngay tại chỗ thì mới
ngăn chận được hành vi cướp bóc của chúng nó.
Thảo thở dài và nói tiếp:
- Tôi đã từng chứng kiến biết
bao cái chết nhưng chưa có cảnh nào thê thảm bằng cuộc
di tản vừa qua. Tại sao dân tộc mình phải chịu một số
phận oan nghiệt thế nầy nhỉ?
Bạch Mai hỏi:
- Cuối cùng, cuộc di tản kết
thúc thế nào?
- Sau mười ngày kể từ khi xuất
phát thì mọi người về đến Tuy hòa. Từ đó quân đội
và dân thường tiếp tục vào Nam theo đường bộ, đường
thủy và đường hàng không. Liên đoàn tôi được đưa
vào tỉnh Khánh hòa để dưỡng quân và bổ sung quân số.
Tôi vào đây để nhận lệnh. Sáng mai tôi phải ra Nha
trang để trở lại với liên đoàn rồi lại lao vào chiến
đấu. Với tình hình nầy, không một đơn vị nào có thể
nghỉ ngơi nhiều ngày được.
Thiếu tá Thế đứng dậy:
- Thôi chúng ta hãy kết thúc bữa
ăn tối và cuộc hàn huyên. Hẹn khi khác. Bây giờ tôi và
anh Thảo phải trở vào doanh trại.
Tân đứng dây theo:
- Tối nay anh Thảo ngủ trong khối
chiến tranh chính trị của anh Thế phải không?
- Không, tôi ở tại phòng liên
lạc của biệt động quân. Ở đó có mấy sĩ quan cấp
úy đi theo tôi nữa.
- Ngày mai anh lên đường sớm à?
- Vâng, sáng tinh mơ phải có mặt
ở Tân sơn nhất rồi.
- Thế là anh không có thì giờ
vào tổng y viện Cộng hòa thăm thiếu úy Thảo?
Trung tá sa sầm nét mặt:
- Rất tiếc!
Anh đứng ngẩn người ra một
chút rồi tiếp:
- Nếu không thăm được thì phải
có chút quà tặng chứ. Tội nghiệp, mới hai mươi mốt
tuổi đầu mà đã thành người tàn phế.
Anh cho hai tay vào túi quần rồi
rút ra. Anh nhìn chiếc đồng hồ trên tay mình, định cởi
ra nhưng chợt ngưng lại, lẩm bẩm:
- Không được, không được!
Rồi anh nói to với Thùy Liên
đang chăm chỉ nhìn mình:
- Chiếc đồng hồ nầy là của
em gái tôi tặng tôi khi còn ở ngoài Bắc. Kỷ vật duy
nhất của Hải Đường mà tôi còn giữ đến ngày hôm
nay và cho đến hết cuộc đời tôi. Thôi, tôi còn một
ít tiền đây, nhờ chị mua cho Anh ấy thứ gì đó cũng
được.
Anh móc bóp đưa cho Thùy Liên hai
tờ giấy bạc. Thùy Liên nhận và nói với giọng cảm
động:
- Anh còn nhắn với thiếu úy
Thảo điều gì nữa không?
Trung tá nhíu mày:
- Chẳng còn gì để nói nữa. À,
nhờ chị nói với nó rằng tôi và toàn thể anh em rất
đau đớn vì nỗi bất hạnh của nó. Mọi người đều
nhớ đến nó. Bảo nó hãy cố sống một cách vui vẻ. Tổ
quốc không bao giờ quên sự hi sinh to lớn của nó.
Thùy Liên đưa tay áo chặm vào
mắt mình. Thảo quay sang Tân, nói với giọng rầu rĩ:
- Anh vẫn chưa quên tên con Hải
Đường, em gái tôi, phải không?
- Vâng, tôi vẫn còn nhớ tai họa
xảy ra cho gia đình mà anh đã kể cho tôi và Bính nghe
trong quân trường. Tôi nhớ em gái anh nhờ có cái tên rất
đẹp. Hải Đường, một trong những đóa hoa đẹp nhất
trong các loài hoa.
- Không biết bây giờ, nó ra sao
ở miền Bắc. Đêm rồi tôi chiêm bao thấy nó trong một
khung cảnh rùng rợn.
Mọi người quay lại lắng tai
nghe. Thảo tiếp tục nói:
- Tôi chiêm bao thấy mình đang
hành quân ở vùng Một. Sau một trận đánh ác liệt, tôi
dẫn một toán lính đi thu dọn chiến trường. Xác quân
thù ngổn ngang. Tôi thấy một cái xác nằm úp nên lật
ngửa ra. Chính là con Hải Đường, em gái tôi! Nó vùng
dậy nhìn tôi mỉm cười rồi đột nhiên biến mất. Tôi
giật mình thức dậy, trán ướt đẫm mồ hôi.
Giọng anh nhỏ lại và trở nên
ngập ngừng:
- Có hai điều mà tôi lo lắng
cho em gái tôi. Điều thứ nhất là nó đã chết rồi vì
làm sao sống nổi với cộng sản khi mang một lý lịch
cha mẹ là địa chủ và anh trai vượt biên vào Nam theo
quân thù. Điều thứ hai là nó còn sống và bị đưa vào
Nam để chiến đấu và hai anh em chúng tôi ở hai bên
chiến tuyến của cuộc huynh đệ tương tàn nầy. Giấc
mơ khi đêm ứng với cả hai điều lo lắng đó.
Thiếu tá Thế cười, vỗ vai
Thảo một cách thân mật:
- Chiêm bao thì chẳng có gì quan
trọng. Thường thường, những gì chúng ta lo sợ thì lại
hay hiện ra trong chiêm bao. Hơn nữa, lòng anh vẫn chưa tan
sự xúc động vì cuộc di tản đầy máu và nước mắt
vừa rồi. Thôi, đừng nghĩ đến cơn ác mộng vừa rồi
nữa. Rồi thế nào hòa bình cũng trở lại và anh em gặp
nhau.
Thảo thở dài, nỗi buồn tràn
ngập trên gương mặt sạm đen của người sĩ quan biệt
động quân.
*
* *
Cuộc đại bại của Việt Nam
Cộng hòa đến phải bỏ cả một vùng cao nguyên rộng
lớn đầy tài nguyên, gây nên một ảnh hưởng rất tệ
hại cho tinh thần chiến đấu của dân chúng lẫn quân
nhân. Trong khi đó, cộng quân thừa thắng xông lên gây áp
lực nặng nề khắp nơi đặc biệt là ở miền Đông và
vùng hỏa tuyến tức là hai tỉnh phía Bắc của Việt Nam
Cộng hòa. Ở Sài gòn, mọi hoạt động dân sự đều xảy
ra bình thường, nhưng đó chỉ là bề ngoài mà thôi.
Trong lòng mọi người đều chất đầy ưu tư.
Tình hình trên các chiến trường
mỗi lúc thêm sôi động, nguy cơ bại trận hoàn toàn trở
thành rõ rệt. Miền Nam chỉ có thể tránh được sự tan
rã nếu mọi người đoàn kết một lòng. Giữa cảnh dầu
sôi lửa bỏng đó thì bỗng dậy lên một phong trào tố
cáo tổng thống tham nhũng, làm cho mọi người càng thêm
hoang mang và bàn tán xôn xao. Trong hầu hết công sở và
tư sở, kể cả các văn phòng của quân đội, người ta
bỏ bê công việc để ngồi bàn tán với nhau về tin tức
chiến sự và về phong trào chống tham nhũng.
Một buổi chiều về đến nhà,
vừa mở cửa ra thì Tân bắt gặp ngay một phong thư. Cả
ngày, nhà đóng cửa nên người bưu tá đã nhét phong thư
vào khe hở. Tân nhặt lên đọc. Thùy Liên bước tới hỏi
vội:
- Thư của ai vậy anh?
- Của chị Hai ở Cần thơ gởi
lên. Đây em xem trước đi. Anh lo nấu nước tắm cho hai
con rồi xem sau.
Tân xuống bếp nhóm lửa. Vừa
bắc ấm nước lên thì Thùy Liên đi xuống. Nàng nói vội,
giọng lo lắng:
- Ba đau nặng. Chị Hai bảo em
nên về thăm ba, vì lúc nào ba cũng nói với mọi người
là nhớ em và mong em về thăm. Em lo lắm. Tại sao ba cứ
nằng nặc đòi gặp mặt em?
Tân an ủi vợ:
- Có lẽ không có gì đáng ngại
đâu. Ba già rồi thì chuyện đau ốm là bình thường. Nằm
cả ngày buồn thì mong gặp đứa con nào ở xa. Hơn nữa
em là con gái cưng nhất của ba mà. Tuy nhiên, em cũng nên
về thăm để ba vui lòng. Hôm nay là thứ năm. Ngày mai em
đi làm, đưa đơn xin nghỉ một ngày. Thế là sáng thứ
bảy lên xe đi và chiều chúa nhật trở về Sài gòn để
thứ hai đi làm như thường.
- Em đem cả hai đứa con về thăm
quê ngoại nữa nhé. Chị Hai bảo má cứ nhắc đến Thùy
Dung và Hòa Bình mãi. Thư đây, anh xem đi.
Tân xem thư xong, đi pha nước tắm
cho hai con trong khi Thùy Liên lo bữa ăn tối cho gia đình.
Đúng như dự tính, sáng thứ
bảy, Tân chở cả ba mẹ con ra bến xe rồi đến trường.
Chiều về trong căn nhà vắng vẻ,
thiếu tiếng nói bi bô, tiếng cười ròn rã của trẻ
thơ, sự trống trải gần như hoang vu chiếm đóng các
gian phòng. Tân tránh phòng khách, xuống bếp nấu ăn một
mình, nhưng gian nhà bếp cũng vắng lạnh buồn tênh. Sau
bữa cơm, anh cứ đi lên đi xuống, lòng xốn xang một nỗi
nhớ nhung mãnh liệt. Anh ngồi vào bàn cố gắng làm việc
nhưng không tập trung nổi ý nghĩ nên đành đứng dậy
bước ra hiên nhìn người qua lại mỗi lúc một thưa thớt
hơn. Khi tiếng xe ngoài đường lộ không còn vọng vào
nữa, Tân biết đêm đã khuya, anh vào giường và cố dỗ
giấc ngủ.
Ngày chúa nhật, Tân có giờ dạy
cả hai buổi nên thì giờ qua nhanh. Buổi chiều, vừa qua
khúc quanh của con hẻm, anh đã thấy cửa nhà mình mở
toang. Anh dừng xe lại, nhìn vào và cảm thấy gian nhà như
bừng bừng sinh khí với tiếng đùa giỡn của hai chị em
từ dưới bếp vọng lên. Anh đưa xe vào nhà thì lập tức
hai đứa bé vừa reo hò, vừa chạy đến ôm chặt lấy
hai chân. Tân ngồi xuống siết con vào lòng, ngây ngất vì
mùi thơm lạ kỳ của trẻ thơ.
Tân hôn tới tấp vào những
chiếc má phinh phính của hai con rồi ngẩng lên. Thùy Liên
đứng yên ở khung cửa bếp với cụ cười rạng rỡ.
Tân đứng dậy, một tay dắt Hòa Bình, một tay dắt Thùy
Dung đến gần vợ, hỏi:
- Ba mẹ con về lúc nào?
Thùy Liên đáp một cách vui vẻ:
- Được khoảng nửa giờ.
- Ba thế nào?
- Ba bị sưng phổi, sốt li bì
suốt một tuần lễ, bây giờ khá lắm rồi. Chị Hai nói
ba hết sốt ba bốn hôm rồi, nhưng cứ nằm hoài không
chịu ăn nên khó bình phục được. Tới khi em về, ba
mừng rỡ, ngồi dậy ngay, ôm chầm lấy em và hai đứa
cháu ngoại. Một lúc sau, chị Hai ngoắt em xuống bếp,
bảo mang cháo lên cho ba. Ông ngồi, vừa ăn, vừa nhìn hai
đứa cháu ngoại, loáng một cái hết ngay tô cháo. Má và
chị Hai ngạc nhiên hết sức. Hai ngày ở dưới đó, lúc
nào em đưa sữa và cháo lên, ba cũng rán ăn uống hết
nên sức khỏe hồi phục nhanh chóng.
Tân cười to:
- Đó, hôm nhận được thư của
chị Hai, anh đã nói rồi mà. Ông cụ nhớ con gái quá nên
đổ bệnh ra. Nếu em đi thêm vài bữa nữa thì anh cũng
sẽ liệt giường như ba vậy.
Thùy Liên đưa ngón tay dí vào
trán của chồng:
- Anh nói xạo. Em đi càng lâu,
anh càng mừng vì được tự do.
- À, còn má thế nào?
Thùy Liên cúi mặt xuống có vẻ
hơi buồn:
- Má không được khỏe lắm.
Tân hoảng hốt:
- Em nói sao? Má không khoẻ à?
- Không, hiện giờ thì chẳng có
gì nghiêm trọng, nhưng bác sĩ dặn phải coi chừng má cho
kỹ.
Tân nhìn sững vợ:
- Tại sao vậy?
- Má bị cao huyết áp, có triệu
chứng khá rõ của bệnh tim mạch. Hai tuần rồi phải săn
sóc ba nên má thường bị mệt. Bác sĩ dặn tránh những
trường hợp có thể làm má xúc động.
- Tội nghiệp. Anh thương má quá.
Hai lần em sinh con, má đều chịu cực quá nhiều.
Sau buổi cơm chiều, hai vợ chồng
kéo nhau vô phòng trong tâm sự. Tân ngắm nhìn vợ lui cui
xếp đống áo quần, anh cũng cầm cái này lên bỏ cái
kia xuống nhưng không biết xếp vô đâu. Liên cười:
- Thôi, ông thầy bỏ đó đi.
Tân cũng cười khì:
- Em về dưới đó có đi thăm bà
con, bạn bè không?
- Em không đi nhưng nhiều bà con
và hàng xóm nghe em về thì đến thăm. Chiều hôm qua, em
có vào quân y viện Cần thơ gặp nhiều bạn cũ. Họ mừng
rỡ và niềm nỡ làm em cảm động lắm.
- Tình hình dưới đó thế nào?
- Vẫn sinh hoạt bình thường.
Cũng như trên nầy, mọi người đều có vẻ lo âu và bàn
tán xôn xao.
- Có phải tình hình chiến sự
dưới đó nặng nề phải không? Ở tỉnh nhỏ, người ta
dễ bị ảnh hưởng vì chiến cuộc hơn ở thủ đô nầy.
- Không, người ta không lo lắng
vì chiến sự chung quanh vùng mà lo lắng vì những tin tức
bất lợi ở miền Đông và ở Cao nguyên. Người ta cũng
biết rằng hai tỉnh địa đầu là Quảng trị và Thừa
thiên khó đứng vững được trước những binh đoàn của
cộng sản tràn qua sông Bến hải. Có người còn nói
chúng ta sẽ mất cả ba vùng chiến thuật Một, Hai và Ba,
chỉ còn giữ được vùng Bốn làm vùng tự do cũng như
Đài loan của Trung hoa vậy. Lúc đó Cần thơ sẽ là Thủ
đô của Việt Nam Cộng hòa. Có người còn bàn đến vị
trí xây dinh tổng thống, trụ sở quốc hội nữa. Thực
là buồn cười.
