Một cuộc chiến tranh dài
TậpIV
Chương 10: Những ngày đen tối
(1)
Chiến trường càng ngày
càng sôi động nhưng cuộc sống ở Thủ đô vẫn tiếp
tục phẳng lặng và thoải mái. Tin tức về những trận
đánh ở bốn vùng chiến thuật đầy ắp trên trang nhất
của các nhật báo. Người ta theo dõi một cách thản
nhiên chứ không xúc động, ngoại trừ một số ít người,
trong đó có Tân. Anh luôn luôn tỏ ra buồn phiền khi đọc
thấy có nhiều người chết trong những trận đánh lớn.
Thùy Liên biết tính của chồng
nên thường tránh bàn về chiến sự với chồng. Ở tổng
y viện Cộng hòa, nàng tiếp tục giữ kho thuốc, nghĩa là
không trực tiếp săn sóc thương binh, nhưng nghe những
chiếc trực thăng tải thương cứ lên xuống hằng ngày
thường xuyên hơn ở bãi đáp, nàng biết chiến trường
đang rất ác liệt. Nàng cũng biết rằng phòng lạnh của
nhà xác luôn luôn đầy ắp, xe quân táng của bên quân
nhu ngày nào cũng sang chở xác về giao cho gia đình hay đưa
lên đồi nghĩa trang quân đội. Người ta kể rằng, ban
đêm có người nghe pho tượng “Thương tiếc” ở trước
nghĩa trang thở dài áo não, và sáng ra người ta thấy hai
giọt sương đọng trên đôi mắt của pho tượng.
Mỗi buổi chiều, Thùy Liên cố
thu xếp công việc nhanh chóng, trang điểm lại trước khi
ra cổng. Tân luôn luôn đến sớm hơn vài phút và đợi
nàng ở đó. Nàng cố giữ vẻ thản nhiên và tươi tắn
để làm vui lòng chồng. Trên đường, hai vợ chồng ghé
chợ Phú nhuận mua thức ăn rồi thẳng đến nhà giữ trẻ
đón con về nhà.
Trong khi Thùy Liên bận rộn lo
bữa cơm trong bếp thì Tân đùa giỡn với con. Có hôm,
anh dẫn con dạo ngoài đường hay đến nhà Bạch Mai chơi
đến sập tối mới về. Gương mặt của bé, cái nhìn,
cái cười của bé có tác động lạ lùng xóa tan hết mọi
ưu tư trong lòng và tất cả mệt nhọc nơi thể xác của
Tân.
Khi bé Thùy Dung hơn hai tuổi, vào
một buổi chiếu bảy, Thùy Liên báo cho Anh biết là đang
có mang lần thứ nhì. Điều nầy làm cho Tân vừa vui
sướng, vừa lo lắng.
Thùy Liên an ủi chồng:
- Có con sớm, về già đỡ cực
anh ạ.
Tân âu yếm hôn vợ:
- Anh thích có thêm con nhưng ngại
em mang nặng, đẻ đau.
- Không, em yêu anh. Mình sẽ có
thêm một đứa bé dễ thương như Thùy Dung vậy.
- Anh cũng muốn có thêm con để
Thùy Dung có chị có em. Tuy nhiên, thấy chiến tranh càng
ngày càng ác liệt nên anh cũng ngại. Sự xâm nhập người
và vũ khí từ Bắc vào Nam, mỗi ngày một nhiều thêm.
Anh sợ, tới một lúc nào đó, rồi chính Sài gòn nầy
cũng không còn yên ổn nữa.
- Em không quá lo như anh. Việt
cộng có vẻ mỗi ngày một mạnh hơn nhưng rốt cuộc họ
cũng chỉ đủ sức quấy phá nông thôn mình thôi. Người
dân quê hầu hết ít học, không phân biệt được xâm
lăng với giải phóng nên dễ bị họ lừa gạt. Nơi nào
dân chúng còn ngu dốt thì nơi đó là mảnh đất hoạt
động của cộng sản.
Tân thở dài:
- Em nói vậy chứ ở thành phố
cũng có lắm người có học cũng ngả theo cộng sản, em
không thấy sao?
Thùy Liên cúi đầu, nói nhỏ:
- Dạ, em thấy và em cũng thắc
mắc về điều đó. Họ là những người có học, được
liệt vào hàng ngũ trí thức mà cũng sẵn sàng chạy theo
đuôi cộng sản. Phong trào phản chiến của họ trong các
thành phố làm nản lòng các chiến sĩ ngoài mặt trận.
Rồi ký giả mang bị gậy xuống đường để giả làm ăn
mày là cốt bôi nhọ chế độ. Những hoạt động đó
đều có lợi cho công sản và chắc chắn do cán bộ cộng
sản chỉ vẽ cho đám người đó.
Tân lắc đầu chán nản:
- Thôi em ạ, nói tới những
chuyện đó càng buồn thêm. Hôm nay là thứ bảy; chiều
nay, Bạch Mai mời chúng mình sang ăn cơm, phải không?
- Dạ phải.
Tân thở dài nhè nhẹ:
- Bạch Mai đã có quá nhiều lần
mời cơm vợ chồng mình. Chúng ta phải tìm dịp mời anh
Thế và Bạch Mai mới được.
- Em cũng nói ý đó với chị Mai
nhưng chị bác bỏ thẳng thừng. Chị ấy bảo vợ chồng
mình đi làm túi bụi suốt cả tuần lễ thì đâu còn thì
giờ. Hai gia đình phải có dịp hàn huyên tâm sự vào
cuối tuần. Chị Mai thường xuyên ở nhà nên để chị
ấy lo việc đó.
Tân im lặng, cảm động lẫn áy
náy.
Hai vợ chồng khóa cửa và ra
đường. Bé Thùy Dung lớn rồi, đi đứng rất chững chạc
nhưng hễ cứ ra khỏi nhà là Tân bế trên tay hay cho ngồi
trên vai mình.
Vừa bước vào nhà Bạch Mai, Tân
dừng lại sửng sốt:
- Trời đất, anh Thảo, anh lại
được về Sài gòn à?
Thiếu tá Thế ngồi yên mỉm
cười trong khi Thảo đứng dậy bước vội đến nắm
chặt hai tay Tân:
- Anh Tân, tôi mới về Sài gòn
sáng nay, vội vàng lo cho xong công việc ở phòng liên lạc
của sư đoàn và ở tổng tham mưu rồi cùng với anh Thế
về đây.
Thảo quay sang Thùy Liên:
- Chào chị Tân. Trông chị càng
ngày càng trẻ và đẹp hơn.
Thùy Liên mỉm cười e thẹn:
- Anh Thảo nói cốt để cho em
vui thôi. Không ngờ hôm nay chúng em hân hạnh được dùng
cơm chung với hai ông thiếu tá.
Thế la to:
- Thùy Liên nói sai rồi. Một
thiếu tá và một trung tá.
Thùy Liên ngạc nhiên:
- Hai anh đều mặc thuờng phục
thì làm sao em biết ai là trung tá. Anh Thế hay anh Thảo?
Thế cười to:
- Dạ thưa bà, chính anh bạn Thảo
của chúng ta là trung tá. Thằng Thế nầy ru rú ở tổng
tham mưu thì lên trung tá thế nào được. Phải thực sự
là chiến sĩ tung hoành trên chiến trường mới xứng đáng
được lên lon chứ. Anh Thảo là một trong những sĩ quan
lên lon nhanh nhất. Anh ấy hiện nay là trong số trung tá
trẻ tuổi nhất của quân đội mình. Như thế là đúng.
Tham dự hàng trăm trận đánh, rồi hai lần bị thương.
Bạn của chúng ta là đứa con cưng của Tổ quốc, người
anh hùng của quân đội.
Thảo mỉm cười, có vẻ e thẹn
thực dễ thương:
- Anh Thế giới thiệu quá đáng.
Tôi chỉ là một quân nhân bình thường thôi.
Tân siết chặt tay bạn:
- Xin chúc mừng anh. Lên trung tá
rồi, anh giữ chức vụ gì?
- Tạm thời là liên đoàn phó
biệt động quân và đang chờ đợi sự phân công mới.
Mình là chiến sĩ, quân đội sai đâu đánh đó.
Thế ngắt lời:
- Liên đoàn phó biệt động
quân, dưới tay có hàng ngàn đệ tử kiêu hùng.
Tân hỏi tiếp:
- Anh được lên lon lâu chưa?
- Mới tháng trước, sau khi hành
quân ở Cam bốt về.
Tân ngạc nhiên:
- Thế nào? Anh sang đánh tận Cam
bốt à? Mình đem quân sang nước người ta không sợ vi
phạm luật quốc tế sao?
Thế cười to:
- Anh Tân thực là đứng đắn,
đúng là tư cách của một ông giáo sư sử địa. Trong
cuộc chiến tranh nầy, áp dụng luật lệ sao được với
bọn rừng rú. Chúng nó ngang nhiên sử dụng đất Cam bốt
làm tiền cứ để tập kết người và vũ khí rồi chui
sang đánh mình. Nếu thắng thì chiếm đất lập mật khu
còn thua thì rút về Cam bốt để dưỡng quân. Nguyên cả
cái bộ tư lệnh của quân đội xâm lược cũng đóng bên
đó mà.
- Anh muốn nói đến cục “R”
phải không?
Thế gật đầu:
- Đúng rồi, đó là mật danh của
bộ tổng tư lệnh quân đội giải phóng của Việt cộng.
Tân hỏi tiếp:
- Anh Thảo hành quân bên đó thế
nào?
- Kỳ rồi chúng tôi đổ quân
sang với mục đích truy lùng cái cục “R” đó để tiêu
diệt. Đập rắn độc thì phải đập cho trúng cái đầu
mới trị dứt được.
Thùy Liên chen vào:
- Rồi anh có đập trúng đầu
rắn không?
Thảo lắc đầu:
- Không tìm ra, chúng trốn quá
kỹ. Vả lại….
Bạch Mai bước ra giữa phòng,
xua tay rối rít:
- Mời vào, mời vào. Cơm canh dọn
sẵn rồi. Cứ bàn đến đánh nhau là quí vị sa đà quên
cả ăn uống. Tôi ra lệnh cho quí vị vào bàn ngay.
Thế lắc đầu:
- Cô ra lệnh cho thiếu tá quen
rồi. Bây giờ đến trung tá, cô cũng không nể mặt.
Thảo cười hiền lành:
- Trung tá thì nghĩa lý gì; tới
đại tướng nghe quí bà ra lệnh thì cũng phải tuân theo
răm rắp thôi.
Mọi người cười vui vẻ. Khi
tất cả đều đã cầm đũa. Bạch Mai quay sang nói với
Thảo:
- Xin lỗi anh Thảo nhé. Khi nãy
anh đang nói “Vả lại”, thì Mai ngắt lời anh. Bây giờ
anh vừa ăn vừa nói tiếp đi.
Thảo mỉm cười:
- Tôi định nói Việt cộng biết
trước kế hoạch hành quân của mình.
Tân ngạc nhiên:
- Lệnh hành quân là tuyệt mật,
làm sao họ biết được?
- Chắc chắn chúng đã cài người
vào tổ chức của chúng ta, kể cả các bộ chỉ huy và
bộ tư lệnh hành quân nữa. Xét về trình độ tác chiến
thì Việt cộng thua xa chúng ta nhưng xét về tình báo thì
chúng ta quá yếu kém. Kế hoạch hành quân của Việt cộng
mình không hề biết đã đành, đến sự di chuyển quân
của cả sư đoàn của chúng nó, mình cũng không rõ. Anh
có nhớ vụ Tết Mậu thân không? Họ di chuyển cả trăm
ngàn quân áp sát tất cả các thành phố trong phạm vi cả
nước mà mình cũng chẳng hay biết gì cả.
Thảo thở dài, nhắc lại ý nghĩ
ban đầu của mình:
- Tình báo của chúng ta hỏng
bét. Sau nầy, nếu chúng ta bại trận thì bại vì tình
báo chứ không phải vì khả năng hay tinh thần chiến đấu.
Tân có vẻ chú ý đến vấn đề:
- Có lẽ các tướng lãnh và các
cấp lãnh đạo của chúng ta biết điểm yếu đó chứ?
- Biết nhưng không có biện pháp
nào để sửa đổi.
- Tại sao vậy, chúng ta cũng có
thể nghiên cứu các biện pháp của cộng sản và bắt
chước họ. Trong chiến tranh, học tập cái hay của kẻ
thù, đâu có phải là điều xấu.
Thảo lắc đầu:
- Không, chuyện gì khác thì chúng
ta có thể học cộng sản, còn chuyện nầy thì không thể
được.
- Tại sao vậy?
- Tình báo có hai mặt: mặt thụ
động và mặt chủ động. Mặt thụ động là không cho
tin tức bị đánh cắp hay rò rỉ ra ngoài. Chủ động là
tìm cách lấy những thông tin của địch. Về mặt thụ
động, Việt cộng rất cẩn thận và rất thành công, nhờ
việc xét lý lịch ba đời của mỗi người dân sống
trong chế độ của họ. Cộng sản coi con người như một
công cụ. Công cụ nào có tì vết là họ loại ngay không
thương tiếc. Chính lãnh tụ của họ cũng đã từng nói:
“Dụng nhân như dụng mộc”. Quả thực vậy, họ xem
con người như khúc gỗ; nếu có chút nghi ngờ gì là
quăng ngay vào bếp làm củi. Vì vậy họ xem xét lý lịch
người dân rất kỹ, có một chút nghi ngờ trong bà con là
phân biệt đối xử ngay. Chế độ chúng ta tôn trọng
nhân vị của con người nên chúng ta không thể bắt mỗi
người phải chịu trách nhiệm về hành vi của ông cha,
chú bác, cô dì hay anh chị em được. Chúng ta cũng không
thể vin vào quá khứ của một người để tước bỏ
quyền công dân, quyền làm việc và quyền tham gia vào mọi
sinh hoạt xã hôi. Chế độ của chúng ta bị ràng buộc
vào lòng nhân đạo mà chúng ta không thể nào từ chối.
Tôi nói như vậy, chắc anh Tân phải đồng ý vì chính
anh cũng rơi vào trường hợp đó phải không?
Tân gật đầu:
- Đúng vậy. Tôi có một quá khứ
theo cộng sản, nhưng sau khi tôi đã “đền tội” với
ba năm tù và long trọng tuyên bố trở về với hàng ngũ
quốc gia thì tôi đã được quyền đi học, được quyền
làm sĩ quan và nay được quyền làm giáo sư nữa.
- Vì vậy anh yêu chế độ nầy
chứ?
- Vâng, tôi thực sự yêu chế độ
nầy.
Thảo thở dài:
- Chính cái sự đáng yêu đó trở
thành nhược điểm quá lớn của chúng ta trong cuộc chiến
tranh tự vệ nầy. Với cộng sản thì lòng nhân đạo là
điều cần phải diệt trừ tận gốc. Trong nội bộ của
đảng, họ gọi lòng nhân là đạo đức tư sản. Ở miền
Bắc, một người đã từng đi tù như anh thì đừng mong
có được cuộc sống của một người lao động hạng
bét chứ đừng nói được học đại học, được làm sĩ
quan và được làm giáo sư. Họ xét người quá kỹ nên
chúng ta không thể nào cài được người vào trong bộ
máy chính quyền và quân đội cộng sản được. Ngược
lại, bộ máy của chúng ta có quá nhiều sơ hở để họ
đưa gián điệp vào.
Tân ngắt lời:
- Vì vậy, kế hoạch hành quân
sang Cam bốt của chúng ta đã bị lộ và cục “R” của
họ lủi mất.
Thảo gật đầu:
- Đúng vậy.
- Thế là tổ chức hành quân qua
đó mà chúng ta chẳng hề gặp Việt cộng, phí công một
cách vô ích?
- Không vô ích. Chúng tôi đã
đụng nhiều trận lớn bên đó và đã tiêu diệt cùng
bắt sống cả ngàn tên. Đó là những đơn vị Việt cộng
không kịp trốn chạy, những đơn vị buộc phải ở lại
để bảo vệ những kho vũ khí, quân trang và lương thực
chưa kịp cất giấu; cũng có những đơn vị trụ lại để
thí thân, cầm chân quân ta cho cái đám cán bộ to đầu
kịp chạy trốn.
Thảo lại thở dài:
- Tôi đã gặp những cảnh thực
thương tâm. Một lần, tiểu đoàn của tôi được xe tăng
yểm trợ đánh vào một căn cứ của Việt cộng. Những
người lính biệt động quân chúng tôi đi phía sau những
xe bọc thép tiến thẳng vào tuyến phòng thủ của chúng.
Cả trăm đứa núp dưới giao thông hào để cự lại. Anh
không thể tưởng tượng nổi. Chúng nó chỉ có toàn là
súng trường, tiểu liên và trung liên mà cứ nằm bắn
vải vào những cổ xe tăng thì khác nào đi lấy cát ném
vào lưng trâu. Biệt động quân chúng tôi chẳng thèm bắn
mà cứ từ từ theo sau các xe thiết giáp tiến tới. Tuy
nhiên, chúng tôi đã sẵn sàng, ai cũng nghĩ rằng một khi
xe tăng đến gần thì tất nhiên chúng phải phóng lên
khỏi giao thông hào để chạy trốn, lúc đó chúng tôi
tha hồ mà bóp cò súng. Không ngờ, chúng nó nhất định
nằm dưới giao thông hào để gãi ngứa các cổ xe tăng.
Thỉnh thoảng, cậu xạ thủ trên xe khạt một quả đạn
đại bác làm cho đất đá và xác người văng lên tung
tóe.
Tân nghe hơi thở mình dồn dập.
Anh nhìn Thảo chăm bẳm và hỏi:
- Cuối cùng thế nào?
Thảo trả lời ngay:
- Chúng chết hết! Một số chết
vì đạn đại bác và đại liên của xe tăng; một số
khác, kinh khủng hơn, bị bánh xe tăng đè bẹp dí dưới
đáy giao thông hào. Ở đó đất khá cứng nên giao thông
hào cạn. Mấy chiếc xe tăng chạy dọc theo hào, nghiêng
hẳn qua một bên vì bánh xích lọt xuống rảnh. Tiếng
máy xe gầm thét át hẳn những tiếng rú bên dưới bánh
xe. Tôi đã từng xông pha biết bao chiến trường, đã
từng chứng kiến biết bao cảnh rùng rợn lẫn thương
tâm, thế mà lần nầy, tôi cứ chạy lúp xúp sau xe tăng
không dám nhìn xuống bên dưới. Mấy thằng lính của tôi
cũng vậy. Tôi thét bảo chúng thu lượm súng của Việt
cộng thì chúng cũng lờ đi như không nghe thấy lệnh của
tôi. Chẳng đứa nào dám dừng lại và cúi xuống.
Thảo thở dài buồn bã:
- Trận đó Việt cộng chết gần
hai trăm. Lính mình chỉ có hai đứa bị thương. Tôi không
hiểu những người lính Việt cộng đó thấy chết trước
mắt mà không bỏ chạy thì có đáng được gọi là anh
dũng hi sinh được không.
Thảo bỗng lắc mạnh đầu:
- Ngoài chiến trường, hai từ:
“hi sinh một cách anh dũng” và “liều chết một cách
ngu xuẩn” thực khó mà phân biệt được.
Tân hỏi với giọng hơi run:
- Đơn vị anh hành quân bên Cam
bốt, có gặp lính Miên hay không?
- Không, có lẽ họ về đóng tại
các thành phố, nhường tất cả nông thôn cho quân đội
của hai miền Nam Bắc Việt Nam làm chiến trường để
bắn giết nhau. Anh em ruột thịt, đánh nhau trong nhà chưa
đã nên qua nhà hàng xóm bày trò thanh toán nhau. Thực là
đau lòng.
Tân như không nghe lời than thở
não ruột đó. Anh tiếp tục hỏi:
- Hai bên đánh xong thì rút về,
để xác chết lại cho dân Miên chôn?
Trung tá Thảo lắc đầu:
- Dân Miên chỉ chôn xác lính
Việt cộng thôi còn tất cả xác của lính mình đều
được trực thăng chở về nghĩa trang quân đội. Còn
chuyện rút về thì chỉ có lính Việt Nam Cộng hòa rút
về. Bộ đội cộng sản vẫn bám trụ lại đất Chùa
Tháp. Chúng đã xem đất nước người ta như là chiến
khu của chúng. Chúng không bao giờ rút khỏi Cam bốt đâu
vì khúc phía Nam của đường mòn Hồ chí Minh nằm trên
lãnh thổ Cam bốt, trước khi chấm dứt trong những khu
rừng già của tỉnh Tây ninh.
- Tôi nghe nói đường mòn Hồ
chí Minh là con đường xâm nhập của Việt cộng, dọc
theo dãy Trường sơn và thuộc về lãnh thổ Việt Nam mà.
Chính tôi thường giải thích cho học sinh như thế.
- Đúng, con đường đó chạy dọc
theo dãy Trường sơn suốt các tỉnh của miền Trung. Tuy
nhiên nó không phải là một con đường duy nhất mà là
một hệ thống gồm nhiều đường mòn trên cả ba lãnh
thổ: Việt Nam, Lào và Cam bốt. Nếu bị tấn công mạnh
ở phần thuộc Việt Nam thì chúng dạt sang Lào và Cam
bốt. Vì vậy, sau cuộc hành quân ở Cam bốt, tôi nghe
nói, chúng ta sắp mở cuộc hành quân sang Nam Lào để cắt
đứt đường xâm nhập của Bắc Việt. Anh Thế có nghe
tin đó không?
Thế gật đầu:
- Có, hình như các ông tướng ở
tổng tham mưu đang bàn kế hoạch đó nhưng chưa thống
nhất. Có ông chủ trương đánh sang Lào nhưng cũng có ông
phản đối vì cho rằng địa thế bên đó xa lạ lại quá
hiểm trở, rất khó cho việc tiếp vận. Nghe nói các ông
ấy đang cãi nhau hăng lắm, chưa biết ngã ngũ thế nào.
Thảo hỏi:
- Nếu quyết định tiến quân
thì chúng ta sẽ cắt đường mòn Hồ chí Minh ở khoảng
nào?
- Vùng tiếp giáp của Lào với
miền Nam được gọi là Hạ Lào, biên giới dài đến hơn
ba trăm cây số, địa thế chỗ nào cũng hiểm trở, núi
non trùng trùng điệp điệp. Theo tôi, nếu đánh sang thì
chúng ta sẽ chọn một trong hai địa điểm: hoặc ở
đường số Chín thuộc tỉnh quãng trị, xuất phát từ
Khe sanh, hoặc đánh vào vùng Ba biên giới, thuộc tỉnh
Kon tum. Cuộc hành quân nầy, nếu được thực hiện, sẽ
có qui mô rất lớn, phối hợp nhiều binh chủng.
Tân cười:
- Có lẽ binh chủng biệt động
quân của anh Thảo không thoát khỏi.
Thảo cười theo:
- Thoát sao nổi. Chỗ nào có rừng
núi sình lầy là chỗ đó có biệt động quân.
Thế quay sang Bạch Mai:
- Cơm xong rồi, em cho thức tráng
miệng và nước uống đi.
Bạch Mai đứng dậy, càu nhàu:
- Bữa cơm cuối tuần mà mấy
ông nói chuyện đánh nhau, thiệt mất vui.
Thế cười, đáp lời vợ:
- Trong thời buổi chiến tranh,
ngoài chuyện đánh nhau ra, các chuyện khác đều nhạt
nhẽo. Nhưng thôi, lần sau, anh Thảo có đi Hạ Lào về
thì đừng kể chuyện đánh nhau nữa mà nói những chuyện
thơ mộng mà anh gặp trên đường hành quân nhé.