- Ý kiến của ba thế nào? Em có
nói chuyện với ba không?
- Có, đêm rồi nói chuyện rất
khuya. Em sợ ba mệt nên khuyên ba đi ngủ sớm nhưng nhất
định ba không chịu, đòi em ngồi tiếp chuyện. Ba rất
ưu tư về thời cuộc nhưng ở dưới nầy chẳng có ai để
ba tâm sự.
- Ba có nhận định thế nào?
- Ba là người trí thức, thuộc
về số ít ỏi những người có học đến nơi đến chốn
thời Pháp thuộc nên ba có nhận định rất sâu sắc và
chính xác. Từ lúc còn ở nhà, em thường phục nhận xét
của ba.
- Ý kiến của ba thế nào? Em
nhập đề dài dòng quá.
Thùy Liên đổi giọng đùa giỡn:
- Không, anh phải cho em cái gì đó
thì em mới nói.
Tân ra vẻ dáo dác nhìn ra cửa,
không thấy hai đứa trẻ đâu cả. Từ bên phòng ngoài
vọng vào tiếng cười ha hả khoái chí của thằng Hòa
Bình. Anh đột ngột ôm lấy đầu Thùy Liên, lật ngửa
mặt lên, hôn mạnh vào đôi môi rồi buông ra:
- Đó, anh cho em rồi đó.
Mặt Thùy Liên ửng hồng:
- Anh khôn lắm, cho như thế thì
anh có mất gì đâu. Anh Tân, khi đêm nằm ngủ một mình,
anh có nhớ em không?
Tân nhìn vợ một cách đắm
đuối:
- Nhớ gần phát điên lên.
- Em cũng vậy, mong cho đêm ngày
qua nhanh để về với anh.
- Ba má không đòi giữ em và hai
con lại à?
- Không, ba má biết em còn phải
đi làm. Sáng nay, má còn bảo em phải về cho sớm; sợ về
trễ, Việt cộng chận đường thì nguy. Còn ba thì khuyên
em cố giữ gìn sức khỏe để làm việc. Ba bảo rằng
chiến trận càng ác liệt thì thương binh càng nhiều, em
phải hết lòng thoa dịu nỗi đau đớn do chiến tranh gây
ra.
- Ba thực là người nhân đức.
- Còn hơn cả người nhân đức
nữa. Bây giờ, ba ăn nói như một bậc chân tu. Ba bảo
rằng những kẻ ác gây ra chiến tranh thì kiếp sau sẽ bị
trừng phạt nặng nề, còn ai thoa dịu được vết thương
chiến tranh thì kiếp sau sẽ được hưởng phước lớn.
- Đối với tình hình hiện tại
thì ba có ý kiến thế nào?
- Về tình hình chiến sự thì ba
rất bi quan. Ba bảo rằng miền Nam không thể đứng vững
được trước sức tấn công của miền Bắc. Miền Nam
vẫn còn đầy đủ tính người nên sức chịu đựng có
giới hạn, không thể kiên trì mãi mãi được. Còn ở
miền Bắc, người ta đã biến được con người thành
những khối sắt với sức chịu đựng vô tận, đáp ứng
được chủ trương trường kỳ kháng chiến của cộng
sản Việt Nam. Trước tình hình đó, ba muốn vợ chồng
mình phải sáng suốt để chuẩn bị một thái độ thích
hợp.
- Có nghĩa là ba bảo rằng không
bao lâu nữa, cộng sản sẽ chiếm được miền Nam nầy
và chúng ta phải chuẩn bị tinh thần và thái độ để
sống chung với cộng sản?
- Ba không nói thẳng nhưng em nghĩ
rằng ba có ý đó.
Tân nhìn thẳng Thùy Liên bằng
cặp mắt có vẻ khác thường, những gân máu trên trán
hình như nổi rõ lên. Thùy Liên ngạc nhiên gần như hoảng
hốt:
- Anh Tân, anh làm sao thế?
Tân quay nhìn đi nơi khác, mặt
dịu lại:
- Không, không sao cả.
- Có, anh có vẻ xúc động một
cách lạ lùng khi em nói mình phải chuẩn bị tinh thần để
sống chung với cộng sản. Đúng vậy phải không?
Tân khẽ gật đầu. Thùy Liên
hỏi tiếp:
- Anh sợ cộng sản lắm à?
- Không, anh không sợ lắm đâu.
Từ hôm anh Thảo kể chuyện di tản khỏi Cao nguyên thì ý
nghĩ miền Nam hoàn toàn sụp đổ luôn luôn xâm chiếm trí
óc anh. Anh nghĩ đến lúc cuộc chiến tranh dai dẳng và
đáng nguyền rủa nầy chấm dứt, hòa bình được lặp
lại. Viễn cảnh của nền hòa bình nầy gây nên nhiều
lo ngại cho hầu hết dân miền Nam nhưng dù sao đó cũng
là hòa bình, nghĩa là không còn tiếng súng, không còn
cảnh hãi hùng khi những người du kích vác súng về làng
lúc màn đêm buông xuống. Riêng đối với anh ….
Tân đột nhiên dừng lại. Thùy
Liên im lặng chờ đợi chồng nói tiếp ý nghĩ của mình
nhưng Tân lại hỏi:
- Ba còn nói gì nữa không?
Thùy Liên hỏi trở lại:
- Anh thích tìm hiểu ý kiến của
ba lắm à?
Tân gật đầu:
- Đúng vậy. Tình hình sắp biến
chuyển mãnh liệt. Chúng ta sắp chứng kiến một khúc
quanh lịch sử quan trọng. Trước tình hình đó, anh như
một chiếc lá khô bị lôi cuốn một cách thụ động vào
dòng thác của lịch sử. Anh không muốn và không thể
cưỡng lại dòng thác đó nhưng phải có một cái nhìn
sáng suốt cùng những ý nghĩ chín chắn để có một thái
độ thích hợp với hoàn cảnh. Vì vậy, anh cần nghe ý
kiến của những người trí thức và có nhiều kinh nghiệm
sống như ba em. Anh hỏi thực em điều nầy. Ba có thích
cộng sản chiếm được miền Nam nầy hay không?
- Không, chắc chắn là không.
Suốt đời ba là công chức cho chánh phủ thuộc địa rồi
cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Với cái lý lịch như
thế thì ba phải hiểu rằng cộng sản sẽ liệt ba vào
hàng ngũ những người bất hảo, có khi là kẻ thù cũng
nên. Hơn nữa, hiện nay ba và má đang sống khá thong thả
với món lương hưu do mấy chục năm làm công chức nên
em không phải lo gì cho ông bà cả. Nếu cộng sản về
đây thì chắc chắn chính quyền quốc gia hoàn toàn sụp
đổ sợ món tiền hưu bổng do ba đóng góp trong mấy chục
năm làm công chức cũng không còn nữa. Ruộng vườn dưới
quê cũng không chắc còn là của mình nữa. Thế thì làm
sao ba mong cộng sản vào cai trị miền Nam nầy được?
Thùy Liên suy nghĩ như nhớ lại
chuyện cũ rồi nói tiếp:
-Thực ra, trong thời gian trước
năm 1954, ba có cảm tình nhiều với Việt minh vì họ đang
chống thực dân Pháp. Em biết ba còn giúp đỡ cho Việt
minh nhiều lần nữa. Nhưng từ khi họ lộ rõ bộ mặt
cộng sản và dùng chiến tranh để bành trướng chủ
nghĩa vô thần thì ba không còn ưa họ nữa. Ba là tín đồ
của đạo Khổng và đạo Phật, hai cái đạo đề cao
nhân nghĩa và từ bi hỉ xả thì hoàn toàn trái ngược
với đạo cộng sản. Ngay ở quê hương của Khổng tử,
Trung cộng đã mạt sát vị vạn tuế sư biểu đó là tên
phong kiến phản động. Em nhớ khi đọc tin đó trên báo,
ba đã nổi giận đến đỏ mặt tía tai. Em thấy tâm
trạng của ba có nhiều điểm giống tâm trạng của anh.
Tân tỏ vẻ sung sướng:
- Cám ơn em. Được giống ba là
điều hãnh diện cho anh. À, ba có biết sự bất ổn trong
đời sống dân Sài gòn không?
- Anh muốn nói tới sự bất ổn
gì?
- Bất ổn chính trị do một nhóm
người tố cáo tổng thống tham nhũng.
- Có, ba có nói đến điều đó.
Ba có đưa cho em xem bảng cáo trạng chống tham nhũng của
nhóm đó. Ba còn kể tên những người trong nhóm, đứng
đầu là một linh mục của Thiên Chúa, rồi có cả các
tu sĩ của Phật giáo nữa. Họ đòi lật đổ chính phủ
và dựng nên một chính phủ hòa giải với Việt cộng.
- Ý kiến của ba thế nào? Có
ủng hộ nhóm chống tham nhũng đó không?
- Ba là người rất thù ghét tham
nhũng nên suốt đời ba trong sạch. Bao nhiêu năm làm
trưởng ty công chánh mà về già sống cuộc đời thanh
bần. Tuy nhiên, ba bảo rằng phát động phong trào lúc nầy
để bêu riếu cấp lãnh đạo thì rõ ràng tạo thuận lợi
rất nhiều cho Việt cộng. Phong trào nầy đã làm công
việc thay cho nhiều binh đoàn của cộng sản. Nói chuyện
hòa giải với cộng sản lúc họ đang thắng thế thì rõ
ràng là ngây thơ đến nực cười. Hai năm trước đây,
Việt cộng ở miền Nam chưa mạnh lắm thế mà hiệp định
Paris chưa hòa giải được thì nhúm người hô hào chống
tham nhũng ngày nay làm sao thuyết phục Việt cộng hòa
giải được. Em bảo rằng trong nhóm đó có các tu sĩ của
hai tôn giáo lớn thì ba cười. Ba cho rằng em cũng ngây
thơ như những người trong cái phong trào chống tham nhũng
đó. Cộng sản liệt tôn giáo vào hàng ngũ những kẻ thù
mà họ phải triệt hạ khi có dịp thì tiếng nói của
tôn giáo có nghĩa gì đối với họ.
- Thế thì theo ba, các ông tu sĩ
đó là cán bộ nằm vùng của cộng sản à?
- Ba không nói điều đó nhưng
theo em, họ không thể là tay sai của cộng sản được.
Có thể họ đã để cho cộng sản lợi dụng.
Tân buồn bã gật đầu:
-Thiên Chúa giáo và Phật giáo là
hai tôn giáo thực cao quí, nhưng một số tu sĩ của cả
hai tôn giáo đã phạm những sai lầm làm hoen ố tôn giáo
mà họ làm đại diện. Đối với lịch sử thì đây là
lần thứ hai mà đạo Thiên Chúa đã gây hại cho nhân dân
Việt Nam.
- Tại sao là lần thứ hai?
- Lần thứ nhất, vào thế kỷ
trước, các tu sĩ của đạo nầy đã để cho thực dân
Pháp lợi dụng nhảy vào xâm chiếm và đặt nền đô hộ
lên đất nước mình. Lần nầy thì một số linh mục đã
làm suy yếu tinh thần dân chúng và quân đội miền Nam,
tăng thêm ưu thế cho Việt cộng. Phật giáo cũng hai lần
có tội đối với lịch sử Việt Nam.
- Tội thế nào?
- Năm 1963, họ phát động phong
trào chống đối lại chính phủ đương thời làm cho
chính phủ bị sụp đổ, dẫn đến cái chết của một
vị tổng thống có tài đức. Rồi bây giờ, mấy ông tu
sĩ Phật giáo muốn tiếp tay làm sụp đổ luôn cả miền
Nam nầy.
Liên thở dài, với tay lấy tờ
báo quạt bớt bầu không khí nóng nực trong phòng:
- Em luôn luôn kính trọng đức
Phật cũng như giáo lý nhà Phật mà ba đã giảng cho em
nghe lúc em còn ở nhà. Em thấy nó khác hẳn với thái độ
của mấy ông sư hiện nay. Mấy ông đó đã nhảy vào con
đường chính trị với tất cả lòng tham sân si của con
người trần tục. Giữa các ông đó với Phật giáo chẳng
có mối liên quan gì cả hay nếu có thì chỉ là mối liên
quan hoàn toàn giả tạo.
Tân đập tay lên đống áo quần,
nghiêm mặt dọa:
- Anh thực bất ngờ vì những ý
nghĩ nầy của em, những ý nghĩ làm cho em khó sống với
cộng sản.
Thùy Liên cười vui vẻ:
- Khi cộng sản vào đây thì em
phải suy nghĩ khác đi để có thể sống với họ chứ.
*
* *
Đúng như nhận định của nhiều
người, việc rút khỏi cao nguyên khởi đầu cho những
thất bại liên tiếp của quân đội Việt Nam Cộng hòa
trên khắp các chiến trường. Tuy nhiên cuộc di tản nầy
cũng gây bất lợi cho cộng sản. Số lượng dân chúng ồ
ạt chạy theo quân đội Việt Nam Cộng hòa để lánh xa
cộng sản làm cho mọi người thấy rõ được lòng dân
và cái từ “giải phóng” của Việt cộng được mọi
người nói tới với đầy vẻ mỉa mai. Máu và xác chết
của thường dân vô tội bỏ lại trên đường số Bảy
do sự truy kích của “bộ đội giải phóng” làm xúc
động sâu xa lương tâm của nhiều dân tộc trên thế
giới. Vì vậy Hà nội chỉ thị cho mặt trận Giải phóng
Miền Nam liên tiếp ra nhiều thông cáo đầy vẻ nhân đạo
để trấn an dân chúng miền Nam trong khi họ vẫn đẩy
mạnh cuộc tổng tấn công. Quân đội Việt Nam Cộng hòa
đã chiến đấu rất anh dũng, nhiều nơi hai bên tranh
giành từng tấc đất nhưng rồi các thành phố cứ lần
lượt bị đánh chiếm và các tuyến phòng thủ vội vã
được thiết lập rồi nhanh chóng bị phá vỡ, dần dần
từ Trung vào Nam. Dân chúng bỏ các thành phố bị thất
thủ và ùn ùn trốn chạy vào Sài gòn làm cho thủ đô vô
cùng hỗn độn. Nhiều trường học ngưng hoạt động,
dành các lớp cho những người tị nạn.
Tân chỉ còn dạy một số ít
giờ nhưng gần như lúc nào cũng phải có mặt tại
trường. Thùy Liên thì công việc vô cùng bận rộn vì
thương binh được nườm nượp đưa về hàng ngày.