Thảo cười gượng:
- Trên đường hành quân thì có
gì là thơ mộng đâu. Kể từ khi xuất hiện mấy anh bộ
đội với chiếc nón cối trên đầu thì núi rừng miền
Nam không còn chút thơ mộng nào nữa.
*
* *
Một tháng sau, cũng vào chiều
thứ bảy. Bạch Mai lại mời hai vợ chồng Tân sang dùng
cơm. Suốt bữa ăn, thiếu tá Thế ít nói và có vẻ đăm
chiêu. Tân và bác Tư giữ im lặng. Chỉ có hai người đàn
bà chuyện trò vui vẻ về những chuyện vặt vãnh trong
nếp sinh hoạt của đô thành. Khi bữa cơm chấm dứt, Thế
quay sang Tân:
- Anh có theo dõi tình hình chiến
sự hay không?
- Có, tôi có đọc trên các báo
nên biết tin chúng ta đang hành quân ở Hạ Lào để cắt
ngang đường tiếp tế của cộng sản, nhưng chưa biết
chúng ta có đạt được mục tiêu đó hay không?
Thiếu tá Thế lắc đầu:
- Gần như thất bại hoàn toàn!
Tân đang cầm tách nước trà vội
bỏ xuống bàn, sửng sốt nhìn Thế. Anh hỏi:
- Sao? Anh bảo sao? Thất bại à?
Nhưng theo bản tin của bộ quốc phòng, chúng ta đang chủ
động trên chiến trường mà.
- Thì phải nói như thế để giữ
vững tinh thần cho binh sĩ chứ. Từ xưa đến nay, trên
khắp hành tinh nầy, lúc đang đánh nhau thì cả hai bên
đều rêu rao là mình chiến thắng chứ có ai dại gì thú
nhận rằng mình bại trận. Chỉ có người trong cuộc mới
biết được sự thực mà thôi.
- Cuộc hành quân thất bại thế
nào?
- Gần như chúng nó biết trước
được toàn bộ kế hoạch hành quân của mình. Pháo binh
của chúng nó đã được bố trí và điều chỉnh tác xạ
đúng vào những địa điểm đổ quân của chúng ta. Vì
vậy, sau khi trực thăng hạ xuống là lập tức bị pháo
dập tơi bời. Có nơi chưa kịp đổ quân thì trực thăng
đã vội bốc lên để tránh đạn. Trở về điểm xuất
phát ở căn cứ Khe sanh, nhiều trực thăng vẫn còn chở
trở lại một số binh sĩ. Có chiếc, ngay dưới hai càng
cũng có người bám vào; đó là những Anh binh sĩ đã nhảy
xuống rồi và bị pháo nổ dữ quá, lại thấy trực
thăng bốc lên vội chụp lấy càng phi cơ, đu vào để
bay về.
Giọng Tân buồn rầu:
- Chúng ta lại chịu thua Việt
cộng trên mặt trận tình báo.
- Đúng vậy, đây nhất định là
chiến công của gián điệp Việt cộng. Chúng biết được
đến những chi tiết của kế hoạch hành quân. Hơn nữa,
chúng biết khá sớm nên đã có thì giờ bố trí những
khẩu đội pháo binh và nhả đạn trúng ngay địa điểm
trực thăng vận của chúng ta.
- Thế sao chúng ta không diệt
ngay những ổ pháo của họ? Mình không có những căn cứ
pháo binh để yểm trợ và phản pháo sao?
- Chỉ gần biên giới thì mới
có những căn cứ pháo binh đã lập sẵn từ trước. Xa
hơn thì không, chỉ trông chờ phi cơ mà thôi.
- Ừ, vậy phi cơ của mình đâu?
- Không quân hoạt động rất
tích cực. Máy bay trinh sát L19 quần lui, quần tới suốt
ngày. Tuy nhiên, Hạ Lào có địa thế quá hiểm trở với
những ngọn núi cao vút, những khe sâu thăm thẳm, rừng
già mịt mùng, họ dấu súng cối, hỏa tiễn và đại bác
thì L19 khó phát hiện để báo cho oanh tạc cơ xạ kích.
- Cuối cùng thế nào?
- Bộ chỉ huy hành quân ra lệnh
cho các đơn vị lục soát một vùng nho nhỏ rồi tìm cách
rút về.
- Bên mình rút về có an toàn
không?
- Không, bộ binh cộng sản đã
phục kích sẵn nhiều điểm trên đường rút lui của
mình. Tuy đã bị thiệt hại do trúng đạn pháo kích của
đối phương nhưng các đơn vị của mình đã chiến đấu
vô cùng anh dũng, gây nhiều tổn thất cho Việt cộng
nhưng bên mình cũng tiếp tục bị thiệt hại thêm.
Thế thở dài và nói tiếp:
- Tội nghiệp cho anh em. Rừng núi
là chiến trường quen thuộc của chúng, còn mình thì đa
số từ dưới đồng bằng lên, rõ ràng là bị thất thế
rồi. Nhưng tôi nhắc lại, anh em mình đã chiến đấu hết
sức anh dũng. Một số đơn vị đã vượt được biên
giới về căn cứ an toàn, một số khác đến được nơi
trống trải và được trực thăng đưa về, và còn một
số đơn vị….
Thế bỗng im lặng, nhíu mày nhìn
tách nước trước mặt. Tân hồi hộp hỏi nhỏ:
- Còn một số đơn vị thế nào?
- Mất liên lạc!
- Nghĩa là….
- Hoặc bị tiêu diệt hoàn toàn,
hoặc phải phân tán mỏng, mạnh ai nấy chạy.
Thế quay lại nhìn Tân,với cặp
mắt rơm rớm:
- Tiểu đoàn của trung tá Thảo
cũng trong số nầy.
Tân hoảng hốt:
- Trời hỡi, anh Thảo là liên
đoàn phó mà.
- Đúng vậy, anh Thảo là liên
đoàn phó, nhưng tạm thời xuống nắm lại tiểu đoàn cũ
của mình. Câu chuyện thế nầy. Liên đoàn biệt động
quân của anh Thảo được tung vào trận địa ngay từ
đầu. Một tiểu đoàn được trực thăng thả xuống, rơi
vào ổ phục kích và đã quần nhau với địch nhiều
ngày. Thoát được ổ phục kích lại rơi vào trận địa
pháo của Việt cộng. Tiểu đoàn lại thoát ra được,
nhưng không kịp mang theo những đồng đội đã ngã xuống,
trong đó, rủi thay có cả tiểu đoàn trưởng và tiểu
đoàn phó. Có lẽ, do sự nài nỉ của anh Thảo nên Liên
đoàn trưởng điều anh xuống chỉ huy cho tiểu đoàn cũ
của anh ấy rút về. Bộ tư lệnh hành quân không có cách
gì khác hơn là phải chấp thuận đề nghị này của liên
đoàn. Một chiếc trực thăng liều chết chở Thảo xuống
mặt trận. Không có bãi đáp nên trực thăng dừng ngang
với ngọn cây và Thảo dùng dây đu xuống.
- Sao anh biết rõ vậy, đã có
người về kể cho anh nghe à?
- Đâu đã có ai về. Hiện giờ,
cuộc hành quân còn đang tiếp diễn. Tuy nhiên cả hơn nửa
tháng rồi, toàn thể bộ tổng tham mưu đều chú ý mặt
trận Hạ Lào, mọi sinh hoạt khác gần như ngưng trệ.
Phòng chiến tranh chính trị của tôi, ai cũng theo dõi từng
giờ từng phút các trận đánh bên đó. Sở dĩ tôi biết
rõ nhiều chi tiết về anh Thảo là vì đại úy Bá, sĩ
quan truyền tin giữ phần liên lạc trực tiếp giữa bộ
tổng tham mưu với bộ tư lệnh hành quân là bạn thân
của tôi. Trước đây tôi có giúp anh ấy một việc khá
quan trọng nên tôi nhờ điều gì anh ấy cũng rất sốt
sắng. Lần nầy thì tôi nhờ anh Bá hỏi thăm riết tin
tức của anh Thảo nên mới rõ như thế.
Tân tỏ ra sốt ruột:
- Rồi sao nữa?
- Sau khi xuống nắm được tiểu
đoàn rồi thì Thảo được lệnh đưa anh em về biên giới
nhưng Thảo xin ở lại cứu giúp một vài đơn vị bộ
binh đang lâm nguy. Tiểu đoàn của anh Thảo đã đánh tan
một số ổ phục kích của Việt cộng, đã gọi phi cơ
oanh tạc những địa điểm mà Việt cộng đặt pháo.
Hoạt động của tiểu đoàn làm cho bộ tư lệnh hành
quân vui mừng. Cuối cùng Thảo gọi máy truyền tin về
cho hay đang trở lại điạ điểm cũ để tìm cách đưa
xác tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó về. Đó là
lời yêu cầu của toàn thể tiểu đoàn chứ không phải
riêng của Thảo. Trên đường trở lại, tiểu đoàn của
Thảo bị pháo kích dữ dội. Người giữ máy truyền tin
của bộ tư lệnh hành quân chỉ nghe tiếng Thảo hét to:
“Chúng tôi rơi vào trận địa pháo rồi”. Vài giây
sau, một tiếng nổ to và đứt liên lạc, gọi mãi không
có tiếng trả lời.
Giọng Thế ngừng lại trong nghẹn
ngào. Tân cố ngăn nước mắt:
- Chuyện đó xảy ra cách nay mấy
hôm rồi?
- Ba ngày rồi. Chiều hôm qua, đại
úy Bá mới hỏi được tin tức. Bộ tư lệnh hành quân
có báo cáo chính thức về việc nầy vì anh Thảo đang là
ngôi sao sáng trong cuộc hành quân.
Có tiếng khóc thút thít. Mọi
người quay lại thấy Bạch Mai đang dùng tay áo lau nước
mắt. Nàng rên rỉ:
- Lạy trời đừng bắt anh Thảo
đi theo Bính.
Thùy Liên cũng nước mắt lưng
tròng, kéo ghế đến gần Bạch Mai. Hai người đàn bà im
lặng nắm tay nhau.
Tân rầu rĩ hỏi Thế:
- Từ hôm đó đến nay, có tin
tức gì thêm về anh Thảo hoặc về tiểu đoàn của anh
ấy không?
Thế lắc đầu. Tiếng của Tân
nghe thực áo não:
- Không lẽ ba anh em trong quân
trường, hôm nay chỉ còn một mình tôi hay sao?
Câu nói của Tân như một khối
băng giá khổng lồ chụp xuống làm tê liệt tâm hồn mọi
người. Nhiều phút sau, Tân ngẩng lên nhìn đồng hồ và
nói:
- Tám giờ rồi. Thôi chúng tôi
về. Ngày mai chúa nhật, anh Thế ở nhà phải không?
- Vâng tôi ở nhà vì khối chiến
tranh chính trị chẳng còn gì để giải quyết.
- Thế thì thứ hai vào làm việc,
anh nhớ hỏi thăm tin tức về anh Thảo nhé.
- Vâng, chiều mai tôi sẽ đến
tổng tham mưu một chút để gặp sĩ quan trực nhưng không
biết có hỏi thăm được hay không?
Tân đứng dậy, Thùy Liên đứng
dậy theo. Bé Thùy Dung đang chơi vui vẻ với đứa con nhỏ
của Bạch Mai. Bé cự nự chưa muốn về. Tân gằn giọng
quát to:
- Đứng dậy, về ngay.
Tiếng quát của anh làm mọi
người ngạc nhiên vì chưa bao giờ người ta thấy anh lớn
tiếng với con. Với Thùy Dung, bao giờ anh cũng có những
lời dỗ dành ngọt ngào và cử chỉ nâng niu chiều
chuộng. Thùy Liên đến ôm con vào lòng. Con bé vùng vằng
khóc to để phản đối. Tân nghiêm trang chào cả nhà rồi
bước ra, Thùy Liên ôm con theo sau.