Giữa lúc đó, Thùy Liên nhận
được điện tín từ Cần thơ đánh lên, cho hay mẹ đau
nặng. Nàng hoảng hốt viết đơn xin nghỉ thì đơn bị
bác tức thì. Lệnh cấm trại được ban hành và áp dụng
cho tất cả quân nhân và nhân viên ở mọi cơ quan quân
đội kể cả các quân y viện. Thùy Liên làm việc trong
nỗi bồn chồn, lắm lúc đứng hay ngồi ngẩn ra như
người mất hồn. Ba hôm sau, lại một điện tín đánh
lên cho hay bà cụ đang hấp hối. Cả hai vợ chồng không
cần làm đơn xin phép nữa mà chỉ viết giấy báo cho nhà
trường và tổng y viện hay rồi ngay sáng hôm sau đưa cả
hai con về Cần thơ.
Than ôi, trễ mất rồi, bà đã
tắt thở từ rạng sáng vì chứng suy tim. Tân và Thùy
Liên quì xuống gục đầu bên cái xác lạnh tanh của mẹ.
Trong suốt lễ tang, Thùy Liên
ngất xỉu mấy lần nên phải nhờ cô y tá thường trực
trong nhà để săn sóc. Tỉnh dậy, nàng cứ ngồi lẩm
nhẩm những kỷ niệm của mẹ trong thời con gái và trong
hai lần sinh nở của nàng. Trông dáng điệu đau đớn của
nàng, ai cũng chảy nước mắt.
Ba của Thùy Liên thì cũng như
người mất hồn. Suốt ngày, ông ngồi trên ghế thẫn
thờ nhìn chiếc quan tài sặc sỡ chứa đựng thân xác
của người đã cùng chung vui buồn với ông suốt gần
bốn chục năm trời. Tân tìm cách gợi chuyện với ông
nhưng không thành công. Trước mọi câu hỏi, ông chỉ gật
hay lắc đầu mà không có một lời đối đáp nào cả.
Sau khi chôn cất bà xong, ông có
vẻ vượt qua được cơn khủng hoảng và lấy lại nét
mặt bình thường. Buổi sáng, khi từ giã để trở về
Sài gòn, Thùy Liên ôm ông khóc nức nở. Ông vuốt tóc
con gái như khi nàng còn thơ ấu, ôm hôn hai đứa cháu
ngoại và bắt tay chàng con rể.
Vợ chồng và hai con ra bến xe để
về Sài gòn. Trên suốt đoạn đường, Thùy Liên vẫn cứ
khóc rấm rứt.
Mới có vài ngày mà quang cảnh
trên đường đã thay đổi rõ rệt. Trên suốt đường
đi, nơi nào cũng có vẻ chuẩn bị cho những trận đánh,
những trận đánh quyết định cho chiến tranh Việt Nam.
Màu áo chiến binh xuất hiện khắp nơi. Quân xa rầm rộ
chuyển quân, những chiếc thiết giáp tuần tiểu chạy
rầm rầm trên mặt lộ. Trên xe, lính đội mũ sắt, súng
chĩa thẳng về những đám ruộng khô khốc hai bên đường.
Đến trưa, vợ chồng con cái về
đến nhà. Bước vào tổ ấm đầy hạnh phúc của mình,
Thùy Liên có vẻ bớt đau đớn vì cái tang mẹ. Nàng nói
với chồng:
- Anh rửa ráy cho các con. Em đi
mua thức ăn về cho bữa ăn trưa.
Tân dặn vợ:
- Em nhớ ghé thăm Bạch Mai và
hỏi xem hôm nay tin tức thế nào. Thùy Liên vâng dạ rồi
ra khỏi nhà. Một lát sau, nàng trở về, có cả Bạch Mai
đi bên cạnh.
Vừa mới bước vào nhà Bạch
Mai ôm chầm hai đứa bé, hôn tới tấp vào mặt chúng nó:
- Tụi bây đi mấy bữa làm dì
nhớ tụi bây quá, chiều nào dì cũng qua đây nhìn xem tụi
bây về chưa.
Tân vội hỏi:
- Bạch Mai, nhà bình thường cả
chứ?
- Dạ, nhà thì bình thường nhưng
tình hình thì chẳng bình thường chút nào. Biến chuyển
mỗi ngày. Ở dưới đó anh không nghe tin tức gì cả sao?
- Có nhưng không rõ ràng lắm.
Mấy hôm bận rộn với đám tang nên chẳng có thì giờ
đọc báo, nghe truyền thanh hay xem truyền hình. Tình hình
chiến sự ra sao?
- Tuyến phòng thủ Phan rang vỡ
rồi, Phan thiết sắp mất; nghe nói bên mình đang lập
phòng tuyến mới ở Long khánh để chận không cho Việt
cộng tràn về Sài gòn.
- Anh Thế có thường về không?
- Chiều hôm qua, anh ấy có về
được một chốc rồi đi ngay. Anh Thế mong anh trở về
để bàn một chuyện quan trọng.
- Chuyện gì vậy?
- Chuyện quan trọng, em không nói
đâu, đợi khi gặp anh Thế sẽ biết. Anh Thế dặn em là
khi nào anh về thì đi nhờ điện thoại đâu đó gọi vào
thì anh sẽ thu xếp để về ngay.
- Thôi được rồi, ăn xong, tôi
sẽ vào trường một chút rồi trở về gặp anh Thế.
Bạch Mai nói to:
- Thôi anh khỏi vào trường. Các
trường đều ngưng hoạt động. Thằng Bình nhà em nghỉ
học ba hôm rồi. Hầu hết các trường đều đầy dân
tị nạn từ Cao nguyên và các tỉnh miền Trung đổ về.
Vô đó thấy dân tị nạn anh thêm đau lòng chứ chẳng
ích lợi gì.
Thùy Liên hỏi:
- Thế còn quân y viện của em
thì sao?
- Chắc chắn phải làm việc
nhiều hơn vì thương binh đưa về mỗi lúc một đông.
Nhưng thôi hôm nay nghỉ ngơi đi, ngày mai vào trình diện
cũng được.
- Ngày mai vào trình diện, thế
nào em cũng bị khiển trách hoặc bị phạt vì không được
phép mà bỏ nhiệm sở để về quê.
Bạch Mai lắc đầu:
- Ối chà! Trong tình hình dầu
sôi lửa bỏng nầy, ai mà còn để ý đến chuyện đó
nữa. Thùy Liên trở lại làm việc là quí lắm rồi. Hơn
nữa, ai cũng biết Thùy Liên về vì tang mẹ mà, phải
không?
- Dạ phải, chắc chắn ban giám
đốc biết như thế vì trước đó em có làm đơn xin
phép.
- Thôi được rồi. Cả nhà ăn
uống và nghỉ ngơi đi. Một lần nữa, tôi xin thành thực
chia buồn với Thùy Liên. Tôi cũng mong Thùy Liên không quá
ưu phiền. Bác gái ra đi lúc nầy cũng khỏe cho thân bác.
Bây giờ, tôi phải về trông hàng để ông ngoại các
cháu nghỉ trưa. Nếu anh Thế về thì Mai qua báo cho anh
Tân biết ngay. Nhưng nếu có về cũng phải chờ chiều
tối. Giờ hành chánh khó ra cổng tổng tham mưu lắm.
Nói xong Bạch Mai đứng dậy bước
ra cửa.
Ăn trưa xong, cả nhà vào giường
nằm. Hai đứa bé ngủ say một cách nhanh chóng còn Tân và
Thùy Liên vẫn rì rầm nói chuyện. Một lúc sau, Tân vùng
dậy nói với vợ:
- Em ở nhà với hai con. Anh vào
trường một chốc xem tình hình thế nào. Anh cũng tạt
qua các trường tư để hỏi thăm. May ra họ phát lương
sớm cho mình.
- Hôm nay, mới mười chín thì
làm gì có lương.
- Thì cũng đi cầu may thế mà.
Các trường đều nghỉ dạy thì khó có lương tháng nầy,
kể cũng tiếc.
Thùy Liên cười, an ủi chồng:
- Không có thì thôi, đừng tiếc
anh ạ. Cả miền Nam nầy rồi sẽ không còn của mình nữa
thì tiếc gì một tháng lương.
Tân cười theo:
- Em nói y như một triết gia vậy.
Thôi em nghỉ, anh đi đây.
Tân chạy xe đến trường công
của mình, thấy cửa lớn đóng im ỉm nhưng cửa nhỏ vẫn
mở. Anh chạy thẳng vào. Bác gác cổng vội nhỏm dậy
reo lên mừng rỡ:
- A, thầy Tân, mấy hôm nay thầy
đi đâu?
- Tôi về quê. Không có ai trong
trường cả à?
- Có, sáng nay có các thầy hiệu
trưởng, giám học, tổng giám thị và một số thầy cô
đến ngồi trong phòng giáo sư bàn bạc một lát rồi ra
về. Thầy vào đây ngồi uống nước chơi một chút đi.
Tôi ở đây một mình buồn quá. Cũng may, trường mình
không bị chỉ định làm địa điểm tiếp đón người
tị nạn. Trường nào phải mở cửa cho họ thì tan hoang
hết. Bàn ghế bị chẻ ra làm củi để nấu cơm. Thấy
thiệt là xót ruột cho tài sản của nhà trường. Nhưng
biết làm sao được. Hoàn cảnh của họ thực đáng
thương. Bỏ tất cả nhà cửa, ruộng vườn, của cải,
chỉ mang một bọc áo quần mà chạy. Gạo thì do đồng
bào mình đóng góp cùng với các cơ quan từ thiện trong
nước và ngoại quốc đem đến phân phát. Nếu ngăn cản
không cho họ chẻ bàn ghế của học trò thì họ chết
đói mất.
Tân thấy lòng mình quá đỗi
nặng nề. Anh muốn ra về nhưng người gác cổng nài nỉ
ở lại để nghe bác ta nói về nỗi thống khổ của đồng
bào chạy loạn. Bác bảo rằng cần phải có ai nghe bác
nói, nếu không thì bác không thể nào chịu đựng nổi
những điều vừa mới tận mắt chứng kiến. Tân đành
ngồi lại khá lâu mới từ giã. Anh ghé qua hai trường tư
rồi về nhà lúc trời đã xế chiều.
Cửa nhà mở toang, bên trong có
nhiều tiếng trẻ cười đùa vọng ra. Tân dựng xe nhìn
vào. Thùy Dung và Hoà Bình đang đùa giỡn với mấy đứa
trẻ hàng xóm. Bao giờ cũng thế, tiếng cười của trẻ
con xua tan mọi ưu tư trong lòng Tân. Anh vừa kịp dựng xe
thì Hoà Bình chạy ra hét to:
- Ba về, ba về!
Tân cúi xuống nhất bổng nó lên
cao, dụi đầu vào bụng làm nó vừa cười, vừa cố sức
vùng vẫy. Tân ngồi xuống đặt Hòa Bình lên nền nhà
thì hai cánh tay tròn lũm của Thùy Dung đã ôm chặt lấy
cổ của ba. Tân hôn vào đôi má mũm mĩm của con gái và
hỏi:
- Má đâu con?
- Má dưới bếp.
Trả lời xong, nó quay trở lại
chơi đùa với bạn bè. Tân vội vã đi qua buồng ngủ để
xuống bếp. Thùy Liên đang ngồi giặt áo quần. Nàng
ngẩng lên:
- Anh về rồi đó à? Tình hình ở
các trường thế nào hả anh?
- Trường công thì hoàn toàn
ngưng hoạt động. Trường tư còn vài lớp học thưa
thớt. Số học sinh nầy đã đóng tiền rồi không đòi
lại được nên tiếc vào ngồi đó với giáo sư chứ có
học hành gì đâu. Lúc nầy thì chẳng ai còn đầu óc mà
dạy với học.
Thùy Liên ngắt lời chồng:
- Chị Mai vừa mới ở đây về.
- Mai có nói gì quan trọng không?
- Có, anh đi thay áo quần rồi em
sẽ nói anh nghe.
Tân lên buồng ngủ một tí rồi
vội vã trở xuống. Thùy Liên đã giặt xong, hai vợ chồng
ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn ăn. Tân hỏi ngay:
- Bạch Mai nói gì mà em nói là
quan trọng?
- Chị Mai đã liên lạc điện
thoại với anh Thế. Anh ấy bảo rằng chưa thể về nhà
hôm nay được. Ngày mai cũng không biết có về được
không. Anh Thế bảo chị Mai hỏi thẳng anh vấn đề mà
anh Thế muốn nói với anh.
Tân hồi hộp:
- Vấn đề gì vậy?
- Anh Thế hỏi anh có ý định bỏ
Việt Nam để đi lánh nạn cộng sản không?
Tân giật mình rồi ngẩn người
ra nhìn vợ. Thùy Liên nhắc lại:
- Anh nghĩ thế nào về điều đó?
Tân lắc đầu:
- Anh chưa hề nghĩ đến việc
đó. Mấy hôm ở Cần thơ, anh có nghe người ta bảo rằng
Việt Nam Cộng hòa chỉ sẽ giữ lại miền Tây thôi. Có
người còn bảo rằng bỏ luôn miền Tây và rút về cố
thủ đảo Phú quốc.
- Rồi anh suy nghĩ thế nào?
- Anh chẳng muốn suy nghĩ gì cả.
Anh mệt mỏi lắm rồi. Nếu em muốn rút về miền Tây để
lánh cộng sản thì anh sẵn sàng đi với em. Đối với
anh, khắp lãnh thổ nầy, đâu đâu cũng là quê hương của
mình. Anh sinh ra ở miền Trung, lớn lên ở Sài gòn, rồi
bây giờ về định cư ở miền Tây thì cũng được chứ
có sao đâu. Hơn nữa, dưới đó, có sẵn ruộng vườn
nhà cửa của ba má em, sống chung với bà con làng xóm ở
quê em cũng tốt vậy. Anh đã đi và sống nhiều nơi ở
đồng bằng Cửu long. Anh rất thích tính tình người dân
quê miền Nam. Họ hiền lành, chất phác, có tình cảm đậm
đà.
Thùy Liên lắc đầu:
- Chị Mai bảo rằng anh Thế cũng
nghe lời đồn bỏ Sài gòn để về giữ miền Tây. Lời
đồn đó hoàn toàn sai lạc. Chúng ta phải giữ cho được
thủ đô Sài gòn. Thủ đô là biểu tượng của một quốc
gia. Mất thủ đô thì kể như quốc gia đó bị xóa tên
trên bản đồ thế giới. Do đó, không có chuyện rút về
miền Tây để duy trì quốc gia Việt Nam đâu.
- Thế thì sao?
- Chị Mai bảo rằng quân đội
đang cố sức lập phòng tuyến Long khánh để chận đường
tiến quân của cộng sản. Sau đó chúng ta sẽ củng cố
lực lượng để chiếm lại các thành phố và các làng
mạc đã bị mất. Còn nếu chận không nổi để cho Việt
cộng tràn vào Sài gòn thì coi như chấm hết. Lúc đó chỉ
còn hai con đường. Một là trốn ra ngoại quốc để sống
đời tự do nhưng vô tổ quốc. Hai là ở lại để chung
chịu số phận như đồng bào miền Bắc suốt hai mươi
năm qua. Chị Mai bảo ngay bây giờ, phải chọn một trong
hai con đường đó, nếu không, e trở tay không kịp.
Tân ngạc nhiên lớn tiếng nói:
- Sao vậy? Em vừa bảo quân đội
mình đang lập phòng tuyến ở Long khánh để bảo vệ thủ
đô Sài gòn. Chúng ta đã mất vùng Một, vùng Hai nhưng
còn Vùng Ba, vùng Bốn. Hai vùng còn giữ được lại đông
dân cư và giàu có hơn hai vùng kia. Việt Nam Cộng hòa vẫn
còn sống mà, sao đã vội tính chuyện chạy trốn ra ngoại
quốc. Không lẽ để cho con cái mình làm người mất tổ
quốc sao?
Thấy chồng đột ngột lớn
tiếng, Thùy Liên nói nhỏ nhẹ như vỗ về:
- Anh hãy bình tĩnh. Em không rõ
lắm vấn đề nầy. Hay là anh qua hỏi trực tiếp chị
Mai xem sao.
Tân lắc đầu:
- Anh không đi. Suốt buổi chiều
nay anh phải chịu đựng với những chuyện đen tối và
đau thương do chú Bảo gác cổng kể lại cùng những lời
nói đầy bi quan của người khác. Anh mệt mỏi lắm rồi.
Anh không đi đâu hết, chỉ muốn ở nhà đùa giỡn với
hai con.
Thùy Liên nhìn chồng một cách
thương hại:
- Thôi được, anh chơi với các
con đi. Em qua nói chuyện cùng chị Mai một lát rồi về
nấu cơm tối.
Nói xong, nàng đứng dậy thay
quần áo và ra khỏi nhà.
Bạch Mai mừng rỡ khi thấy Thùy
Liên bước vào. Nàng vội vàng lấy hàng bán cho bà khách
rồi kéo Thùy Liên ngồi xuống ghế và hỏi ngay:
- Anh Tân về chưa?
- Dạ rồi.
- Liên đã hỏi ý kiến anh ấy
chưa?
- Em hỏi rồi nhưng….
- Nhưng thế nào?
- Anh Tân bảo chúng ta còn khả
năng chống cự tại sao đã tính việc bỏ quê hương xứ
sở mà đi.
Bạch Mai kéo ghế lại gần Thùy
Liên, giọng nhỏ hơn:
- Điều nầy anh Thế dặn chỉ
nói khi cần thiết và chỉ nói trong chỗ riêng tư với
nhau mà thôi, không được lộ ra ngoài. Nội trong một
tháng vừa qua, chúng ta đã mất phân nửa lãnh thổ, hai
quân đoàn, năm sư đoàn bộ binh, nhiều lữ đoàn và liên
đoàn thiện chiến bị xóa sổ hoặc tự tan rã. Địch
cũng bị thiệt hại rất nặng nhưng chúng kịp bổ sung
với hàng hàng lớp lớp bộ đội từ ngoài Bắc đưa vào
nên các binh đoàn của chúng nó vẫn còn đầy đủ mà
còn được tăng cường hơn nữa. Bây giờ thì chúng đi
ngang nhiên trên các trục lộ của miền Nam nên vận
chuyển được rất nhiều vũ khí tối tân. Chúng ta khó
có thể chịu đựng nổi sức tấn công càng ngày càng
mãnh liệt của cộng sản. Các cấp chỉ huy cộng sản
không tiếc sinh mạng của chiến sĩ nên cứ xua họ tràn
vào phòng tuyến của chúng ta. Những người lính lái xe
tăng thì bị xích và khóa vào ghế nên chỉ có một con
đường tiến tới mà thôi. Trong hoàn cảnh nầy, miền
Nam không có được bao nhiêu cơ may đứng vững. Tình hình
đã hết sức bi đát và gần như tuyệt vọng. Có lẽ nội
trong một hay hai ngày nữa, ông tổng thống sẽ phải từ
chức, nhường chỗ cho một chính phủ khác để chuẩn bị
đầu hàng.
Thùy Liên thắc mắc:
- Nhưng tại sao phải thay chính
phủ rồi mới đầu hàng?
Bạch Mai giải thích:
- Ông tổng thống hiện nay là
một người cứng rắn nên sẽ đánh tới cùng chứ không
chịu đầu hàng. Và như thế thì máu sẽ đổ một cách
ghê gớm khi cộng sản tiến chiếm Sài gòn. Dù sao ông ta
cũng là một tổng thống do lá phiếu dân bầu lên nên
chắc chắn ông ta không chịu nỗi nhục nhã khi đầu hàng
quân cộng sản mà ông đã từng gọi là quân côn đồ
cướp nước. Vì vậy phải có một người khác không do
dân bầu lên thì sự đầu hàng sẽ đỡ nhục nhã hơn
cho miền Nam.
Thùy Liên có vẻ sợ hãi:
- Tình hình bi đát đến như thế
à?
- Rất bi đát, nhưng chính phủ
chưa thể nói hết sự thực với dân chúng.
- Tại sao vậy?
- Vì trên khắp các mặt trận
còn biết bao quân nhân đang chiến đấu rất anh dũng.
- Nhưng tại sao chính phủ vẫn
để họ chiến đấu trong tình trạng tuyệt vọng thế
nầy?
- Chưa hoàn toàn tuyệt vọng.
Chúng ta vẫn còn một chút hi vọng mặc dù rất nhỏ
nhoi. Vả lại, dù có tuyệt vọng đi nữa thì cũng không
thể ngăn cản họ chiến đấu tới giọt máu cuối cùng
vì họ đã thề như vậy với Tổ quốc. Chính họ làm
nhẹ bớt nỗi tủi nhục của hàng triệu người đã ngã
xuống vì nền tự do của miền Nam. Anh Thế ở tổng tham
mưu nên biết được tình hình một cách chính xác. Anh ấy
dặn nói rõ cho riêng anh Tân và Thùy Liên biết để lo
liệu.
Thùy Liên thực sự lo lắng:
- Bây giờ chúng ta phải làm gì
đây?
- Mai đã vừa nói xong, bây giờ
mình chỉ còn hai đường để chọn lựa: ở lại với
cộng sản hay ra đi. Thế thôi.
Thùy Liên hỏi:
- Anh chị định thế nào?
- Mai và mấy đứa nhỏ thì sao
cũng được nhưng anh Thế thì nhất định phải đi. Anh
ấy bảo rằng nếu không đi được thì anh ấy sẽ tự
tử chết với một số anh em khác khi cộng sản vào đây.
Anh ấy đã nhất định đi thì Mai và hai cháu cũng đi
theo.
- Còn bác Tư?
- Có lẽ phải đưa ông cụ đi
luôn. Nếu không thì ông ở lại đây với ai?
- Anh chị chừng nào lên đường
và đi bằng cách nào?
- Ở tổng tham mưu, người ta
quyết định điều đó. Anh Thế muốn hỏi ý anh Tân. Nếu
anh Tân cùng Thùy Liên quyết định rời Việt Nam sang Mỹ
lập nghiệp thì anh Thế có thể lo cho được.
- Khi nãy em có nói chuyện đó
với anh Tân thì anh tỏ ra rất căng thẳng và đau khổ.
Với tâm trạng đó, em nghĩ rằng anh Tân khó có một
quyết định dứt khoát được.
Thùy Liên thở dài, giọng trở
nên chán nản:
- Thôi, chúng em không muốn suy
nghĩ gì nữa. Tới đâu hay đó. Số phận bi đát thì có
cả chục triệu người cùng chịu chứ đâu phải riêng
mình.
Bỗng nhiên, Bạch Mai đứng bật
dậy vỗ hai tay vào nhau:
- Thôi, Mai hiểu rồi. Nhất định
anh Tân phải ở lại Việt Nam sau khi cộng sản chiếm
được miền Nam nầy.
Thùy Liên ngạc nhiên:
- Sao chị nói vậy?
- Thùy Liên không nhớ anh Tân có
một người anh ruột duy nhất tập kết ra Bắc à?
- À, em nhớ rồi, anh Vinh.
- Có lẽ bây giờ anh ấy đang
giữ một chức vụ quan trọng ngoài đó. Anh Vinh đã hoạt
động cho cộng sản từ trước hiệp định Genève và đã
từng ở tù ngoài Côn đảo. Cộng sản chiếm được miền
Nam rồi thì anh Vinh có thể trở về đây, anh em gặp nhau
và biết đâu nhờ có anh Vinh mà anh Tân được cộng sản
trọng dụng trở lại. Biết đâu anh Tân lại có một vai
trò quan trọng sau nầy. Anh Tân là người có tài. Trước
đây, cộng sản mê anh ấy lắm mà.
Thùy Liên lắc đầu:
- Không, em không nghĩ anh Tân sẽ
như thế. Mong gặp lại anh ruột mình, điều đó thì đúng
nhưng trở thành một cái gì đó quan trọng đối với
cộng sản thì không bao giờ có đâu. Có một lần, anh
Tân nói với em là nếu phải sống trong chế độ cộng
sản thì anh ấy sẽ cam chịu thân phận con giun, con dế
mà thôi.
Bạch Mai tỏ vẻ giận dỗi:
- Anh Tân cam chịu phận giun dế
cho riêng anh ấy thì được. Còn Thùy Liên và hai cháu
Thùy Dung và Hòa Bình thì sao? Nghe anh Thế kể lại cuộc
sống ở miền Bắc qua những điều khai thác được ở
tù binh Bắc Việt, Mai ngao ngán lắm. Anh Tân đã là sĩ
quan Việt Nam Cộng hòa thì Thùy Liên và hai cháu không thể
nào chịu nổi đâu. Thùy Liên hãy về thuyết phục anh ấy
chịu ra ngoại quốc sinh sống. Đi không phải riêng cho
anh Tân mà cho đời sống của Thùy Liên và cho tương lai
của hai cháu bé nữa. Liên cố thuyết phục anh ấy đi.
- Vâng, em sẽ nghe lời chị nhưng
không hi vọng anh ấy chịu đi.
Thùy Liên về nhà và suốt buổi
tối hôm đó hai vợ chồng bàn bạc mà chẳng đi tới
đâu.
Trong lúc đó tình hình miền Nam
tiếp tục suy sụp nhanh chóng. Ở một số nơi, quân lính
Cộng hòa ngưng chiến đấu, nhưng trên nhiều mặt trận,
các chiến sĩ quốc gia kháng cự một cách anh dũng, gây
cho địch nhiều thiệt hại nhưng không thể nào ngăn chận
nổi sức tiến quân như vũ bão của các binh đoàn Bắc
Việt.
Mấy hôm nay, Tân không còn phải
dạy học nữa. Tuy nhiên ngôi trường tiểu học be bé bán
nội trú nơi Thùy Dung theo học vẫn còn hoạt động. Cả
nhà trẻ tư nhân nơi gởi Hòa Bình cũng thế. Buổi sáng,
anh chở con đến trường và đến nhà trẻ, chở vợ đến
tổng y viện Cộng hòa rồi lang thang trên các phố hoặc
về nhà đóng cửa nằm một mình bên chiếc radio. Đầu
óc anh rối mù với trăm ngàn ý nghĩ hỗn độn, không có
ý nghĩ nào thành hình rõ rệt. Buổi chiều, anh đi đón
vợ con về nhà, tắm rửa và đùa giỡn với con hoặc phụ
giúp Thùy Liên làm bữa cơm tối cho gia đình. Anh thường
tránh bàn bạc về thời cuộc với Thùy Liên và cố gắng
giữ nét mặt bình thản. Thùy Liên hiểu nét bình thản
đó là mặt nước trông có vẻ phẳng lặng để che giấu
những đợt sóng ngầm dữ dội bên dưới.
Thùy Liên không thể có được
sự thản nhiên như thế, ít nhất là ở bề ngoài. Nàng
cảm thấy bồn chồn, luôn luôn sống trong tâm trạng ray
rứt khó chịu. Chiều nào cũng vậy, sau bữa cơm, nàng
dẫn con qua nhà Bạch Mai. Những đứa trẻ đùa giỡn với
nhau một cách vô tư còn hai bà mẹ thì nhỏ to tâm sự
hay bàn bạc với nhau. Từ nửa tháng nay Bạch Mai không đi
lấy thêm hàng về nữa nhưng vẫn bán ra hằng ngày làm
cho cửa tiệm trở nên trống trải, những dãy kệ gỗ
trên các bức vách càng ngày càng lộ ra chứ không bị
hàng hoá che khuất như trước đây. Câu chuyện giữa hai
người vẫn xoay quanh vấn đề đi hay ở và không đi đến
kết luận nào dứt khoát về phía gia đình Thùy Liên.
Những lúc đó, Tân ở nhà một mình, đọc từ quyển
sách nầy sang quyển sách khác hay ngồi tựa cửa sổ nhìn
ra ngoài, suy nghĩ mông lung.
Phòng tuyến Long khánh bị Việt
cộng tấn công dữ dội. Các đơn vị trấn giữ đã
chiến đấu cực kỳ anh dũng. Tuy nhiên, sau khi lấy được
toàn bộ các tỉnh miền Trung, Việt cộng dồn một lực
lượng hết sức mạnh hòng sang phẳng phòng tuyến nầy
để tiến thẳng về Sài gòn, hoàn tất công cuộc xâm
lăng của họ. Vì vậy phòng tuyến Long khánh không thể
đứng vững lâu dài. Sau một cuộc tấn công dữ dội, xe
tăng của cộng quân chọc thủng phòng tuyến, lực lượng
phòng thủ rút về trấn giữ Long bình.
Cộng quân tiến về Sài gòn khắp
cả bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Số phận của chính
thể Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tính bằng từng ngày,
từng giờ.
Một buổi sáng, sau khi chở vợ
con đi rồi, Tân lang thang trên phố một lúc, rồi lái xe
đến trường.
Ba hôm rồi, Anh không đến đây
vì cứ tưởng trường đóng cửa không còn ai ở đó. Tân
ngạc nhiên thấy cửa trường mở toang. Anh chạy xe qua
cổng, thấy trong phòng giáo sư có nhiều bóng người lố
nhố. Anh dựng xe, bước vào. Có tiếng la to mừng rỡ:
- À, anh Tân đây rồi, vô đây.
Đó là tiếng của anh Định,
giáo sư triết học, người thân nhất với Tân trong
trường, một thầy nổi tiếng dạy giỏi và tận tâm.
Định thân mật nắm tay Tân lôi
vào. Tân ngạc nhiên thấy trên chiếc bàn dài không phải
là sách vở như thường lệ mà là những chai bia, chai
rượu cùng những đĩa thức ăn. Hai bên bàn có khoảng
mười giáo sư, tất cả đều là nam.
Tân hỏi:
- Thế nầy nghĩa là gì?
Nhiều tiếng cười to vang lên.