Về đến nhà, Tân lẳng lặng mở
khóa cửa bước vào, bật đèn sáng lên. Anh ngồi phịch
xuống ghế thở dài và nhắm mắt lại. Hình ảnh Hạ Lào
diễn ra trong trí não với những đơn vị tơi tả vì pháo
của quân địch và cuối cùng là hình ảnh trung tá
Thảo...
Ở phòng trong, có tiếng khóc của
bé Thùy Dung vang ra mỗi lúc một to cùng với giọng dỗ
dành của Thùy Liên:
- Nín đi con, mặc áo vào rồi
ngày mai mẹ sẽ cho con qua nhà hai bác để chơi.
- Con không chịu đâu.
Con bé vừa hét, vừa khóc to hơn.
Bỗng dưng, Tân cảm thấy một
cơn giận ở đâu tràn đến làm cho đầu óc nóng bừng.
Anh vớ cây thước kẻ trên bàn, bước vào buồng. Con bé
trần truồng, ngồi dưới đất, hai chân đạp lia lịa về
phía trước, miệng vẫn khóc to. Thùy Liên cầm bộ áo
quần ngồi kế bên dỗ dành.
Mắt Tân nhìn bé như nảy lửa.
Anh hét:
- Im, đứng dậy mặc áo quần
vào ngay.
Con bé vẫn tiếp tục đạp chân
và khóc to. Tân bước tới hai bước, nắm một tay con bé
lôi lên, tay cầm thước đưa cao, đánh hai cái thực mạnh
vào mông đứa bé.
- Trời ơi, anh Tân!
Thùy Liên la xong, nhào tới, ôm
lấy bé chạy xuống bếp. Bé Dung nín khóc và gần như
ngất xỉu trong tay mẹ.
Tân đứng ngẩn ngơ một phút,
nhìn xuống bếp rồi quay ra nhà trước. Anh quăng mạnh
cây thước lên bàn. Hơi thở đang ào ạt trào lên bỗng
bị chận lại trong lồng ngực làm anh thấy đau đớn
nghẹn ngào. Anh muốn hét một tiếng thật to. Nhưng rồi,
anh lẳng lặng bước ra cửa, không thèm quay lại nhìn.
Bầu không khí mát mẻ về đêm
bên ngoài vẫn không làm giảm bớt nhiệt độ đang nung
nấu trong đầu Tân. Anh cúi đầu lầm lũi bước đi trên
hè phố. Đi hết đường Vườn chuối, chân Tân tự động
rẽ trái, bước dọc theo đường Phan Thanh Giản tấp nập
xe cộ. Tiếng máy, tiếng còi xe, tiếng người nói ồn ào
làm cho anh cực kỳ khó chịu, chỉ muốn phóng chạy thực
nhanh, muốn phóng mình bay lên không, muốn đâm đầu chui
xuống đất. Anh không muốn nghe, không muốn thấy gì nữa
cả. Chung quanh anh, người ta vẫn thản nhiên cười nói,
thản nhiên buôn bán, thản nhiên qua lại trên đường.
Những ánh đèn đủ màu từ các cửa tiệm rọi ra. Những
bộ quần áo lượt là sang trọng đong đưa múa may. Anh
cắm đầu băng qua vài giao lộ, dừng lại và ngồi xuống
một ghế dựa bằng xi măng ngay dưới chân tượng An
Dương Vương.
Dòng xe cộ vẫn tấp nập qua lại
thảy những lằn sáng ngang dọc lên vệ đường. Tân mệt
mỏi nhắm mắt thì lập tức trí óc rơi vào khung cảnh
chiến tranh khốc liệt. Trí nhớ của anh lướt qua vùng
Thất sơn, nơi Bính đã vĩnh viễn ra. Sự tưởng tượng
của anh quay lại chốn rừng núi âm u và núi non trùng
điệp. Đây là vùng An lão của Bình định mà Anh đã
từng hành quân qua. Hay đây là vùng Hạ Lào nơi đang xảy
ra những trận đánh ác liệt để cắt đứt con đường
xâm nhập của cộng sản từ Bắc vào Nam? Tại đó, bom
đạn đang cày xới, nhiều thân người đã ngã xuống,
trong số đó, phải chăng có cả Thảo, người bạn thân
thiết trong quân trường của anh? Thảo chết đi mang theo
ước mơ duy nhất là gặp lại đứa em gái đang sống
trong ngục tù của miền Bắc xa xôi! Ba anh em thân thiết
nhau như ruột thịt, bây giờ chỉ còn lại một mình anh
hay sao?
Anh đứng vụt dậy, tiếp tục
bước về trước. Cổng nhà thương Chợ rẫy buồn bã
dưới ánh đèn vàng vọt. Dãy nhà phố dọc theo đại lộ
Tổng đốc Phương đã bắt đầu dọn hàng đóng cửa.
Anh qua cái nhà kho nơi đã sống nhiều năm khi còn đi học.
Bây giờ, nhà kho đó đã biến thành một cửa hàng đồ
sộ. Quán ăn của ông Lương Ký cũng đã được sửa đổi
lại từ cái bảng hiệu đến cách sắp đặt bên trong.
Anh cố nhận ra một gương mặt quen thuộc nhưng mọi
người đều xa lạ. Một nhân viên bước ra, đon đả
mời. Anh lẳng lặng bước vào, ngồi xuống bàn, gọi một
chai bia và một đĩa thức ăn. Khi cô hầu bàn bưng ra, Tân
hỏi:
- Ông chủ tiệm nầy tên là ông
Lương Ký phải không?
- Không, ông Lương Ký là chủ cũ
đã sang lại cho chú tôi được hơn một năm rồi. Ông có
bà con với ông Lương Ký à? Ông muốn tìm ông ấy phải
không?
Tân gật đầu, hỏi tiếp:
- Cô có biết tại sao ông chủ
cũ sang lại và hiện nay ở đâu không?
- Tôi nghe chú tôi nói ông Lương
đã bỏ Việt Nam để sang lập nghiệp ở Tân gia ba.
- Cô có biết tại sao ông ấy đi
hay không?
- Chú tôi nói rằng ông Lương
trước đây sống bên Tàu, trốn cộng sản qua Hà nội,
rồi lại trốn cộng sản vào Sài gòn, bây giờ lại sợ
cộng sản chiếm miền Nam nên chạy trước qua Tân gia ba
mà sinh sống. Nhờ như vậy mà chú tôi có dịp sang lại
tiệm ăn nầy với giá khá rẻ.
Thấy Tân thẫn thờ nhìn quanh,
cô hầu bàn đon đả nói tiếp:
- Nghĩ cái số phận của ông ấy
cũng lạ lùng. Bị cộng sản đuổi chạy từ nơi nầy
đến nơi khác.
Cô ta nói xong thì cười khúc
khích rồi bỏ đi. Tân rót bia ra ly nhìn đám bọt tan dần,
lòng buồn rười rượi. Anh uống hết chai bia rồi gọi
thêm một chai nữa. Trong tiệm chỉ còn một mình anh mà
thôi. Anh cảm thấy hơi choáng váng. Cô hầu bàn trở ra
đứng trước mặt anh, nói với giọng ngập ngừng:
- Thưa ông!
Tân ngẩng lên nhìn. Cô ta nói
tiếp:
- Thưa ông, đến giờ giới
nghiêm rồi, chúng tôi phải đóng cửa tiệm. Lính tuần
tiểu đi ngang thấy còn mở cửa thì phiền phức lắm.
Tân hoảng hốt nhìn lên đồng
hồ treo tường:
- Sao? Giờ nầy giới nghiêm rồi
à? Tôi cứ tưởng còn một giờ nữa.
- Thưa ông, giờ giới nghiêm tăng
thêm một giờ sớm hơn từ hai tháng nay rồi, có lẽ vì
tình hình bất an. Bộ nội vụ có ra thông cáo trên báo
chí mà.
Anh vội vã trả tiền rồi bước
ra khỏi tiệm. Phố xá đã trở nên vắng vẻ. Các cửa
tiệm đều đã đóng cửa, con đường chỉ còn sáng lờ
mờ dưới ánh đèn đường vàng vọt. Tân đứng trên lề
đường, nhìn về hai phía, hi vọng có một chiếc taxi hay
một chiếc xích lô còn trống chạy đến. Tuy nhiên chỉ
có vài xe hai bánh phóng qua vội vã mà thôi. Anh chợt nhớ
đến Thùy Dung và nghe lòng đau nhói. Thái độ hung hăng
và tàn ác ban chiều đối với con giờ làm anh khiếp hãi.
Một nỗi hối hận ghê gớm làm cho tim anh như muốn vỡ
ra. Anh thấy kinh tởm chính mình. Anh muốn gặp ngay con
mình để ôm nó vào lòng và làm một cử chỉ gì đó để
nó biết rằng cha nó đang ân hận vô cùng. Giờ nầy Thùy
Dung đã ngủ hay chưa? Chắc chắn mông nó vẫn còn đau
lắm vì hai roi mà anh đã đánh xuống hết sức mạnh và
hết sức tàn nhẫn. Tại sao anh đã đánh con? Tại sao anh
đã hành xử như một kẻ điên cuồng? Đôi mắt vừa
khiếp hãi, vừa đau đớn của đứa con gái thân yêu hiện
ra rõ mồn một trong bóng đêm. Tân nghe nhức nhối trong
tận quả tim của mình.
Trên đường trở về nhà, mắt
Tân không thôi nhìn ngược nhìn xuôi. Con đường dài hun
hút chỉ còn có anh lầm lũi đi mà thôi. Qua khỏi Ngã
Sáu, Tân đi như chạy trên đường Minh Mạng. Từ phía
sau, có tiếng xe hơi rõ dần. Anh quay lui nhìn thì đúng
lúc một chiếc xe Jeep quân sự thắng kít rồi dừng lại
sát lề đường. Anh hiểu ngay đó là xe tuần tiểu của
quân đội, và cảm thấy sắp bị rắc rối to.
Có tiếng quát sắc gọn:
- Đứng lại!
Một người từ trên xe nhảy
xuống. Ánh đèn đường đủ sáng, soi lên chiếc lon thiếu
úy. Anh ta tiếp tục quát to như để trấn áp tinh thần
người đối diện:
- Có giấy tờ không, đưa xem.
Tân sờ vào túi quần. May quá,
cái bóp vẫn còn trong đó. Anh rút ra một thẻ bằng bìa
cứng, trao cho anh ta. Viên thiếu úy nhận lấy, rọi đèn
pin lướt qua rồi nói:
- Thẻ giáo sư. Anh là giáo sư
thực à? Giáo sư mà đi đâu trong giờ giới nghiêm? Tất
cả các lớp học đêm đều đã mãn từ lâu rồi. Đi
liên lạc với Việt cộng phải không?
Tân đứng im không nói gì. Anh ta
hỏi tiếp:
- Có căn cước không?
Tân móc bóp lôi ra luôn hai cái
thẻ khác đưa ra. Thiếu úy rọi đèn vào thẻ và nói to,
gần như reo lên:
- À há! Trung úy biệt phái bộ
giáo dục. Đi nhậu vui quá quên cả giờ về phải không
trung úy? Hèn chi thở ra nghe toàn mùi bia. Không ai đưa
trung úy về à?
Tân mỉm cười lắc đầu. Anh ta
nói tiếp:
- Chiến hữu say cả rồi phải
không?
Tân gật đầu. Anh hỏi:
- Nhà trung úy ở đâu?
Tân đáp:
- Ở đường Vườn chuối.
- Gần đây mà. Thôi, trung úy lên
đây tôi đưa về. Đi lang thang giờ nầy, rủi bị tụi
nhân dân tự vệ bắt nhốt thì khổ. Tụi nhóc con đó
thì chẳng biết nể ai đâu.
Tân leo lên xe. Tài xế sang số
và đạp ga, chiếc xe lao tới. Đến đầu con hẻm, Tân la
lên:
- Tới nhà rồi, cho tôi xuống.