Định giải thích:
- Mấy hôm nay anh không đến
trường nên anh em tưởng anh đã xuống tàu đi khỏi Việt
Nam rồi. Một số anh em mình đã đi hay sắp ra đi, nhưng
cũng có nhiều người nhất định ở lại. Tôi và mấy
anh em đây muốn chúng mình có một buổi ngồi chung với
nhau để rồi vĩnh viễn chia tay. Ý kiến nầy rất hay
nhưng đưa ra quá trễ nên hôm nay chỉ được một số
rất ít giáo sư và nhân viên nhà trường. Anh hiệu trưởng
và anh giám học cũng không có mặt. Thôi, được bao nhiêu
hay bấy nhiêu. Đây là dịp cuối cùng, mình còn ngồi đây
với tư cách là giáo sư. Ít lâu nữa, họ vào đây, chưa
biết chúng ta sẽ là cái gì.
Một người la to:
- Là cái gì hả? Tất cả trở
thành ma hết. Tôi bắt đài Hà nội và đài Giải phóng
nghe họ gọi Sài gòn là hang ổ cuối cùng của bọn phản
động. Họ vào đây thì sẽ ra tay tàn sát bọn phản
động, trong đó có anh em chúng mình.
Đó là giọng nói của anh Quý,
giáo sư toán học. Anh Định quay lại:
- Tại sao biết như vậy mà anh
nói với tôi là nhất định ở lại Việt Nam?
Quý vẫn to tiếng:
- Dù trở thành ma cũng được
nhưng tôi nhất định phải chứng kiến giai đoạn lịch
sử cực kỳ quan trọng nầy.
Anh An, giám thị chen vào:
- Tôi nghĩ rằng không đến nổi
bi quan như anh Quý nói đâu. Chính phủ lâm thời miền Nam
của cộng sản công bố những thông cáo có tính nhân đạo
lắm.
Quý cười mỉa:
- Anh có thể tin luận điệu của
họ à? Anh không nhớ vụ thảm sát dịp Tết Mậu thân
khi họ chiếm được Huế hay sao?
- Có, tôi nhớ chứ. Lần đó họ
đã không kềm chế được nên sau đó đã bị nhân dân
Việt Nam và toàn thế giới lên án. Rút kinh nghiệm vụ
đó, lần nầy họ phải ráng kềm chế, tránh đổ máu
cho thường dân vô tội. Tôi thấy những thành phố và
làng mạc mà họ đã chiếm được trong mấy tháng vừa
qua, kể cả Huế, chưa có tin tức nào cho thấy có sự
tàn sát dã man cả.
Quý cố cãi lại:
- Anh bảo lần nầy thì họ tự
kềm chế nhưng tự kềm chế được trong bao lâu sau khi
chiếm được cả miền Nam nầy? Họ có bàn tay sắt, tạm
thời bọc trong lớp nhung, nhưng phải có lúc họ xé bỏ
lớp nhung đó chứ. Bao giờ thì họ sẽ trình diễn bàn
tay thực sự bằng sắt của họ ra?
- Tôi không biết nhưng tôi hi
vọng rằng, ở thời điểm chiếm Sài gòn thì họ vẫn
còn tự kềm chế được nghĩa là chưa cởi bỏ lớp
nhung như anh nói. Thế là chúng ta chưa phải làm ma ngay mà
vẫn chứng kiến được giờ phút lịch sử cực kỳ quan
trọng như anh vừa mới nói.
Định hòa giải:
- Thôi đừng cãi nữa. Chuyện gì
phải đến thì sẽ đến. Tất cả chúng ta đây, sinh ra,
lớn lên và làm việc trong cái xã hội tự do của miền
Nam. Bây giờ, xã hội tự do nầy sắp sụp đổ, ai muốn
tránh chế độ độc tài của cộng sản thì cứ đi, ai
muốn ở lại để cam chịu thân phận kẻ bại trận thì
cứ yên lòng chấp nhận mọi tình huống mà kẻ chiến
thắng đem đến cho chúng ta, kể cả cái chết.
Nhiều người vỗ tay. Anh Định
cao hứng nói tiếp:
- Trong lịch sử Việt Nam, ông
cha ta cũng đã trải qua nhiều lần bại trận và đã để
lại biết bao trang sử bi hùng. Chúng ta đang chứng kiến
sự lặp lại trang sử bi hùng đó. Nói chuyện lịch sử,
ở đây không ai hơn anh Tân, giáo sư sử địa được.
Đâu, anh Tân có ý kiến thế nào nói cho anh em nghe.
Tân có vẻ bị bất ngờ. Anh ấp
úng:
- Ý kiến về việc gì?
- Anh có nhận định thế nào khi
cộng sản chiếm cả miền Nam nầy?
Tân đáp lời:
- Cũng như tất cả anh em, tôi
không biết đích xác chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng có điều
chắc chắn mà tôi biết là chiến tranh sắp chấm dứt và
cộng sản sắp thắng trận. Chúng ta không nên phàn nàn
về điều đó. Cộng sản thắng vì họ đã huy động
được toàn bộ nhân lực, vật lực của miền Bắc lại
được sự viện trợ hết mình của Liên xô lẫn Trung
cộng. Chúng ta bại trận vì chúng ta không tạo được sự
đoàn kết và quyết tâm chiến đấu của toàn thể khối
nhân dân miền Nam và người Mỹ cũng không giúp đỡ
chúng ta đến cùng.
Định ngắt lời:
- Không, chúng tôi không muốn
phân tích lý do thắng trận và bại trận. Chuyện đó để
dành cho các sử gia sau nầy. Tôi muốn anh hình dung chúng
ta sẽ phải nhận chịu tới mức nào khi cộng sản vào
đây. Có lẽ hôm nay là dịp cuối cùng mà mình ngồi
chung với nhau để trao đổi điều đó. Tiếng nói chung
của anh em cũng có ích vì nó giúp mỗi người định được
cho mình một thái độ hữu lý nhất ngay từ bây giờ để
đối phó với điều gì xảy ra trong những ngày sắp tới.
Tân gật đầu:
- Bây giờ thì tôi hiểu ý anh
rồi. Nếu chúng ta nhận định rằng cộng sản vào đây
thì nhất định chúng ta sẽ phải rơi vào chín tầng địa
ngục, thì ngay bây giờ hãy mau mau về cuốn gói trốn đi.
Còn nếu tin rằng cộng sản vào đây sẽ đối xử nhân
đạo thì chúng ta cứ vui vẻ ở lại. Có đúng không nào?
Tuy nhiên, tất cả anh em mình ngồi đây làm sao biết được
điều gì sẽ xảy ra. Có lẽ chỉ những ông lãnh tụ ở
Hà nội mới biết cộng sản sẽ có hành vi thế nào đối
với nhân dân miền Nam mình.
Anh giám thị An nói tiếp:
- Đúng, tất cả chỉ là dự
đoán thôi. Nhưng điều chắc chắn là nếu ở lại, chúng
ta phải chịu đựng chế độ cộng sản. Chịu đựng thế
nào, nhiều hay ít thì chưa thể xác định được. Vừa
rồi, anh Tân phát biểu, có một điều đúng vào sự suy
nghĩ từ lâu của tôi. Đó là chiến tranh sắp chấm dứt.
Cuộc chiến nầy kéo dài đã quá lâu, đã làm đổ quá
nhiều máu, đã gây ra quá nhiều tang tóc cho cả hai miền.
Vì vậy hòa bình đối với đồng bào mình thì vô cùng
quí giá. Nếu phải chịu đựng chế độ cộng sản mà
được sống trong hòa bình thì chúng ta cũng cam lòng.
Quí ngắt lời An bằng giọng hậm
hực:
- Bây giờ thì anh nói như thế
nhưng biết đâu khi sống với cộng sản anh lại bảo thà
cứ còn chiến tranh để hi vọng duy trì chế độ tự do
còn hơn. Hòa bình và tự do, chưa biết thứ nào quí hơn
thứ nào.
Một lần nữa, Định lại hòa
giải:
- Thôi, không nên cãi cọ nhiều
có thể mích lòng nhau. Hòa bình hay chiến tranh, tự do hay
nô lệ, dân chủ hay độc tài, tất cả tuỳ thuộc vào
bánh xe lịch sử, anh em mình chỉ còn biết chấp nhận
thôi. Chắc chắn hôm nay là buổi gặp mặt cuối cùng của
anh em mình trong cái bầu không khí mà từ lâu nay mình
cùng hít thở với học sinh thân yêu của mình. Sau nầy
có phiêu bạt về chân trời nào đi nữa, anh em hãy dành
vài phút để nhớ nhau, nhớ những ngày vui dưới mái
trường của miền Nam tự do. Tất cả những gì đẹp đẽ
nơi đây sắp sửa rơi vào vùng kỷ niệm của chúng ta
rồi.
Định ngưng nói, mọi người im
lặng vì xúc động. Đột nhiên, anh đổi giọng vui vẻ:
- Thôi, anh em hãy nâng ly uống
mừng ngày hội ngộ cuối cùng của chúng ta. Dù ngày mai
hoàn cảnh có tồi tệ đến đâu đi nữa, chúng ta cũng
cứ giữ những kỷ niệm đẹp đẽ và êm đềm của
những ngày cầm phấn trong các lớp học của mái trường
nầy.
Mọi người vỗ tay hoan hô. Định
cao hứng:
- Anh em ở lại đây, tôi đi kiếm
thêm rượu và thức ăn. Ai không phải bận việc gia đình
thì tiếp tục ngồi đây chơi qua buổi trưa đến buổi
chiều. Đồng ý không?
Tất cả mọi người đều ở
lại.
Bữa tiệc đơn sơ để vĩnh biệt
nhau kéo dài đến chiều. Trong cơn say chếnh choáng, anh em
từ giã nhau, trên nét mặt mọi người ít nhiều đều có
vẻ thê lương.
Tân đẩy xe ra đường, đạp cho
nổ máy nhưng vẫn ngồi yên. Anh nhìn ngôi trường mà
mình đã đến dạy gần mười năm rồi. Anh quay mặt lui
nhìn những hàng cây cao vút của sở thú, chợt nhớ lại
chiếc băng đá nơi xưa kia anh đã ngồi tâm sự với
Bính, người bạn cực kỳ dễ thương đã ngã gục trên
chiến trường miền Tây. Cái chết của Bính cũng như của
hàng triệu lính và dân thường của miền Nam, bây giờ
hóa ra vô ích. Miền đất tự do nầy đành chịu thua sự
kiên trì của người cộng sản. Với chủ trương chiến
tranh lâu dài, họ đã làm cho những người muốn bảo vệ
tự do phải nản lòng, suy yếu dần và cuối cùng đành
thúc thủ.
Tân vòng xe ra bờ sông, tìm một
chiếc băng đá có bóng mát, ngồi xuống nhìn người ta
đang rộn rịp trên bến cảng, một vài chiếc tàu có lẽ
đang chuẩn bị lên đường.
Một lát sau, Tân đưa tay nhìn
đồng hồ rồi uể oải đứng dậy. Anh lên xe và chạy
thẳng về tổng y viện Cộng hòa. Khi hai vợ chồng và
hai con về đến nhà, Tân để ý ngay một mảnh giấy
trắng cuộn tròn cắm vào một ổ khóa. Linh tính báo cho
anh biết có một điều gì đó quan trọng đã xảy ra. Anh
dựng xe, đỡ hai con xuống và phóng đến cửa rút mảnh
giấy ra đọc vội vã:
“Bây giờ là mười giờ sáng.
Mai qua nhà thấy cửa đóng nên trở về lấy giấy viết
vội mấy dòng trong nước mắt. Anh Thế vừa về và đốc
thúc lấy ngay những thứ quí giá cùng một ít quần áo
để vào tổng tham mưu. Chắc chắn là ra ngoại quốc rồi.
Làm sao để gặp anh Tân, Thùy Liên và hai cháu đây? Mai
vừa khóc vừa chạy lui, chạy tới làm cho anh Thế phát
cáu phải nạt nộ, Mai mới bình tĩnh lại một chút để
gói ghém đồ đạc. Thôi Mai xin từ biệt! Từ biệt Việt
Nam và những người thân yêu nhất của Mai. Anh Tân ơi,
Thùy Liên ơi, hai cháu ơi, Mai gởi lại tất cả yêu
thương đầy nước mắt của Mai!”
Mảnh giấy chỉ viết có bao
nhiêu đó thôi. Tân đọc xong đứng ngẩn ngơ thì Thùy
Liên đã ôm chặt vai anh khóc nức nở. Nàng cũng vừa đọc
xong lá thư vĩnh biệt đó. Tân mở cửa dìu vợ bước
vào nhà, hai đứa bé mặt mày ngơ ngác theo sau.
Thùy Liên lau vội nước mắt:
- Anh Tân, mình qua nhà chị Bạch
Mai đi.
Tân lắc đầu:
- Qua làm gì nữa, họ đi từ
mười giờ sáng rồi.
- Hay là mình thẳng vào tổng
tham mưu xin gặp mặt.
Tân vẫn tiếp tục lắc đầu:
- Không được đâu. Lúc nầy ai
mà cho mình vào đó. Vả lại, giờ nầy họ không còn
trong đó nữa đâu. Có lẽ họ lên Tân sơn nhất từ sáng
hay trưa rồi.
- Em nghe nói đêm rồi Tân sơn
nhất bị pháo kích, không biết máy bay có cất cánh được
không?
Tân không trả lời, im lặng ngồi
xuống ghế nhắm mắt lại.
*
* *
Hai ngày sau, Sài gòn thực sự
lên cơn sốt. Mọi người đều nhốn nháo, số đông tìm
cách trốn khỏi đất nước sắp được “giải phóng”.
Người ta đổ xô đến phi trường, đến bến cảng, xe
cộ vứt la liệt dọc đường. Chung quanh tòa đại sứ
Mỹ, người bu đông nghẹt nhưng không thể nào vào được
bên trong.
Khi màn đêm buông xuống, đa số
đành trở về nhà và phải từ bỏ lòng mong muốn trốn
ra ngoại quốc vì sáng sớm hôm sau, những toán quân tiên
phong của Việt cộng từ nhiều ngã đã tiến vào thủ
đô. Họ bị chận lại nhiều nơi. Nhưng những ổ kháng
cự lẻ tẻ và vô tổ chức đó chỉ làm chậm bước
tiến chứ không thể ngăn cản được cộng quân.
Đến giữa trưa, xe tăng do Trung
cộng chế tạo, đè sập cửa dinh độc lập và từ giờ
phút đó, nước Việt Nam Cộng hòa bị xóa tên khỏi bản
đồ thế giới!
Sáng hôm ấy, vợ chồng Tân và
hai con đều ở trong nhà. Thùy Liên hồi hộp lắng nghe
những loạt súng lẻ tẻ từ xa vọng lại. Rồi tất cả
yên lặng. Trong máy thu thanh vang lên rất rõ lời tuyên bố
đầu hàng của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Sau khi nghe lời tuyên bố trong
máy thu thanh, Thùy Liên quay qua nhìn chồng và ngạc nhiên
thấy trong đôi mắt của anh một vẻ cực kỳ bi thương
hòa lẫn với một niềm vui kỳ lạ. Anh ngồi bất động,
nhìn trân ra bên ngoài qua khung cửa sổ. Từ khóe mắt của
anh hai giọt nước to và tròn ứa ra, lăn dài xuống má.
Thùy Liên nhích lại gần chồng,
đặt tay lên vai anh;
- Anh Tân, hết chiến tranh rồi!
Tân quay lại:
- Hai con đâu rồi?
- Chúng ăn xong và ngủ rồi.
Nàng nói xong, buông người trong
hai cánh tay siết chặt của chồng. Nàng nhắm mắt, miệng
thì thào lặp lại:
- Anh Tân, hòa bình rồi, chấm
dứt ba mươi năm chiến tranh! Dù sao đi nữa, con chúng ta
cũng không phải điêu đứng vì bom đạn.
Tân gật đầu, hôn mạnh vào đôi
môi của vợ rồi nâng nàng ngồi dậy.
Thùy Liên lắng tai nghe một lúc
rồi nói với chồng:
- Anh Tân, có tiếng xe chạy rầm
rầm ngoài đường. Có cả tiếng bánh xích sắt của xe
tăng nữa. Không biết xe của bên nào vậy?
Tân trả lời:
- Xe của bộ đội Bắc Việt
tiếp tục chuyển quân vào đó. Họ phải có ít nhất năm
sư đoàn thì mới chiếm được hết các công sở và các
trọng điểm của thủ đô rộng lớn nầy.
- Có cả tiếng người nói xôn
xao nữa. Mình có nên đi xem quân cộng sản ra sao không
anh?
Tân lắc đầu:
- Lúc nầy không nên ra khỏi nhà
đâu. Lời đầu hàng đã được tuyên bố trên đài phát
thanh rồi nhưng biết đâu cũng còn có những chiến sĩ
tức giận bắn vào bộ đội thì nhất định sẽ bị bắn
trả, những viên đạn đâu có mắt để phân biệt lính
tráng với dân thường.
Thùy Liên nhìn ra ngoài với cặp
mắt nghi ngờ:
- Không lẽ giờ nầy mà còn có
người bắn vào bộ đội, có khác gì tự sát.
- Sau bất cứ cuộc bại trận
nào cũng có người muốn tự sát vì uất ức. Vả lại,
ra đường lúc nầy có thể gặp nguy cơ khác nữa.
- Nguy cơ gì?
- Chính quyền quốc gia sụp đổ
quá nhanh chóng, bộ đội Việt cộng thì đang chuyển quân
đến chiếm các công sở và truy tìm tàn quân Việt Nam
Cộng hòa. Thành phố bây giờ đang rơi vào tình trạng vô
chính phủ. Đây chính là cơ hội tốt nhất cho bọn lưu
manh cướp bóc hoặc trả thù cá nhân. Tốt hơn hết là
mình nên đóng cửa cho kỹ, ở trong nhà đừng ló mặt ra
ngoài.
Thùy Liên tỏ vẻ sợ sệt. Nàng
ra trước gài chốt cửa rồi trở vào ngồi bên chồng.
Được một lúc hai vợ chồng vào buồng lên giường nằm
cố dỗ giấc ngủ nhưng không thể nào ngủ được.
Buổi trưa và buổi chiều lặng
lẽ trôi qua. Từ bên ngoài, tiếng người nói, tiếng xe
cộ văng vẳng vọng vào. Hai đứa bé đã thức dậy từ
lâu. Hình như chúng cũng ý thức được tình hình nghiêm
trọng qua nét mặt tư lự và tiếng bàn bạc nho nhỏ của
cha mẹ. Vì vậy, chúng cũng im lặng chứ không đùa giỡn
ầm ỉ như mọi ngày.
Cơm nước xong thì trời vẫn
chưa tối. Tân nhẹ nhàng mở cửa nhìn ra bên ngoài. Khung
cảnh có vẻ rất bình thường. Mọi nhà đều mở cửa,
trên con hẻm có vài người qua lại. Tân bước hẳn ra
ngoài, giật mình vì tiếng la to từ nhà trước mặt:
- Ủa, thầy Tân còn đây hả? Từ
sáng đến giờ, thấy nhà thầy đóng cửa im lặng, tôi
tưởng thầy cô bỏ đi rồi.
Tân nhìn sang thấy bác Ba Tín
đang ở trần, vội vã đáp lời:
- Không, chúng tôi chẳng đi đâu
cả. Chúng tôi nhất định ở lại đây sống với bà
con. Tình hình thế nào rồi hả bác?
Bác Ba mời, giọng đon đả:
- Thầy qua đây chơi đi. Mình vô
nhà nói chuyện thì hay hơn. Đừng ngại, ngồi trong nhà
tôi nhìn qua nhà thầy rõ lắm mà.
Tân bước qua đường, vào nhà
bác Ba Tín. Bác nói ngay:
- Việt cộng chiếm toàn bộ Sài
gòn rồi, chính phủ tuyên bố đầu hàng vô điều kiện
và kêu gọi mọi quân nhân buông súng trở về nhà.
- Dạ, chuyện đó cháu đã biết
qua đài phát thanh rồi. Cháu muốn hỏi tình hình ngoài
phố từ khi trưa đến giờ thế nào? Tụi cháu ở trong
nhà không dám ra ngoài nên không biết ngoài đường có
lộn xộn lắm không. Bác có hay biết gì không?
- Biết chứ. Thằng Nghĩa nhà tôi
ăn cơm trưa xong thì đạp xe đi. Tôi không cho đi thì nó
nói rằng nó phải đi để cho biết việc gì xảy ra trong
giờ phút lịch sử nầy. Tôi nghe nói cũng phải nên không
cản nữa.
- Anh Nghĩa đã về chưa bác?
- Rồi, nó về lúc nãy rồi. Nó
về kể đủ chuyện nghe thực lạ tai. Tôi già rồi nhưng
nghe chuyện lạ thì cũng háo hức nên đi một vòng với
nó, mới về tới đây.
- Nhưng tình hình nguy hiểm, sao
bác và em Nghĩa dám đi?
- Chẳng có gì nguy hiểm.
- Không có chuyện cuớp bóc hay
trả thù hả bác?
- Không có đâu, mọi nơi đều
yên tĩnh.
Tân giải thích:
- Trong chiến tranh, khi một thành
phố lớn bị đổi chủ thì có một giai đoạn vô chính
phủ, gần như luôn luôn xảy ra cướp bóc và trả thù.
- Tôi đọc sách cũng thấy điều
đó. Nhưng ở thành phố mình thì không có như vậy.
- Có phải nhờ bộ đội giữ an
ninh không?
Bác Ba lắc đầu:
- Không phải đâu. Bộ đội chỉ
lo tràn vào các công sở, lục soát và bố trí trong đó
chứ có để ý gì đến tình hình trong dân chúng.
Bác bỗng cười sằng sặc:
- Trước đây, nghe nói tới lính
Việt cộng, mình hình dung những con người vạm vỡ lém
lỉnh, nay gặp phần nhiều là bọn con nít mặt non choẹt.
Súng ống đạn dược và lựu đạn mang đầy mình không
che được cái vẻ khờ khạo của những đứa trẻ ở
làng quê nghèo khổ lần đầu tiên được về thành phố.
Tân hỏi:
- Bác có nói chuyện với các chú
bộ đội đó không?
Bác móc thuốc ra hút rồi trả
lời:
- Tôi không nói chuyện nhưng
thằng Nghĩa con tôi có nói. Lúc đầu hỏi gì mấy chú
cũng không chịu trả lời. Thằng Nghĩa ngồi hồi lâu bắt
chuyện, mời mấy chú hút thuốc, cuối cùng các chú mới
chịu nói chuyện. Thật là đáng thương và đáng tức
cười. Các chú thú thật rằng vào cái đất Sài gòn nầy
mọi thứ làm cho các chú ngạc nhiên. Ở ngoài Bắc người
ta nói với các chú rằng Sài gòn là một cái ổ chó bẩn
thỉu, dân chúng miền Nam sống lúc nhúc trong cái ổ chó
đó, phải vào nhanh để giải phóng. Vào đây thì thấy
khác hẳn. Nhà cửa sao mà to lớn đồ sộ đến thế,
đường phố sao mà phẳng phiu, người ta thì ăn mặc đẹp
đẽ, mặt mày tươi tắn hồng hào. Đó là những điều
thằng Nghĩa nhà tôi kể lại chứ tôi chỉ đi một vòng
nhìn qua thôi rồi về chứ không muốn đến tiếp xúc với
bộ đội làm gì?
- Đi một vòng và chứng kiến
cảnh thay đổi, bác thấy vui hay buồn.
- Có buồn mà cũng có vui.
- Tại sao buồn và tại sao vui?
- Buồn là Sài gòn thất thủ quá
nhanh, miền Nam sụp đổ quá chóng vánh. Mấy mươi năm
nay, mình là công dân của một chế độ gọi là Việt
Nam Cộng hòa. Trong phút chốc chế độ đó bỗng tiêu
tan, cái quốc gia của mình bỗng biến mất trên bản đồ
thế giới. Thiệt là buồn!
- Còn tại sao lại vui?
- Dễ hiểu quá. Mấy hôm nay, ai
cũng lo sợ đường phố Sài gòn bị ngập trong máu và
thây người khi Việt cộng đánh vào đây. Nhưng điều đó
không xảy ra. Việc chết chóc nghe nói cũng có nhưng quá
ít so với điều chúng ta lo sợ. Thay đổi hoàn toàn một
chế độ mà thủ đô được yên ổn thế nầy là điều
đáng mừng.
Tân mỉm cười:
- Thế là hết lo rồi phải không
bác?
- Chưa đâu. Tôi vẫn còn lo nhưng
cũng hi vọng.
- Bác lo điều gì?
- Lo không biết sống với cộng
sản thì thế nào đây? Nghe nói đồng bào mình ngoài Bắc
khổ lắm. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, quần
quật làm việc để cung phụng cho cuộc chiến tranh ở
miền Nam. Chiến tranh thì lúc nào cũng làm cho đất nước
kiệt quệ, dân chúng lầm than.
- Nhưng bây giờ chiến tranh Việt
Nam chấm dứt rồi thì còn lo gì nữa.
- Ừ, thôi, cuộc huynh đệ tương
tàn thì đến đây kể như kết thúc. Trong hai anh em có
một thằng lăn đùng ra chết thì xong rồi.
Tân gật đầu:
- Thôi lo thì bác có hi vọng điều
gì không?
- Tôi hi vọng những người cộng
sản ở Hà nội cũng biết mỏi mệt vì chiến tranh như
chúng ta vậy. Từ đây mong hai miền chung tay xây dựng hòa
bình.
Tân cố mỉm cười:
- Vậy cháu cũng cầu chúc hi vọng
của bác được thành hình. Bác già rồi mà khi nào cũng
vậy, nói chuyện với bác cháu cũng có thêm được vài ý
nghĩ lạc quan.
Bác Ba vuốt râu, có vẻ hài
lòng:
- Phải lạc quan mới sống được
thầy ạ. Nhưng mà tôi vẫn lo lắm. Bao nhiêu năm nay, đồng
bào mình ngoài Bắc vẫn sống được với cộng sản thì
miền Nam mình cũng sẽ sống được, với điều kiện….
Thấy bác ngừng ngang, Tân hỏi:
- Điều kiện gì hở bác?
- Quên đi cái nếp sống cũ của
mình.
Ông già nói xong cười như méo
miệng. Tân lắc đầu đứng dậy, kiếu từ rồi về nhà.
Thùy Liên đang ngồi trên ghế
đọc chuyện thiếu nhi cho hai đứa bé nghe. Thấy chồng
vào, nàng ngưng đọc, ngẩng đầu lên:
- Anh nói chuyện gì với bác Ba
mà lâu vậy?
- Bác Ba vừa đi phố về và kể
những chuyện ngoài phố.
- Có cuớp bóc như anh lo ngại
không?
- Không, nhiều người đổ xô ra
đường nhưng không có cướp bóc gì cả. Đó là điều
đáng mừng và đáng lấy làm lạ.
- Có phải nhờ bộ đội giữ
gìn cho dân chúng không?
- Anh có hỏi bác ba như thế
nhưng bác bảo bộ đội chẳng quan tâm gì đến sinh hoạt
dân sự. Họ chỉ có nhiệm vụ đánh chiếm chứ không có
nhiệm vụ duy trì an ninh trật tự.
- Thế thì tại sao?
- Anh đang suy nghĩ về điều đó.
Có lẽ lý do chính yếu là dân Sài gòn bẩm tính hiền
lành.
- Và cũng nhờ anh một phần nữa.
Tân mỉm cười:
- Em muốn ngạo anh điều gì
vậy?
- Em nói thực chứ đâu có dám
ngạo anh. Từ lâu nay, miền Nam, đặt biệt là Sài gòn
được hưởng một nền giáo dục rất tốt trong đó có
công sức của anh. Một nền giáo dục tốt bao giờ cũng
tạo nên được sự thuần hậu và lương thiện trong dân
chúng.
- Em nghĩ như thế thực sao?
- Thực chứ, em tin như thế vì
em lớn lên trong nền giáo dục đó mà.
- Cám ơn em. Anh sung sướng vì ý
nghĩ đó của em. Anh mong rằng đó là sự thực. Người
cộng sản vào đây, nhất thiết sẽ xoá bỏ nền giáo
dục đó để áp dụng nền giáo dục của giai cấp vô
sản. Lúc đó không biết hậu quả sẽ thế nào.
- Ước chi nhà cầm quyền Hà nội
từ bỏ chủ nghĩa cộng sản đi thì cả nước được
thống nhất trong hạnh phúc anh nhỉ. Lúc đó toàn dân
Việt Nam sẵn sàng tha thứ cho họ cái tội gây ra cuộc
chiến tranh dài dằng dặc vừa qua.
Tân vội đưa tay bịt miệng Thùy
Liên lại:
- Kể từ bây giờ, em nên cẩn
thận trong lời ăn tiếng nói nghe em. Tốt hơn hết là
tránh nói chuyện chính trị đi.
Tân thở dài, giọng nhỏ lại
như nói với chính mình:
- Tránh đi là phải vì bây giờ
khi nói tới chính trị thì buộc phải nói theo luận điệu
của đảng. Thà câm miệng lại để giữ gìn cái liêm sỉ
của mình.
Thùy Liên cười:
- Vâng, em nghe lời anh từ rày
không bàn chuyện chính trị nữa. Em chỉ nói chuyện gia
đình thôi.
Nét mặt nàng bỗng sa sầm:
- Anh Tân. Không biết tình hình
dưới Cần thơ thế nào anh nhỉ. Em lo quá.
- Hình như ngày hôm nay, sau lời
tuyên bố đầu hàng của chính phủ và lời kêu gọi
buông vũ khí thì tất cả mọi nơi đều im tiếng súng.
Khi nãy anh ngồi nói chuyện với bác Ba và nghe tiếng
radio phát ra như thế.
- Làm sao liên lạc được để
biết tin ba, hai đứa em, thằng Viên, thằng Mãn, và gia
đình chị Hai anh nhỉ?
- Phải đợi vài hôm nữa xem
sao.
*
* *
Trong những ngày đầu tiên, thành
phố Sài gòn được cai trị bởi một tổ chức gọi là
ủy ban quân quản. Ủy ban nầy ra thông cáo buộc mọi
nhân viên của chế độ cũ phải trở vào trình diện ở
nhiệm sở của mình.