Viên thiếu úy hỏi:
- Nhà trung úy ở đâu?
Tân chỉ vào con hẻm:
- Bên trong kia.
- Có xa không? Để tôi cho xe vào.
- Cám ơn thiếu úy, gần thôi,
tôi đi bộ vào cũng được. Chào thiếu úy và mấy anh
em.
- Chào trung úy.
Chiếc xe vụt chạy. Tân bước
vào con hẻm sáng lờ mờ. Mọi nhà đều tắt đèn, có lẽ
người ta đã ngủ say. Anh bước vào hàng hiên của nhà
mình, nhìn qua khe cửa thấy bên trong tối om. Anh nghe tim
mình đập thình thịch và có cảm như mình là một phạm
nhân đang về thú tội. Chốc nữa anh sẽ phải nói với
Thùy Liên thế nào? Liệu nàng có tha lỗi cho anh không?
Rồi Thùy Dung, con bé có giận và ghét cha nó hay không?
Tân muốn đánh mình thật đau; đau gấp mười lần hai
cây thước mà anh đã đánh vào mông con.
Đêm hoàn toàn yên tĩnh. Có lẽ
Thùy Liên và bé Dung đang ngủ say. Anh áp tai vào cửa lá
sách. Vẫn yên tĩnh. Trong bóng tối, Anh nghe lòng mình quặn
thắt khi nhớ đến hai thước đánh mạnh vào tấm thân
trần truồng của con bé. Lúc đó tại sao nó không khóc?
Rõ ràng mặt nó tái xanh, mắt nó tròn xoe kinh hãi, hai tay
ôm chặt lấy cổ mẹ!
Tân vẫn đứng yên trong bóng
tối, hai tay ôm lấy mặt trong vài phút. Anh gõ nhẹ vào
cửa mấy tiếng rồi im lặng lắng nghe. Anh hồi hộp chờ
đợi tiếng guốc và ánh đèn sáng lên. Nhưng không có
tiếng động nào cả, hoàn toàn vắng lặng và tối om. Có
lẽ Thùy Liên còn giận anh. Hay là Thùy Liên đang sợ hãi
vì không nghĩ anh về trong giờ giới nghiêm nầy.
Anh tiếp tục gõ và kê miệng
vào lá sách gọi:
- Thùy Liên, Thùy Liên, anh về
đây, cho anh vào.
Vẫn im lặng. Tân sờ dọc theo
cửa và chạm vào ổ khóa to tướng. Anh bủn rủn, than
thầm:
- Hai mẹ con khóa cửa đi rồi.
Thùy Liên bế con đi đâu trong đêm khuya khoắt thế nầy?
Anh lần tay vào túi. May quá, chùm
chìa khóa vẫn còn đây. Anh mở cửa bước vào nhà, bật
đèn lên, chạy vội vào phòng. Chiếc mùng đã treo lên
trên giường. Bên trong lớp mùng mỏng là cái giường
trống trơn. Tân hốt hoảng chạy xuống bếp, bật tất
cả đèn lên. Gian nhà nhỏ trống vắng một cách đáng
sợ. Anh trở lên buồng ngủ nhìn sững nền gạch bông
cạnh mép giường, nơi bé Thùy Dung đã ngồi và nhận hai
roi thực mạnh vào cơ thể tội nghiệp của bé.
Anh thở dài, cố kềm nước mắt,
trở ra nhà trước và xuống bếp tắt đèn rồi trở lên
chui vào mùng. Trần mùng trắng mờ mờ trong bóng đêm.
Những câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu: “Bé đã hết
đau vì hai roi đòn hay chưa? Hai mẹ con giờ nầy đang ở
đâu? Hai mẹ con có giận và ghét mình hay không?”.
Anh vùng dậy, chạy ra trước, cố
hình dung hai mẹ con đã trở về và đứng đợi trước
thềm. Anh vội vàng vặn chìa khóa và đẩy cửa ra. Vắng
lặng, hoàn toàn vắng lặng, mọi người đã ngủ yên,
thành phố đang chìm sâu vào giờ giới nghiêm. Trên bầu
trời những ngôi sao mờ nhạt, nhấp nháy như muốn chứng
minh sự hiện của mình bên trên cái thành phố được
hàng ngàn đèn đêm chiếu sáng. Anh thụt vào, khóa cửa
lại, lên giường nằm im. Cuối cùng giấc ngủ cũng đến,
nhưng là một giấc ngủ chập chờn, nặng nề, đầy mộng
mị.
Tiếng gà gáy làm Tân giật mình
thức giấc. Như một phản xạ trong cơn hoảng hốt, Tân
chồm dậy bật đèn. Ánh sáng đến đột ngột chói lòa
cả gian phòng trống. Đồng hồ chỉ bốn giờ sáng. Tân
ngơ ngẩn tắt đèn, nhắm mắt lại nhưng không tài nào
ngủ tiếp được. Anh lần mò xuống bếp, nấu nước pha
cà phê. Công việc thực đơn giản nhưng anh cảm thấy
hơi vụng về vì từ nhiều năm rồi, chính Thùy Liên làm
mỗi buổi sáng. Lúc anh rửa mặt xong là đã có ly cà phê
nóng trên bàn. Chỉ mới một đêm vắng bóng hai mẹ con
mà gian nhà quen thuộc thân yêu trở nên hoang vắng một
cách lạ lùng.
Anh ngồi hút thuốc, hết điếu
nầy đến điếu khác cho đến khi tiếng xe cộ vang lên
cùng những tiếng động khác từ ngoài đường phố vọng
vào. Bầu trời bắt đầu rựng sáng, soi lờ mờ con hẻm
nhỏ với nhiều người qua lại. Tân ráng đợi cho trời
thực sáng tỏ rồi thay áo quần, khóa cửa lại và bước
ra đường. Anh dừng lại trước nhà Bạch Mai. Cửa sắt
vẫn còn đóng kín nhưng có ánh đèn rọi ra xuyên qua
những khe hở bên trên và bên dưới. Anh nắm tay, đấm
nhẹ vào cửa sắt và khẽ gọi:
- Anh Thế, Bạch Mai. Anh Thế,
Bạch Mai. Mở cửa.
Có tiếng chân bước trên nền
nhà và có tiếng Bạch Mai từ bên trong:
- Anh Tân đó phải không?
- Phải rồi. Bạch Mai cho tôi vào
hỏi thăm một chút.
Có tiếng chìa khóa tra vào ổ
rồi sau một tiếng “kít”, cánh cửa sắt hé mở. Bạch
Mai nói vội:
- Mời anh vào.
Anh bước vào nhà, nhìn sâu xuống
bếp, chẳng thấy ai cả, Anh thấy nỗi lo lắng và đau
đớn dâng lên trong lòng. Bạch Mai hỏi:
- Anh đi đâu sớm vậy?
Anh quay lại nhìn sững Bạch Mai,
hỏi với giọng ngập ngừng:
- Bạch Mai, hai mẹ con, Thùy Liên
và Thùy Dung có bên nầy hay không?
Bạch Mai lắc đầu:
- Không có!
Tân tái mặt. Bạch Mai nói tiếp
với giọng gắt gỏng:
- Anh cho em biết đêm rồi anh đã
làm gì con bé rồi bỏ đi ngủ ở đâu? Anh đi đâu giờ
nầy mới về phải không?
Tân trố mắt nhìn bạn mình vừa
ngạc nhiên vừa thất vọng:
- Hai mẹ con không có bên nầy
sao? Tôi ngủ một mình bên nhà, đợi sáng mới qua đây
để tìm hai mẹ con.
Bạch Mai tiếp tục sừng sộ:
- Mai hỏi anh, tại sao anh đánh
con bé? Nó có tội gì? Anh nói cho em nghe.
Tân vẫn há hốc nhìn Bạch Mai
như phạm nhân nhìn quan tòa. Vừa lúc đó thiếu tá Thế
bước ra, vỗ nhẹ vào vai vợ:
- Thôi đi cô, đừng hành hạ
người ta nữa. Cứ trông nét mặt bơ phờ thì đủ biết
anh Tân đã tự hành hạ mình suốt đêm rồi.
Thế quay sang Tân:
- Hai mẹ con khi đêm ở đây,
hiện đang ngủ trên lầu trong cái phòng trống dành cho
khách. Thức khuya quá, chắc giờ nầy còn ngủ say.
Tân thở ra một hơi dài, mừng
rỡ:
- Cám ơn anh Thế.
Bạch Mai ngắt lời:
- Cám ơn một mình anh Thế thôi
sao? Chính em đưa hai mẹ con về đây mà. Anh bỏ đi để
hai mẹ con nằm mà chịu đựng sự lo lắng trong cái nhà
trống vắng đó được sao?
Thiếu tá Thế chen lời vào để
giải thích:
- Hồi hôm, khoảng mười giờ,
Thùy Liên bế con sang đây tìm anh không có nên trở về
nhà. Đến gần giờ giới nghiêm, Bạch Mai sốt ruột nên
rủ tôi sang nhà để xem anh về chưa. Cửa khép hờ, chúng
tôi đẩy vào thì thấy hai mẹ con đang ngồi khóc thút
thít. Lúc đó bắt đầu giới nghiêm, chúng tôi nghĩ rằng
anh không thể về được nên hối thúc Thùy Liên khóa cửa
và đưa cả hai mẹ con sang đây.
Thế ngừng nói, ra đóng cửa sắt
rồi quay lại nói:
- Anh Tân xuống bếp ngồi uống
nước để đợi hai mẹ con dậy.
Anh theo anh Thế bước vào phòng
trong, ngước mặt lên nhìn và đứng sững lại. Trên đầu
cầu thang, Thùy Liên đang bế con chuẩn bị bước xuống.
Nàng vỗ vào lưng bé, giọng mừng rỡ:
- Kìa, ba về kìa con.
Con bé trố mắt nhìn với vẻ
vừa ngạc nhiên vừa vui sướng. Nó gọi:
- Ba, ba!
Tân phóng lên cầu thang. Con bé
đưa hai tay ra. Thùy Liên trao con sang cho chồng. Tân ôm
chặt con vào lòng, từ từ bước xuống cầu thang. Con bé
sung sướng úp mặt vào vai cha.
Mọi người ngồi quanh bàn ăn.
Thùy Dung ngồi trên đùi của Tân, tựa đầu vào ngực
cha. Tân cúi xuống hôn vào mái tóc của con, giọng đầy
xúc cảm:
- Dung, con có giận ba không?
Con bé ngước lên nhìn cha:
- Ba nói gì?
- Con có thương ba không?
- Có, con thương ba.
- Nhiều không?
- Nhiều.
Tân quay sang vợ, thấy mắt Thùy
Liên ươn ướt như sắp khóc. Nàng hỏi nho nhỏ:
- Anh ngủ bên nhà mình, sáng mới
qua đây phải không?
Tân gật đầu, Thùy Liên hỏi
tiếp:
- Anh về lúc nào? Khi bắt đầu
giới nghiêm, mẹ con em theo anh chị Thế ra khỏi nhà và
qua đây.
- Anh về sau giờ giới nghiêm một
lúc. Đang đi lang thang trên đường Minh mạng thì bị xe
tuần tiểu của quân đội bắt gặp. May mà anh có mang đủ
giấy tờ nên họ cho anh lên xe và chở về nhà.
- Nhưng anh đi đâu đến quá giờ
giới nghiêm vậy?
- Anh đi lang thang vào tận Chợ
lớn, đến quán ông Lương Ký, ngồi uống bia một mình,
thì giờ trôi qua mà không hay, giới nghiêm sớm hơn cũng
không biết.
- Nhưng tại sao anh lại bỏ đi
lang thang như vậy?
Tân cúi đầu thở dài nhè nhẹ:
- Vì anh hối hận đã đánh con;
anh không hiểu tại sao anh có thể đánh con một cách tàn
ác như vậy? Thùy Liên, em trách anh lắm phải không?
Thùy Liên lấy khăn chặm vào mắt
mình:
- Không, em không trách anh đâu vì
em hiểu anh.
Tân lắc đầu:
- Cám ơn em; nhưng anh thực đáng
trách, đáng bị trừng phạt.
Thùy Liên nhìn chồng một cách
dịu dàng:
- Không, em không trách anh đâu.
Em biết đầu óc anh thường bị căng thẳng vì những tin
tức chiến sự hàng ngày, Cứ mỗi lần có một trận
đánh lớn ở đâu đó, với nhiều người chết của bất
cứ bên nào, anh cũng tỏ ra đau đớn.
Bạch Mai chen vào:
- Thùy Liên nói đúng đó. Anh Tân
có tâm hồn nhạy cảm. Ngay từ lúc còn hoạt động cho
Việt cộng, tôi đã thấy được sự nhạy cảm đó, dù
lúc bấy giờ tôi còn nhỏ và chỉ mới quen biết với
anh Tân thôi. Trong khi những cán bộ khác thì luôn luôn tỏ
ra cứng rắn và hừng hực khí thế căm thù thì trong đôi
mắt của anh Tân, có một cái gì đó vừa dịu dàng, vừa
xót xa. Với tính cách như thế, anh Tân làm thế nào mà
theo cộng sản cho đến cùng được.
Thiếu tá Thế cười khà khà:
- Có tâm hồn nhạy cảm làm chi
cho khổ. Cứ như anh em chúng tôi đây. Hô đánh thì đánh
cho ra trò, hô nghỉ thì cho thỏa thích. Chiến tranh là một
số phận đã an bài cho mình và cho dân tộc mình; phải
chấp nhận một cách vui vẻ và tham gia một cách thản
nhiên cho đến mãn cuộc. Đó là cái triết lý sống thích
hợp nhất cho người đàn ông trong thời buổi loạn ly.
Nhưng bây giờ anh Tân đã trở về với đời sống dân
sự chứ đâu còn tham gia vào chiến tranh nữa.
Thùy Liên đáp lời:
- Em biết anh Tân không đau khổ
vì mình phải tham gia vào chiến tranh mà đau khổ vì số
phận của cả dân tộc mình phải chịu đựng cuộc chiến
nầy. Vì vậy, khi chính mình phải trực tiếp chịu nỗi
khổ của chiến tranh cùng với bao nhiêu người khác thì
anh Tân lại cảm thấy ít đau xót hơn là khi từ giã vũ
khí và đứng ở nơi bình yên để nhìn người khác chịu
đựng. Em đã gặp anh Tân trong cả hai trạng thái khác
nhau đó. Lúc anh đang là chiến sĩ và đang bị hành hạ
vì vết thương mà kẻ thù gây ra, em thấy anh Tân bình
thản và hồn nhiên hơn khi được giải ngũ và về sống
bên lề cuộc chiến. Em đã chứng kiến đầy đủ hai
giai đoạn sống đó của anh Tân nên em rất hiểu những
gì xảy ra trong tâm hồn của anh.
Tân quay sang vỗ nhẹ vào bàn tay
của vợ đặt trên bàn:
- Cám ơn em. Em nói như một nhà
tâm lý học lành nghề.
Thùy Liên tỏ ý vui thích và phấn
khởi vì lời khen của chồng. Nàng nói với Bạch Mai:
- Chiều hôm qua nghe anh Thế nói
về cuộc hành quân khủng khiếp trong vùng rừng núi Hạ
Lào, em để ý thấy anh Tân đã tỏ ra xúc động mãnh
liệt; rồi tới khi nghe anh Thảo bị mất liên lạc thì
em thấy ngay sự xúc động đã vượt quá mức chịu đựng
trong lòng anh. Em cảm thấy tâm hồn anh như một quả bóng
căng cứng, chưa biết làm cách nào để cho xẹp xuống.
Thùy Liên quay sang nhìn con, miệng
mỉm cười mà mắt rơm rớm:
- Chính con bé nầy đã làm cho
quả bóng đó xẹp xuống với cái giá phải trả là hai
roi đau điếng vào cái mông phinh phính và tội nghiệp của
nó.
Tân cúi xuống nhìn mái tóc của
con nhưng nói với vợ:
- Thùy Liên. anh xin lỗi em. Anh
hứa không bao giờ đánh đòn con mình nữa. Bắt một đứa
bé làm nạn nhân cho một sự đau xót hay tức giận của
mình là một điều bất nhân.
Thiếu tá Thế nói với giọng
hòa giải:
- Thôi, thế là tốt rồi. Tôi
xin làm chứng cho lời hứa của anh Tân. Bây giờ thì vợ
chồng con cái vui vẻ đi nhé. Tôi khuyên anh Tân cứ xem
cuộc chiến như là một cái cộng nghiệp mà nhân dân
mình phải chung chịu. Có lẽ trước đây ông cha mình đã
tạo nên một cái nhân xấu nên ngày nay con cháu phải
nhận lấy cái quả tồi tệ nầy. Cộng sản chính là
người nhận nhiệm vụ bưng cái quả tồi tệ đó trút
lên đầu nhân dân Việt Nam. Cứ nghĩ như thế thì mình
sẽ an lòng chấp nhận tất cả cho đến khi cái nghiệp
chấm dứt và cái quả tiêu tan.
Tân gật đầu:
- Tôi xin nghe lời anh Thế. Đó
có lẽ là thái độ tốt nhất để mỗi người đối phó
với cuộc chiến tranh dai dẳng nầy.
Thế nói thêm:
- Còn đối với anh Thảo thì anh
cũng chớ quá bi quan. Trong cuộc chiến tranh nầy cũng như
bao nhiêu cuộc chiến khác, chuyện mất liên lạc là điều
vẫn thường xảy ra. Tôi vẫn hi vọng rồi trung tá Thảo
sẽ cùng đơn vị rút về một cách bình yên. Nhưng nếu….
Bạch Mai vội ngắt lời:
- Thôi anh ạ. Anh hi vọng sự
bình an cho anh Thảo, thế là tốt rồi. Anh đừng nói thêm
cái “nhưng nếu” của anh nữa, em sợ lắm.
Thế cười xuề xòa:
- Thế thì thôi, chúng ta hãy
thành khẩn cầu chúc sự bình an cho anh Thảo. Bao nhiêu
tấm lòng thành ở đây chắc đủ để đem lại sự may
mắn cho con người đáng quí đó.
*
* *
Sự sống trở lại bình thường
trong căn nhà nhỏ của Tân và Thùy Liên. Cuộc hành quân
Hạ Lào chấm dứt mà không đạt được kết quả nào rõ
rệt, cả hai bên đều bị tổn thất rất nặng. Phía
Việt Nam Cộng hòa bị tổn thất vì pháo binh của Việt
cộng. Phía bên kia thì có nhiều người bỏ mạng vì
những đợt oanh kích dữ dội của phi cơ. Trong những
cánh rừng già, xác chết rải rác khắp nơi, cái thì được
chôn vội vã trong những huyệt cạn và sơ sài, cái thì
không kịp chôn nằm chơ vơ trên nền đất lạnh.
Thiếu tá Thế cố gắng liên lạc
khắp nơi để hỏi thăm tin tức trung tá Thảo. Cuối
cùng, bộ tư lệnh sư đoàn biệt động quân cho hay trung
tá Thảo đã dẫn được tiểu đoàn băng rừng trở về
căn cứ Khe sanh, mang theo một số người bị thương.
Những đồng đội đã chết thì được chôn cất tử tế,
mộ mỗi người được đánh dấu và được ghi vào sổ
cẩn thận để sau nầy khi tan giặc rồi thì sẽ đi tìm.
Trung tá Thảo đã trao lại cho bộ tư lệnh sư đoàn tất
cả những điều ghi chép đó, cùng tiền bạc và kỷ vật
của mỗi người để gửi về cho thân nhân của họ.
Nhận được tin nầy, thiếu tá
Thế vô cùng mừng rỡ. Để cho có một bằng chứng thực
cụ thể cho tin vui nầy, anh nài nỉ xin bộ tư lệnh sư
đoàn thông báo cho trung tá Thảo gởi thư về ngay. Gần
một tuần sau Thế nhận được thư của Thảo. Buổi
chiều, Bạch Mai gọi Tân và Thùy Liên sang. Thiếu tá Thế
đọc thư cho mọi người nghe.
Quảng trị ngày….
Các anh chị thân mến,
Sáng nay, tôi được anh liên đoàn
trưởng gọi lên bảo rằng thân nhân của tôi yêu cầu
tôi gửi thư gấp về báo cho gia đình biết đã bình yên
trở về từ địa ngục Hạ Lào. Tôi nói rằng tôi chẳng
có thân nhân nào ở miền Nam. Tôi chỉ còn một người
em gái đang ở ngoài miền Bắc, không biết lưu lạc tỉnh
nào. Không lẽ em tôi đã trốn được vào Nam. Mà nếu
đúng thế thì làm sao cô ấy biết tôi là liên đoàn phó
biệt động quân và vừa thoát chết trong trận Hạ Lào?
Tôi vừa nói xong thì anh liên đoàn trưởng nhất định
bảo rằng tôi có thân nhân ở Sài gòn và đang làm việc
tại tổng tham mưu, khối chiến tranh chính trị.
Tôi chợt hiểu và rất xúc động.
Anh Thế, chị Bạch Mai, anh Tân, chị Thùy Liên! Các anh
chị chính là thân nhân của tôi chứ không còn ai khác
nữa. Ở miền Nam tự do và đầy đau khổ nầy, tôi vẫn
còn có những người thân yêu đang lo lắng cho cái sinh
mạng mong manh của tôi ngoài chiến trường và chắc chắn
sẽ nhỏ những giọt nước mắt cực kỳ quí báu khi nghe
tin tôi ngã gục dưới lằn đạn của quân thù! Cám ơn
các anh chị đã cho tôi niềm an ủi vô biên.
Anh Thế ở tổng tham mưu có lẽ
đã theo dõi cuộc hành quân ở Hạ Lào. Đó là cuộc hành
quân tồi tệ nhất trong những cuộc hành quân mà tôi đã
từng tham dự. Cộng quân gần như nắm lấy trận địa,
dồn chúng ta vào thế bị động. Ngay phút đầu tiên, một
tiểu đoàn của tôi đã rơi vào ổ phục kích của quân
thù rồi sau đó lại rơi vào vùng xạ kích chính xác của
pháo binh Việt cộng, làm toàn thể bộ chỉ huy tiểu đoàn
tan nát tức thì. Các đại đội trưởng tự động dắt
các đại đội ra khỏi trận địa pháo và báo về liên
đoàn. Lập tức, liên đoàn cử tôi vào đưa tiểu đoàn
ra khỏi chỗ nguy hiểm.
Trực thăng đưa tôi vào chiến
trận. Tôi tập họp được các đại đội thì có lệnh
đi giải vây cho một tiểu đoàn bộ binh bị chúng nó bao
vây ở một thung lũng bên kia dãy núi. Chúng tôi bò lên
núi và từ trên đánh xuống, tiểu đoàn bị vây từ bên
dưới đánh lên làm cho Việt cộng bỏ chạy tán loạn.
Khi hai tiểu đoàn giáp mặt với nhau, mấy sĩ quan của
tiểu đoàn bộ binh ôm chầm lấy chúng tôi, có người
rơi nước mắt. Thực là cảm động.
Sau đó, tôi xin bộ tư lệnh hành
quân cho trở lại nơi tiểu đoàn đã bị pháo để đưa
xác các anh em còn nằm trong đó ra chỗ nào trống trải
để trực thăng chở về. Trong số những người đã nằm
xuống tại đó có thiếu tá tiểu đoàn trưởng và đại
úy tiểu đoàn phó. Tôi nghĩ rằng bấy giờ đó là khu an
toàn vì sau khi tiểu đoàn mình rút đi thì Việt cộng
cũng quay mũi pháo của chúng về hướng khác. Nhưng tôi
đã lầm. Khi chúng tôi trở lại lom khom cuộn các xác
chết của đồng đội vào poncho, chưa kịp cột chặt thì
những quả đạn pháo dội vào. Một trong những quả đạn
rơi trúng ngay binh sĩ mang máy truyền tin. Anh ta chết ngay
và cái máy bị tan tành. Tôi cố dùng máy vô tuyến của
các đại đội để liên lạc về bộ chỉ huy mà không
được nên đành phải tự lo liệu lấy.