Nhà trẻ không còn hoạt động
nữa nên Tân và Thùy Liên phải gởi hai đứa bé cho hàng
xóm. Tân đưa vợ đến tổng y viện rồi vào trường.
Cửa trường mở toang, bên trên là một biểu ngữ bằng
vải đỏ với hàng chữ chào mừng quân đội giải phóng.
Cờ mặt trận Giải phóng treo la liệt khắp nơi. Trong sân
trường và trong các lớp, nhiều học sinh lui tới lăng
xăng.
Tân bước vào phòng giáo sư.
Nhiều người ngẩng lên nhìn và mỉm cười với anh. Định
ngồi trong góc phòng, đưa tay ngoắt. Tân vội bước đến.
Định nói nhỏ vào tai anh:
- Tôi tưởng anh đi thoát rồi
chứ?
Tân quay sang, cũng nói nho nhỏ:
- Còn anh, sao còn ngồi đây?
- Sau cái hôm mình chia tay tại
trường, tôi quyết định đưa cả gia đình đi, cố hết
sức nhưng không đi được. Chúng tôi chạy lên Tân sơn
nhất thì phi trường đóng cửa vì bị pháo kích. Nghe đồn
có tàu ở kho Năm Khánh hội, chạy đến đó thì không
tài nào qua lọt, lộn về bến tàu định chui vào Hải
quân công xưởng thì bị chận lại. Cuối cùng đành phải
về nằm nhà để hôm sau chứng kiến cảnh tượng Sài
gòn thất thủ.
Tân hỏi:
- Giáo sư trường mình có ai đi
thoát không?
- Chắc chắn là có nhưng chưa
biết là ai, đợi vài hôm nữa thì sẽ biết rõ. Còn kẹt
lại đây, tôi lo lắm. Tôi với anh là sĩ quan biệt phái,
không biết số phận mình sẽ ra sao đây. Trường có sáu
anh em như mình, toàn là trung úy và đại úy cả.
Định thở dài rồi nói tiếp:
- Thôi, tới đâu hay đó, mình
đành cam chịu cả. Đến chết là cùng.
Tân an ủi:
- Không đến đỗi chết đâu.
Mình đừng tỏ ý chống lại họ thì họ cũng chẳng phí
công giết mình.
- Vâng, tôi cũng nghĩ như anh.
Mình cứ chịu cúi đầu, họ sai đâu mình làm đó. Họ
bảo mình hốt rác hay chùi cầu tiêu thì mình cũng rán mà
làm cho cẩn thận. Lãnh tụ của họ bảo trí thức không
bằng cục phân. Mình là trí thức thì xin làm cục phân
cũng được.
- Anh có biết họ định bắt
chúng ta làm gì không?
- Nghe nói họ đang phát động
các trường thu gom sản phẩm văn hoá đồi trụy để
tiêu hủy.
- Sản phẩm văn hoá đồi trụy
là cái gì?
Định mỉm cười:
- Chiều hôm qua, tôi có dự một
buổi nói chuyện của cán bộ địa phương. Tất cả
những gì của miền Nam đều là xấu. Vậy sản phẩm văn
hoá đồi trụy là tất cả những băng đĩa nhạc rồi
sách vở tạp chí mà chúng ta đã dùng bấy lâu nay. Đêm
rồi, tôi bắt đài Hà nội nghe một bài bình luận bảo
rằng nền giáo dục trong Nam nầy là vong bản, có mục
tiêu đào tạo những tay sai cho thực dân đế quốc nên
phải đạp đổ đi để thay bằng nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa. Lý luận như thế thì tất cả những gì chúng
ta đã dùng để giáo dục bấy lâu nay đều là sản phẩm
văn hoá đồi trụy. Họ cố tình đạp đổ nền giáo dục
của miền Nam thì dĩ nhiên giáo sư chúng ta cũng phải đổ
theo. Đổ trước hết là số giáo sư biệt phái chúng
mình. Chúng ta vừa có tội bắn phá cách mạng lại vừa
có tội phổ biến văn hóa đồi trụy, đào tạo tay sai
cho thực dân đế quốc.
Định bỗng cười thành tiếng:
- Tội to như thế mà để cho
sống thì thực là phi lý.
Tân hỏi lại:
- Anh nghe họ nói nền giáo dục
miền Nam là vong bản à?
- Đúng vậy. Là vong bản, là đồi
trụy, là phục vụ chiến tranh, và gì gì nữa tôi không
nhớ hết.
Tân im lặng, sực nhớ lời của
Thùy Liên bảo rằng nền giáo dục mà anh góp sức trong
gần mười năm đã đào tạo được cả một xã hội gồm
hầu hết những con người nhân hậu và lương thiện. Tân
lẩm bẩm:
- Lý lẽ của kẻ mạnh thì không
cần chân lý.
Định quay sang:
- Anh nói gì thế?
- La raison du plus fort est toujours
la meilleure!
- Đúng vậy. Họ là kẻ mạnh,
kẻ chiến thắng thì họ có quyền tự đề cao, chúng ta
là kẻ yếu và bại trận thì tốt hơn hết là cứ gật
đầu.
Định xoay ngang người nắm lấy
tay Tân:
- Anh Tân, trong số giáo sư trong
trường, tôi mến anh nhất dù anh không thân với tôi bằng
vài người khác. Với tình hình nầy, trong những ngày
tới, số phận sĩ quan biệt phái chúng mình sẽ đầy bất
trắc. Tôi muốn nói với anh điều nầy, không hẳn là
một lời khuyên, nhưng rất cần thiết.
- Là một kinh nghiệm sống phải
không?
Định lắc đầu:
- Không phải kinh nghiệm sống.
Trước đây, tôi đã sống với cộng sản ngày nào đâu.
Đây là điều tôi đọc được trong một tác phẩm có
giá trị của một văn sĩ đã trốn khỏi lao tù cộng sản
Liên xô. Anh có muốn nghe không?
- Có, tôi muốn nghe lắm chứ.
- Cộng sản là những người rất
ghét lời nói thật và rất ham muốn sự phục tòng vô
điều kiện của kẻ khác. Nếu cán bộ cộng sản chỉ
một con bò và nói với anh là con trâu thì anh hãy vui vẻ
gật đầu mà nói: “Thưa đồng chí, nó là con trâu, đúng
như lời đồng chí nói”. Anh cứ nói như thế đi thì
anh sẽ sống khỏe với cộng sản.
- Nhưng mà….
Định ngắt lời:
- Nhưng cái gì? Anh muốn nói rằng
như thế thì mình mất sự chân thành phải không? Sự
chân thành đâu phải lúc nào cũng tốt. Với lòng anh, với
vợ con anh, với bạn bè anh, sự chân thành là cần thiết,
nhưng với cộng sản thì sự chân thành chẳng tốt tí
nào đâu.
Tân im lặng không cãi lại nữa.
Anh biết Định là một người bạn tốt, hiểu biết
rộng. Định đã đậu cao học triết và chuẩn bị thi
tiến sĩ. Nhiều trường đại học ngỏ ý mời anh về
giảng dạy nhưng anh từ chối. Có lần, anh đã tâm sự
với Tân rằng sau khi đậu tiến sĩ rồi anh vẫn tiếp
tục dạy trung học, dù cái chức giáo sư đại học là
ước mơ rất lớn của người trí thức. Theo anh, bậc
trung học là quan trọng nhất trong một hệ thống giáo
dục. Ở bậc tiểu học thì ta chưa thể nói gì nhiều
với các em. Ở bậc đại học, kiến thức cho sinh viên
chỉ thuần túy là kiến thức. Còn ở bậc trung học,
kiến thức đó sẽ được tiêu hóa và biến thành nhân
cách của các em về sau nầy, cho đến hết cuộc đời.
Anh Định bị động viên và nhập ngũ khoá Mười bốn sĩ
quan trừ bị Thủ đức, được giải ngũ và được biệt
phái về dạy học trở lại, y như trường hợp của Tân
vậy. Lúc còn học ở quân trường, hai người chưa quen
nhau.
Suốt ngày hôm đó, các giáo sư
từng cặp ngồi rù rì nói chuyện với nhau. Đến xế
chiều, họ chia tay nhau ra về và hẹn đến hôm sau thì
gặp lại.
Tân ra khỏi trường, chạy xe qua
nhiều con đường. Cờ xí và biểu ngữ khắp nơi, trông
rất rực rỡ nhưng tất cả các cửa tiệm đều đóng
cửa. Cờ bay phất phới và các cửa tiệm đóng kín tạo
nên một vẻ tương phản lạ kỳ.
Khi Tân chạy đến tổng y viện
thì thấy Thùy Liên đang đứng đợi trước cổng. Nét
mặt nàng có vẻ bơ phờ. Tân dừng xe, nàng vội vàng
bước đến và ngồi vào yên sau. Tân quay lại hỏi:
- Em đợi anh lâu chưa?
- Em vừa mới ra thì anh đến.
- Em làm việc nhiều lắm sao mà
mặt mày bơ phờ thế?
- Em làm việc suốt cả ngày nay,
không kịp ăn uống.
- Có nhân viên cũ đến làm với
em không?
- Không, mấy hôm nay chẳng có ai
vào phòng thuốc cả. Phòng mở cửa, có một chú bộ đội
ngồi ôm súng gác. Em được người ta cho vào. Nhìn nơi
mình đã từng làm việc, em rất xúc động, nhớ lại
những ngày sống gần gũi với thương binh. Không biết
còn thương binh nào bên dưới các dãy phòng điều trị
hay không.
- Thế rồi em có làm việc không?
- Có chứ. Em vào phòng thuốc
thấy vẫn còn nguyên vẹn. Em nhớ trong những ngày cuối
cùng, thiếu tá trưởng phòng luôn luôn nhắc nhở nhân
viên, giữ gìn cẩn thận thuốc men đừng làm thất thoát.
Thiếu tá bảo rằng, trước khi rút lui, vũ khí đạn dược
thì nên phá hủy còn thuốc men thì phải giữ nguyên để
họ đến đây thì có mà dùng cho thương binh của họ.
Thiếu tá bảo rằng đối với quân y thì không có kẻ
thù, thương binh bên nào thì cũng là nạn nhân của chiến
tranh, cần được an ủi và săn sóc. Đó là một con người
đức độ, không biết bây giờ trôi nổi ở đâu rồi.
Thôi anh lo chú ý chạy xe đi. Tí nữa về nhà, em kể tiếp
anh nghe.
Tân vặn tay ga, xe vọt tới. Về
đến nhà, anh dựng xe rồi mở cửa trong khi Thùy Liên qua
nhà hàng xóm đưa hai đứa bé về. Công việc lại diễn
ra như trước đây. Tân lo tắm rửa hai con trong khi Thùy
Liên vào bếp nhúm lửa sửa soạn bữa ăn chiều.
Tân tắm cho con xong, đến ngồi
trên chiếc ghế trước bàn ăn. Thùy Liên quay lui nhìn anh
mỉm cười:
- Hôm nay anh vào trường làm gì?
- Chẳng làm gì cả. Có khoảng
hai mươi giáo sư và nhân viên ngồi than thở với nhau.
- Còn học trò?
- Có một số vào trường đùa
giỡn, ca hát và dán biểu ngữ, viết khẩu hiệu lên
tường. À, khi nãy trên xe, em nói có chuyện gì hay lắm,
kể cho anh nghe đi.
- Suốt ngày nay em làm việc với
một ông bác sĩ Việt cộng.
- Thế à? Ông ta và những người
khác đối xử với em thế nào?
- À khoan, để em kể cho anh nghe
từ đầu. Chắc anh còn nhớ sáng nay, từ xa mình đã thấy
có nhiều bộ đội đứng trước cổng tổng y viện Cộng
hòa. Em đến thì bị chận lại ngay. Em bảo rằng em là
nhân viên ở đây, đến trình diện theo lệnh của ủy
ban quân quản. Một ông bộ đội nói giọng rất nặng và
khó nghe bảo rằng chỉ những người thuộc các cơ quan
dân sự mới trình diện thôi. Đây là doanh trại của
quân đội nhân dân anh hùng thì không ai được vào. Em
ngạc nhiên vì những từ “doanh trại quân đội nhân dân
anh hùng” lần đầu tiên nghe nói tới. Trong đầu em, nơi
đây vẫn là tổng y viện Cộng hòa, một nơi quá quen
thuộc vì em đã sống và làm việc bao nhiêu năm rồi. Gần
như tức thì sau đó, em chợt hiểu bây giờ không còn là
tổng y viện Cộng hòa nữa, bao nhiêu thứ khác và cả
miền Nam thân yêu của chúng ta cũng không còn nữa. Họ
đã dùng sức mạnh chiếm được mọi thứ. Tất cả đã
trở thành vật sở hữu của họ dù họ chưa hề đổ
một giọt mồ hôi để xây dựng nên. Mấy hôm rồi, em
đã theo dõi tình hình từng ngày, từng giờ, em biết rằng
miền Bắc đã chiến thắng miền Nam và em lo lắng nhiều
hơn xúc động. Bây giờ đứng đây, cảnh vật thì quen
thuộc mà những con người thì hoàn toàn xa lạ từ áo
quần, dáng điệu đi đứng, đến lời ăn tiếng nói. Em
bỗng cảm thấy tâm hồn mình như nát vụn trong một nỗi
xúc động dữ dội chưa từng có. Em cố gắng để đừng
bật khóc trước người lạ. Em nhìn ra đường về phía
Phú nhuận và hi vọng anh còn ở đó để em khỏi phải
thuê xe về nhà. Nhưng anh đã đi rồi. Anh phải đi gấp
về trình diện nhà trường chứ. Em biết như thế và
nghĩ rằng anh cũng sẽ có tâm trạng não nề như em bây
giờ khi trở về ngôi trường thân yêu của mình. Em bỗng
cảm thấy xót thương vô cùng vô tận. Xót thương cho
anh, xót thương cho em, xót thương cho tất cả những người
miền Nam chúng mình.
Thùy Liên dừng lại, bưng nồi
cơm trên bếp xuống và bắc cái chảo lên. Tân sốt ruột
hỏi:
- Rồi sao nữa? Em không ra về
chứ? Em bảo cả ngày em làm việc với cái lão bác sĩ
nào đó mà.
- Dạ, em tính tìm xích lô để
về thì bên trong cổng có người bước ra. Mọi người
đều không mang lon, nhưng em đoán người mới ra là một
sĩ quan vì những cái nhìn có vẻ nể phục của những
người đang đứng quanh em. Ông ta nhìn em rồi hỏi trổng:
“Chuyện gì vậy?”. Một người bộ đội trả lời:
“Báo cáo anh, chị nầy phản ánh là nhân viên ở đây
và đến trình diện theo lệnh của ủy ban quân quản
nhưng chúng tôi bảo doanh trại quân đội không nhận
người đến trình diện”. Người sĩ quan đến gần quan
sát em từ đầu đến chân. Có lẽ ông ta ngạc nhiên vì
bộ quần áo dân sự của em. Ông ta hỏi: “Trước đây
chị làm gì trong nầy?” Em trả lời làm ở phòng cấp
phát thuốc. Bỗng nhiên ông ta có vẻ mừng rỡ, nói to:
“Vậy hả, chị làm ở kho thuốc à? Chị có giấy tờ
chứng minh không?”. Em móc bóp. May quá, em có mang theo thẻ
nhân viên nên vội trao cho ông ta. Ông chăm chú đọc rồi
ngẩng lên nói với chú bộ đội gác cổng: “Cho chị
nầy vào, thủ trưởng cần gặp”. Thế là em vào kho
thuốc và một lần nữa lại xúc động khi ngồi vào cái
bàn quen thuộc của mình. Khoảng mười phút sau, một ông
bộ đội khác vào và tự giới thiệu là bác sĩ.