Tôi cho tiểu đoàn rút nhanh ra
khỏi mục tiêu tác xạ của địch và xuống ẩn núp dưới
đáy thung lũng. Thế là, chẳng những không mang được
xác anh em mà còn bỏ lại thêm vài anh em khác nữa. Tôi
vừa buồn, vừa phẫn uất. Tôi gọi các đại đội
trưởng đến để cho biết tình hình đơn độc của tiểu
đoàn. Tất cả mọi người đều đồng ý nhắm hướng
Đông để rút về lãnh thổ Việt Nam. Kể từ giờ phút
đó, chúng tôi không còn được pháo binh và không quân
của mình yểm trợ nữa, nhưng chúng tôi không sợ. Đạn
dược vẫn còn đầy đủ vì chỉ mới đụng với Việt
cộng vài lần và lần nào chúng cũng chạy dài. Cộng
thêm với số đạn của các anh em đã ngã xuống thì mỗi
người còn sống mang hơn một cấp số đạn qui định
cho mỗi lần hành quân.
Chúng tôi không sợ đụng địch,
trái lại còn mong gặp bộ binh của chúng để choảng
nhau một trận cho đã cơn giận. Ngoài chiến trường,
không có gì bực tức cho bằng phải nằm co rút hứng
chịu những quả đạn pháo từ trên trời rơi xuống mà
chẳng thấy quân địch ở đâu.
Tuy nhiên, mọi người đều muốn,
trước khi rút lui về biên giới cần phải trở lại chôn
cất anh em đã hi sinh cho tử tế, nếu không chúng tôi sẽ
ân hận suốt đời. Nhưng cần đề phòng địch pháo kích
khi ta vừa xuất hiện ở đó. Nhưng tại sao địch có
thể pháo một cách chính xác đúng chỗ và đúng thời
gian như thế? Không cần phải suy nghĩ nhiều, chúng tôi
đoán là chung quanh đây địch đã đặt ít nhất một
điểm quan sát bằng ống nhòm. Vì vậy chúng tôi không
vội trở lại mà cho các đại đội phân tán đi lùng sục
những chỗ nghi ngờ. Kết quả là đại đội Một bắn
hạ được một trinh sát của Việt cộng. Chỉ cần một
phát súng của trung sĩ Khải, thiện xạ viên của sư đoàn
là thằng trinh sát từ trên đọt cây cao rớt xuống như
một trái mít rụng. Chúng tôi tiếp tục lùng sục cho đến
tối thì nghỉ đêm lại trong rừng già.
Hôm sau, tôi cùng một đại đội
trở lại chỗ cũ. Mất trinh sát nên pháo của địch cũng
ngưng hoạt động. Chúng tôi ra sức đào một dãy huyệt
và chôn cất những tử sĩ theo thứ tự của cấp bậc.
Đến trưa thì công việc hoàn tất. Khi tôi hô anh em đứng
nghiêm bắt súng chào vĩnh biệt các đồng đội xấu số
của mình thì trung úy Thành đại đội trưởng quăng súng
xuống đất, bước đến ôm chầm lấy ngôi mộ của tiểu
đoàn trưởng, úp mặt xuống khóc nức nở. Sau một vài
giây bàng hoàng, cả đại đội cũng làm như trung úy
Thành. Tôi lặng người đứng yên. Trước mắt tôi, tất
cả mọi người, tất cả những nấm đất sơ sài, tất
cả núi rừng hoang vu nhòe đi sau làn nước mắt.
Tôi tập họp tiểu đoàn lại và
dùng la bàn, nhắm hướng Đông tiến tới. Trong ngày,
nhiều lần, chúng tôi nghe tiếng phi cơ xuyên qua tàn lá
của rừng già. Thỉnh thoảng, chúng tôi nhận ra các phản
lực cơ vụt qua, tiếp theo những tiếng nổ đùng đùng
của bom cứ dội từ vách núi nầy sang vách núi khác, hồi
lâu mới chấm dứt.
Sau bốn ngày vượt suối trèo
non, xuyên qua những đỉnh núi cao và những thung lũng sâu
thì chúng tôi gặp một toán địa phương quân. Lúc đó
chúng tôi mới biết rằng mình đã vượt qua biên giới
khá xa và đang đứng trên quê hương yêu dấu của mình.
Bốn ngày qua chúng tôi đã mò mẫm đi như những thằng
mù. Chúng tôi có mang theo mình bản đồ tỉnh Sa van na
khét của Lào và tỉnh quãng trị của ta. Tuy nhiên, những
bản đồ nầy quá sơ sài và không chính xác vì đây là
vùng rừng núi vô cùng hiểm trở. Bản đồ lại thiết
lập từ thời Pháp thuộc, vùng hành quân nằm trên lãnh
thổ Lào nên nha Địa dư của mình đâu có dịp để điều
chỉnh. Vì vậy có bản đồ trong tay cũng như không có.
Dù sao chúng tôi cũng trở về được an toàn. Nghĩ cũng
đáng giận, đánh đấm chưa ra chi mà thiệt mất mười
anh em, có cả bộ chỉ huy tiểu đoàn. Thực là tai hại.
Hiện nay chúng tôi đang đóng ở
gần thị xã Quảng trị để dưỡng quân. Áp lực của
cộng quân ở vùng hỏa tuyến đang rất nặng nề, vì vậy
chắc chắn tôi vẫn phải ở lại đây cùng với liên
đoàn. Nếu có dịp trở vào Sài gòn, tôi sẽ đến thăm
các anh chị ngay. Ở miền Nam nầy, còn ai thân thiết với
tôi hơn anh Thế, anh Tân, chị Bạch Mai, chị Thùy Liên và
các cháu đáng yêu.
Xin kính chúc sức khỏe bác Tư
và mọi người.
Bạn thân của các anh chị,
Trung tá Đoàn Thạch
Thảo.
Thiếu tá Thế đặt lá thư xuống
bàn, mọi người đều im lặng, vừa mừng rỡ, vừa xúc
động. Thế đứng dậy, bước đến chiếc tủ gỗ ở
góc phòng lôi ra một chai Martel. Anh trở lại đặt chai
rượu xuống bàn và nói:
- Anh Tân có nhớ trong phim
“Longest Day”, ông tướng Đức có một chai rượu quí
để dành cho một dịp lớn là ngày toàn thắng. Tôi bắt
chước ông ấy cũng để dành chai rượu nầy cho một dịp
lớn. Hôm nay được thư của anh Thảo, tôi xem như dịp
lớn vừa đến, anh em mình khui ra uống một phần, phần
còn lại để dành cho anh Thảo.
Bạch Mai cười:
- Không biết khi anh Thảo có dịp
về đây thì chai rượu nầy còn một giọt nào hay không.
Thiếu tá Thế trả lời ngay:
- Không sao. Cuối tháng nầy lãnh
lương xong tôi mua một chai khác để vào tủ dành đón
anh Thảo về thăm hay cho một dịp lớn khác cũng được.
Chai rượu được khui ra và Tân
uống cho đến lúc chếnh choáng say mới ra về.
Bạch Mai bước vào nhà và đi
thẳng xuống bếp, thấy Thùy Liên đang ngồi trên ghế,
Thùy Dung đứng kế bên lấy tay xoa lên bụng mẹ.
- Thùy Liên mới đi làm về phải
không?
Thùy Liên ngẩng lên, mừng rỡ:
- Chị Mai. Dạ, em mới đi làm
về. Chị lên nhà ngồi chơi, em lấy nước chị uống.
Bạch Mai xua tay:
- Không, không. Chị phải về
ngay để làm cơm, mấy cha con sắp về rồi. Sáng nay mua
được con cá chim thực to và ngon quá, chị đem về chiên,
cắt một phần mang sang đây.
Bạch Mai trao quà cho Thùy Liên
rồi bế Thùy Dung lên, hôn đánh chụt một cái thực to
vào cái má phinh phính của bé. Nàng hỏi Thùy Liên:
- Cháu đã đầy ba năm chưa nhỉ?
- Dạ, được ba năm rồi.
- Ừ tôi nhớ rồi, nó là tuổi
con khỉ, sinh năm Mậu thân, ngay sau khi ba nó bị tái ngũ
và được biệt phái về dạy lại.
Bạch Mai quay sang thấy Thùy Liên
đứng dậy và nặng nề đến cũi để cất đĩa cá. Nàng
hỏi:
- Chừng nào Thùy Dung có em?
Thùy Liên quay lại cười:
- Dạ, có lẽ còn đúng một
tháng nữa.
- Bụng Liên to lắm rồi đó. Tại
sao không xin nghỉ để chuẩn bị sinh.
- Dạ em tính cố đi làm thêm nửa
tháng nữa để sau khi sinh được nghỉ lâu hơn. Công việc
của em trong tổng y viện cũng nhẹ nhàng, các anh chị
trong phòng lại dành làm hầu hết việc nên em vào đó
thì cũng ngồi nghỉ trong phần lớn thời gian.
- Hai bác ở Cần thơ có khỏe
không? Kỳ nầy Thùy Liên sinh, bác gái có lên để nuôi
như kỳ trước không?
- Dạ, ba em yếu lắm nhưng má em
còn khỏe. Má em dự định lên với em trong một tháng
thôi rồi về săn sóc ba em. Chị Hai gửi thư bảo rằng
đã tìm được một người giúp việc tin cậy được,
vài hôm nữa thì đưa lên.
- Có người giúp việc thì tiện
lắm nhưng thêm một món chi tiêu không phải là nhỏ.
- Không sao chị ạ, anh Tân vừa
nhận thêm một số giờ trường tư nên việc chi tiêu của
chúng em cũng khá thong thả. Có điều, thấy anh Tân phải
dạy nhiều, em xót ruột lắm. Mấy năm rồi, tối nào sau
bữa cơm, hai cha con cũng ngồi đùa giỡn với nhau làm cho
nhà cửa rộn ràng vui vẻ. Bây giờ, anh Tân phải dạy
thêm buổi tối. Đèn bắt đầu bật lên là con bé ra ngồi
trên bệ cửa nhìn ra đường. Thỉnh thoảng, em bế nó
vào chơi được một lát rồi nó lại ra ngóng ba nó. Nhìn
nó ngồi im chờ đợi, trông thấy thương đến chảy nước
mắt. Anh Tân về, mặt mày bơ phờ vì mệt nhọc, dựng
xe ngay ngoài trước, con bé nhào ra, anh bế con chặt vào
lòng, hôn hít một lúc mới trao con cho em để đưa xe vào
nhà. Có lần thấy hai cha con như thế, em xót ruột quá,
bảo anh ấy trả giờ lại để ở nhà chơi với con nhưng
anh lắc đầu bảo rằng phải đi dạy để có thêm tiền
lo cho đứa con thứ hai. Vả lại, đồng tiền mất giá
liên tục, mức đắt đỏ không ngừng gia tăng. Đó là
kết quả tất yếu của cuộc chiến tranh mỗi ngày thêm
ác liệt. Nghe anh ấy nhắc đến chiến tranh, em không dám
bàn thêm nữa. Từ cái hôm xảy ra sự việc liên quan đến
cuộc hành quân ở Hạ Lào, em tránh nhắc đến cuộc
chiến vì sợ anh ấy lại đau xót đến mất thăng bằng
về tâm lý.