Tân hỏi một cách tò mò và hơi
lo lắng:
- Em thấy lão ta thế nào?
- Dáng mảnh khảnh, hơi có vẻ
trí thức, ăn nói nhỏ nhẹ nhưng điều làm em lạ và khó
chịu là cây súng trong một bao da khá to lủng lẳng bên
hông ông ta.
- Tại sao em khó chịu? Ông ấy
là một quân nhân mà.
- Vâng, ông ta mặc áo quần màu
xanh của bộ đội, nhưng ông ta tự giới thiệu là bác
sĩ. Em đã làm việc bao nhiêu năm với bác sĩ quân y kể
cả những bác sĩ của đơn vị tác chiến và em chưa bao
giờ thấy họ mang súng trong y viện. Trời sinh ra bác sĩ
là để cứu người và súng là để giết người, hai thứ
đó đi chung thì trông chướng mắt lắm.
Tân cười thành tiếng:
- Thời buổi chiến tranh mà lý
luận như em thì cũng hơi lạ kỳ đó. Nhưng thôi, em là
đàn bà, lại là y tá thì chuyện đó có thể bỏ qua
được. Rồi em làm việc gì với lão bác sĩ đó?
- Làm việc gì hả? Em nói thì
anh không thể tin được và cho là em nói láo. Ông ta bắt
em nói công dụng mỗi loại thuốc và ghi ghi chép chép.
Lúc đầu em tưởng ông ấy đi kiểm kê kho thuốc và em
nghĩ rằng việc nầy chỉ nội nửa giờ thì xong. Ở đó
thuốc đã được phân loại rõ ràng, mỗi tủ, mỗi kệ
đều có đề tên và số lượng, việc sắp xếp rất
khoa học nên nhìn qua là biết ngay số tồn kho. Hồ sơ sổ
sách còn y nguyên trong hộc bàn của em. Trước đây vẫn
có những cuộc kiểm kho định kỳ và bất thường nên
công việc nầy rất quen thuộc đối với em. Ông bác sĩ
đó có vẻ không quan tâm đến số lượng thuốc tồn
kho. Ông ta đi theo em và tỏ ra lơ đễnh khi em đối chiếu
từng loại thuốc với sổ sách. Khi công việc kiểm kê
xong xuôi, em đưa bút, yêu cầu ông ta ký xác nhận để
em chấm dứt trách nhiệm thì ông gật đầu nói: “Chị
để đó, tôi ký sau”. Ông cầm mấy hộp thuốc trên tay
và hỏi em những thứ đó dùng để trị bệnh gì. Em rất
ngạc nhiên. Đành rằng hầu hết các loại thuốc của
tổng y viện là do Mỹ cung cấp nên những hàng chữ chỉ
dẫn đều là tiếng Anh, nhưng tên khoa học kèm theo thì
nhất định bác sĩ nào cũng phải biết rành chứ. Hay là
ông ta hỏi thử để tìm hiểu trình độ nhân viên của
cái chế độ mà phía ông ta vừa đạp đổ. Nghĩ như
thế, em nổi tự ái và cố trình bày thực mạch lạc
tính chất và công dụng các hộp thuốc mà ông ta đưa.
Ông ta tỏ ra rất vui thích và mở sổ ra ghi chép lia lịa.
Hết loại thuốc nầy đến loại thuốc khác, em nói khan
cả cổ. Ông ta bảo em ngồi nghỉ tại chỗ, bỏ đi ra
một chút rồi trở vào với một ly nước. Em uống nước
xong rồi tiếp tục “bài giảng”. Đến trưa, ống ấy
mang cơm và nước vào. Em ăn xong, nghỉ một chút rồi
tiếp tục “giảng bài”.
Thùy Liên cười khúc khích rồi
nói:
- Thôi để em dọn cơm ăn rồi
nói tiếp. Anh đi lau đũa, lau chén đi.
Nàng gọi to:
- Thùy Dung, Hòa Bình đâu, xuống
ăn cơm.
Hai đứa bé dạ thực to rồi từ
nhà trên hấp tấp chạy xuống. Bữa cơm đầm ấm của
gia đình bắt đầu. Thùy Liên vừa ăn, vừa kể tiếp:
- Em nói đến chiều thì mệt
ngất. Ông bác sĩ cũng tỏ vẻ thấm mệt vì phải nghe và
ghi chép liên tục. Đến tủ thuốc trụ sinh là tủ cuối
cùng thì em không còn sức giải thích; hơn nữa nhìn qua
khung cửa sổ, em thấy trời đã xế chiều nên em nói
chung chung đây là trụ sinh dùng để diệt vi khuẩn. Ông
ta gật gù nói: “Những thứ nầy, chúng tôi gọi là
kháng sinh. Nhưng kháng sinh thì chỉ một loại thôi, tại
sao đây có mấy chục loại thế nầy?”. Dù sốt ruột
sợ anh đợi nhưng em cũng phải giải thích với ông ta
rằng nói chung trụ sinh nào cũng có tác dụng với hầu
hết các loại vi khuẩn nhưng muốn có hiệu quả tốt
nhất thì phải dùng nhiều loại trụ sinh cho nhiều loại
vi khuẩn khác nhau. Vi khuẩn đường ruột thì dùng thứ
nầy, vi khuẩn đường hô hấp thì dùng thứ kia, vi khuẩn
làm mũ trên các vết thương thì phải dùng thứ nọ. Hơn
nữa, dùng một thời gian thì ở nhiều người vi khuẩn
lờn thuốc phải dùng loại khác mới hơn thì mới diệt
được. Vì vậy, bệnh viện nào cũng phải có nhiều loại
trụ sinh khác nhau. Bấy giờ, ông bác sĩ mới chịu cho em
chấm dứt công việc. Ông cám ơn em một cách lịch sự
và dặn em không nên giải thích rõ cho những ông bác sĩ
khác như đã giải thích cho ông ta. Rồi em ra về, đến
cổng thì gặp ngay anh, em mừng quá như vừa thoát nạn.
Thùy Liên nhìn chồng và hỏi:
- Anh Tân, câu chuyện mà em vừa
kể, anh có tin không?
Tân cười:
- Nếu người khác kể thì anh
không tin còn em kể thì anh tin. Ngày mai, em có vào làm
việc nữa không?
- Không, vào làm chi nữa?
Giọng nàng trầm xuống một cách
buồn bã:
- Họ cho đó là doanh trại quân
đội mà không cho trở vào làm việc là may cho em. Vào đó
để nhớ lại những ngày qua càng thêm đau lòng.
- Có lẽ ở quân y viện Cần
thơ, những nhân viên cũ cũng cùng tâm trạng như em.
- Em cũng nghĩ như thế. À, mấy
hôm nay, em lo cho ba, gia đình chị Hai và thằng Viên, thằng
Mãn quá. Anh Hai là thượng sĩ hải quân. Em lo ngại gia
đình anh chị Hai đã đi rồi. Ba và hai đứa em trai dưới
đó không biết ra sao. Em muốn về dưới đó một bữa.
Nếu anh chị Hai đi rồi thì em đưa ba và hai thằng em lên
đây. Kệ, chịu cực, chịu khổ với nhau. Sài gòn vẫn
còn cả triệu người dân. Người ta sống được thì
mình cũng sống được. Em tính như vậy không biết anh có
đồng ý không?
- Rất đồng ý. Nhưng thủng
thẳng hỏi thăm đường sá thế nào, xe đò còn chạy hay
không?
- Anh Tân, hay là bỏ quách chốn
nầy, đi về Cần thơ cuốc đất mà ăn thì hay hơn. Ở
đây mình còn ai thân thích đâu. Chỉ có gia đình chị
Bạch Mai mà nay bỏ đi rồi. Không biết bây giờ, bác Tư,
anh Thế, chị Mai và hai cháu đang ở đâu?
Thùy Liên ngừng nói, buông đũa,
đưa ống tay áo chặm vào khóe mắt.
Thằng Hòa Bình nhìn sững mẹ.
Nó mếu máo:
- Mẹ, sao mẹ khóc?
Thùy Liên đưa tay xoa đầu con:
- Không sao cả. Mẹ nhớ ông
ngoại, mẹ nhớ dì Hai, dì Bạch Mai, mẹ khóc đó thôi.
Con lo ăn cho no đi.
Nàng quay sang chồng:
- Con mình sinh ra trong chiến
tranh. Anh luôn luôn cầu mong chiến tranh chấm dứt để
đời sống con mình được ổn định. Nay có hòa bình rồi
thì đời sống con mình càng bất ổn hơn.
Tân an ủi vợ:
- Rồi mọi chuyện sẽ trôi qua.
Chiến tranh vừa mới chấm dứt, trật tự cũ vừa mới
bị xô ngã, trật tự mới chưa hình thành, thì cuộc sống
làm sao ổn định được. Phải cần có thời gian.
Anh ngưng một chút để suy nghĩ
rồi nói tiếp:
- Chắc chắn sẽ có nhiều thay
đổi rất cơ bản. Sáng nay, anh Định nói với anh rằng
cộng sản vào đây sẽ thay thế nền giáo dục của miền
Nam bằng nền giáo dục của miền Bắc. Hai nền giáo dục
khác nhau xa. Miền Nam dạy nhân nghĩa còn miền Bắc thì
dạy căm thù. Bọn thầy giáo chúng anh sẽ bị loại bỏ.
Vừa rồi em bảo về Cần thơ cuốc đất mà ăn thực là
đúng với ý anh. Tuy nhiên anh nghĩ rằng chưa thể đi ngay
được.
- Tại sao vậy?
- Mấy anh em trong trường bảo
rằng, nhiều ngày sau khi miền Nam đã đầu hàng mà vẫn
còn có người tìm cách trốn khỏi Việt Nam. Có người
đã bị bắt và bị bắn chết ở cửa sông. Tốt hơn hết
là đâu ở đó, không nên bỏ nhà đi nơi khác. Hơn nữa,
chúng ta không nên rời bỏ Sài gòn lúc nầy.
- Tại sao vậy?
- Sài gòn đã là thủ đô của
một quốc gia thuộc vào loại văn minh và tiến bộ nhất
Đông nam Á. Bắc Việt chiếm được miền Nam thì chắc
chắn họ biết rằng cả thế giới đang chăm chú nhìn
vào để theo dõi, trước hết là tình hình ở Sài gòn.
Vì vậy họ phải đưa vào đây những người có trình độ
khá và cố gắng bày tỏ thái độ có vẻ văn minh của
họ. Ở các tỉnh thì họ chẳng cần và chẳng đủ người
để khoác bộ mặt văn minh nên tốt hơn hết là cứ bám
lấy Sài gòn mà sống trước đã. Khi tình hình ổn định
thì mình về cuốc đất cũng được.
Sáng hôm sau, Tân lên xe chạy
thẳng vào trường, không phải đưa con đi gởi và đưa
vợ vào tổng y viện Cộng hòa nữa.
Khung cảnh trong trường có vẻ
rộn rịp hơn hôm qua. Học sinh và vài thầy cô chuẩn bị
ra phố thu gom “sản phẩm văn hóa đồi trụy”. Tân vào
phòng giáo sư, nhìn quanh không thấy Định đâu cả. Số
giáo sư tại phòng ít hơn hôm qua; một số đã ra sân làm
việc cùng học sinh, một số khác không đến trường
chẳng biết vì lý do gì.
Tân ngồi vào một góc phòng im
lặng nhìn ra sân. Các toán đi thu gom “ sản phẩm văn
hóa phẩm đồi trụy” đã ra khỏi trường từ lâu nên
sân trường thực vắng vẻ. Vài người đứng dậy ra
khỏi phòng. Tân nhìn đồng hồ thấy đã gần trưa nên
lấy xe ra về.
Đến nhà, Anh vừa dừng xe thì
hai đứa bé chạy ra hét to:
- Ba về, ba về!
Tân dựng xe, ngồi xuống ôm con
vào lòng. Anh hỏi con:
- Mẹ đâu?
Thùy Dung nhanh nhảu trả lời:
- Mẹ nằm trong buồng, mẹ khóc.
Tân hoảng hốt:
- Sao vậy?
- Ông ngoại đi rồi, dì Hai đi
rồi.
- Trời đất ơi!
Tân buông hai con ra, chạy vội
vào nhà. Thùy Liên đang bước xuống giường, đầu tóc
rũ rượi, cặp mắt đỏ hoe. Nàng ôm chầm lấy chồng
một phút rồi buông ra. Nàng không khóc nữa, vẻ mặt có
vẻ bình tĩnh:
- Cả nhà anh chị Hai xuống tàu
đi thoát rồi mang cả ba và thằng Viên, thằng Mãn đi
theo.
- Sao em biết?
- Bà Chín vừa ghé qua đây báo
cho em biết.
- Bà Chín nào?
- Má của anh Tạo đó. Trước
khi đi, chị Hai có nhờ bà báo tin và mang cho em một món
tiền. Tất cả tiền anh chị ấy dành dụm, nếu mang ra
ngoại quốc cũng thành giấy lộn hết.
- Ba và anh chị Hai đi hồi nào?
- Ngay buổi sáng quân Bắc Việt
vào Sài gòn. Cả nhà bí mật xuống đợi ở sông Cái
răng và tàu nhỏ vào rước đi.
- Tại sao phải bí mật? Theo anh
biết thì Việt cộng tràn vào Cần thơ sau Sài gòn mà.
Lúc đó chưa có Việt cộng thì cần gì phải bí mật?
- Bà Chín bảo dân chúng Cần thơ
ùn ùn bỏ chạy cũng như ở Sài gòn vậy. Tàu nào cập
bến là họ nhào xuống ngay. Vì vậy Hải quân dưới đó
phải sắp đặt để gia đình quân nhân của họ bí mật
xuống tàu. Họ không tránh Việt cộng mà tránh dân chúng
quá hoảng sợ Việt cộng.
- Trời đất ơi!
Thấy chồng cứ đứng dậm chân
than trời, Thùy Liên an ủi:
- Thôi thế cũng tốt cho gia đình
chị Hai, cho ba và cho hai đứa em. Họ qua đến đất Mỹ
thì chắc chắn đời sống sẽ được bảo đảm hơn mình
ở đây. Nhưng không biết chừng nào mới lại thấy mặt
nhau?
Nói đến đây, Thùy Liên ôm mặt
khóc nức nở.