Bạch Mai gật đầu:
- Thùy Liên nghĩ như vậy là
đúng. Anh Tân là loại người đa cảm. Số phận lại xô
đẩy anh ấy vào những hoàn cảnh phải chứng kiến những
cảnh đau lòng do cuộc chiến gây ra. Tâm hồn anh ấy bị
thương tổn quá nhiều. Nhờ có Thùy Liên rồi đến bé
Thùy Dung mà những vết thương đó được lành lặn.
Thùy Liên chớp mắt tỏ vẻ cảm
động:
- Cám ơn chị đã khen em. Nhưng
em biết những vết thương ấy chưa lành hẳn đâu. Chiến
tranh vẫn còn đó thì những vết thương trong tâm hồn
anh Tân vẫn chưa lành và chúng có thể sẽ rỉ máu ra lúc
nào không biết.
- Thôi thì cứ để anh ấy lao
vào dạy học kiếm tiền thì cũng tránh được phần nào
những giây phút ray rứt vì chiến tranh. Thôi, chào em. Giờ
nầy, có lẽ hai cha con đã về đến nhà rồi.
- Dạ, chị về. Một lần nữa,
em cám ơn chị. Gia đình em thực may mắn được sống gần
chị.
Bạch Mai cúi xuống hôn bé Thùy
Dung rồi bước ra khỏi nhà. Thùy Liên nhìn theo và nghĩ
thầm:
- Con người như thế nên anh Tân
thầm yêu trong bao nhiêu năm cũng phải!
*
* *
Mọi việc diễn ra đúng như dự
tính. Nửa tháng sau khi xin phép nghỉ hộ sản thì Thùy
Liên sinh được một bé trai. Vì đã dự định trước từ
lâu nên Tân đặt ngay tên con là Hòa Bình. Anh nói với
vợ:
- Thùy Dung là tất cả lẽ sống
của anh, còn Hòa bình, em nó, là tất cả lòng mong ước
của anh cho đất nước của mình.
Thùy Liên mỉm cười:
- Còn riêng em thì chẳng là cái
gì của anh cả.
Tân đưa cả hai tay áp vào mặt
vợ. Đó là cử chỉ yêu thương đậm đà của Anh. Anh
nói một cách tha thiết:
- Không, em là tất cả nguồn an
ủi của anh, là nơi dừng chân lý tưởng của cuộc đời
đầy sóng gió của anh.
Sau khi Thùy Liên và em bé từ nhà
bảo sanh về, gian nhà nhỏ trở nên quá chật hẹp. Vì
vậy, chị Hai lên thăm vài bữa rồi trở về Cần thơ
với chồng con. Mẹ Thùy Liên còn ở lại đến đầy
tháng thằng cháu ngoại. Cuối cùng, chỉ còn chị Bảy
giúp việc cùng với gia đình Tân.
Chị Bảy là một người đàn bà
đã lớn tuổi, không chồng không con, quê mùa và vụng
về, nhưng tính tình hiền lành, luôn luôn tỏ ra cố gắng
làm theo ý muốn và sự chỉ bảo của Thùy Liên. Thùy
Liên lại dễ tính nên không khí gia đình cũng vẫn vui vẻ
và đầm ấm.
Thùy Dung tuy mới lên ba nhưng đã
tỏ ra thương yêu em bé rất nhiều. Kể từ khi có bà
ngoại ở quê lên, Thùy Dung được ở nhà không phải đi
nhà trẻ. Đó thực sự là một hạnh phúc cho một đứa
bé được sinh ra trong một gia đình tràn ngập yêu thương.
Lúc Thùy Liên còn trong nhà bảo sanh, Thùy Dung được cha
cho vào thăm một lần vào buổi chiều. Nó trân trân nhìn
em bé một cách ngạc nhiên. Hồi lâu nó hỏi mẹ:
- Sao em bé nhỏ vậy hả mẹ?
Thùy Liên mỉm cười:
- Vì em bé mới được sinh ra.
- Rồi em bé có lớn như con
không?
- Có chứ. Em bú mẹ thì lớn như
con vậy.
Nó đưa tay nhè nhẹ nắm lấy
tay em bé rồi hỏi tiếp:
- Em bé trong bụng mẹ chui ra phải
không?
- Phải.
- Làm sao em chui ra được?
Thùy Liên ấp úng không biết trả
lời thế nào. Tân sửng sốt nhìn con, còn cô y tá bụm
miệng cười. Không thấy mẹ trả lời , bé nói tiếp:
- Em bé đưa tay cởi nút áo của
mẹ rồi chui ra phải không mẹ?
Cô y tá vội bế Thùy Dung lên la
to:
- Đúng rồi, bé nói đúng rồi,
em bé thò tay cởi nút áo của mẹ và chui ra. Em bé tài
thật và cháu cũng thông minh lắm. Lúc trước cháu cũng
cởi nút áo và chui ra khỏi bụng mẹ, phải không nào?
Thùy Dung nhìn sững cô y tá một
lúc rồi gật đầu. Cô quay lại nói với Thùy Liên:
- Con bé nầy mặt mày sáng rỡ
và giàu tưởng tượng lắm, lớn lên học giỏi không một
đứa bé nào bì kịp.
Cô đặt Thùy Dung xuống, dặn dò
Thùy Liên đôi điều rồi bước ra ngoài. Thùy Liên ôm
chặt con gái hôn tới tấp vào mặt nó trước khi bé từ
giã để ra về với cha.
Sau ngày đầy tháng Hòa Bình, bà
ngoại về quê nên Thùy Dung phải trở lại nhà giữ trẻ.
Nó khóc thét để phản đối và nhất định ở nhà với
mẹ và em bé. Nó khóc đến lạc giọng nên Tân đành phải
để bé ở nhà và dặn chị Bảy trông nom cẩn thận.
Thực ra Thùy Dung rất ngoan, chẳng phải trông nom gì
nhiều. Gần như suốt cả ngày, bé quanh quẩn bên giường
của mẹ.
Hết hạn nghỉ hộ sản, Thùy
Liên phải trở lại tổng y viện để làm việc, Tân buộc
phải gởi Thùy Dung vào nhà trẻ vì chị Bảy không thể
trông nom cùng lúc hai đứa trẻ từ sáng đến chiều.
Trong ngày, nhân lúc vắng khách,
Bạch Mai thường chạy sang thăm hỏi, nhắc nhủ, chỉ vẽ
chị Bảy nhiều điều, nhờ thế vợ chồng Tân đi làm
cũng được yên tâm.
Thấm thoát, Hòa Bình được một
năm. Ít bệnh hoạn nên bé khỏe mạnh và lớn nhanh. Mới
đầy năm mà bé đi đứng thực vững vàng. Trong ngày kỷ
niệm một năm của bé, vợ chồng Tân chỉ mời gia đình
Bạch Mai mà thôi.
Mấy hôm rồi, Tân tỏ ra rất
phấn khởi vì tin tức về hòa hội Paris. Anh nói với vợ:
- Thằng Hòa Bình ra đời được
một năm thì có dấu hiệu hòa bình cho đất nước.
Thùy Liên góp ý để tăng thêm
nỗi vui cho chồng:
- Miền Nam sắp hết đau khổ
rồi. Nghe nói Mỹ cũng tuyên bố ngưng oanh tạc miền Bắc
để tỏ thiện chí hòa giải. Thế là nhân dân miền Bắc
được chấm dứt đau khổ.
Nghe vợ nói, Tân mỉm cười,
nét mặt vô cùng rạng rỡ.
Trong bữa tiệc đầy năm của
Hòa Bình, mọi người xoay quanh đề tài hòa hội Paris.
Trái với nỗi vui mừng của Tân, thái độ của thiếu tá
Thế không có vẻ gì phấn khởi. Anh nói:
- Hai phía chỉ mới đồng ý ngồi
vào bàn để thảo luận thôi. Từ đây cho đến khi ngưng
chiến thực sự cũng còn gay go lắm. Đến khi ngưng chiến
rồi thì vấn đề tiếp theo sẽ ra sao? Tình hình sẽ hết
sức bấp bênh, còn bấp bênh hơn cả sau hiệp định
Genève năm 1954 nữa.
- Tại sao vậy?
- Tại sao à? Rất dễ hiểu.
Trước khi ký hiệp định Genève, cộng sản Việt Nam còn
yếu thế, dù mới thắng Pháp được một trận Điện
biên phủ. Lúc đó chúng chưa có một lãnh thổ an toàn.
Những vùng núi non và đồng bằng mà chúng chiếm được
thực ra chưa được ai công nhận và luôn luôn bị sự đe
dọa của quân đội Pháp và quân đội quốc gia. Bây giờ
thì chúng mạnh hơn nhiều, có cả một quốc gia được
nhiều nước công nhận, quân đội gồm đủ hải lục
không quân với đầy đủ khí giới tối tân được Liên
xô và Trung cộng chở sang một cách ồ ạt và tự do.
Chúng có nguyên miền Bắc và một phần ba lãnh thổ miền
Nam. Rõ ràng chúng đã mạnh hơn năm 1954 nhiều nên không
thể nào từ bỏ mưu đồ thôn tính toàn thể Việt Nam
được. Với mưu đồ đen tối đó của Việt cộng, chúng
ta khó có thể yên ổn được với chúng.
Tân cố bám lấy hi vọng hoà
bình của mình:
- Tôi nghe họ chủ trương hòa
giải hòa hợp dân tộc. Họ muốn ngồi lại với chúng
ta để thảo luận biện pháp đem lại hòa bình cho đất
nước.
Thiếu tá Thế mỉm cười:
- Anh còn tin được miệng lưỡi
của cộng sản hay sao? Những ý nghĩ của chúng trong đầu
và những gì nói ra nơi miệng hoàn toàn không liên quan gì
với nhau. Nếu chúng thành thực nói ra cái điều chúng
suy nghĩ thì chúng không còn là người cộng sản nữa.
- Theo anh thì người cộng sản
không có thực tâm hòa hợp hòa giải dân tộc?
- Không, trăm ngàn lần không. Đối
với cộng sản, đảng là độc tôn; đó là điều không
thể sai chạy được. Đảng nắm tất cả chân lý. Tất
cả mọi thứ không do đảng đều là sai. Chỉ có một
con đường duy nhất là theo mệnh lệnh của đảng thôi.
Như thế, anh bảo có chỗ nào để mà hòa hợp những
quan điểm khác nhau trong dân tộc?
- Nhưng tại sao họ lại chịu
đưa người đến Paris để bàn việc xúc tiến một hội
nghị hòa bình?
- Đó chỉ là một chiến thuật
trong mưu đồ thôn tính miền Nam của chúng. Cái trở ngại
to lớn mà chúng muốn phá bỏ, chính là sự hiện diện
của lính Mỹ ở miền Nam nầy. Từ vài năm nay, cả nước
Mỹ đều chán ngấy cuộc chiến tranh dai dẳng ở Việt
Nam rồi. Người ta bảo Mỹ đã sa vào vũng lầy Việt Nam
và mong muốn rút ra khỏi vũng lầy đó mà không mất mặt
quá đáng. Một hiệp định đình chiến là dịp để Mỹ
thực hiện điều mong muốn đó.
- Như vậy thì đây đâu phải là
một hòa hội?
- Thực chất không phải là hòa
hội nhưng tên đặt của nó vẫn là hội nghị hòa bình.
- Nhưng biết đâu nó sẽ kết
thúc được chiến tranh Việt Nam.
Giọng Thế trở nên chua chát một
cách bất thường:
- Anh nói nó kết thúc thế nào?
Đây là cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản và
cuộc chiến đấu tự vệ của miền Nam. Vậy thì chiến
tranh chỉ có thể kết thúc bằng một trong hai trạng
huống sau đây. Thứ nhất là cộng sản thua và buộc phải
lui về bên kia bờ Bến hải. Thứ hai là chúng ta đại
bại và cộng sản chiếm nốt miền Nam.
- Thế thì việc gì chúng ta phải
đi dự cái hội nghị láo lếu đó.
- Chúng ta không thể từ chối
được vì áp lực của dư luận thế giới. Cuộc chiến
tranh dai dẳng và ác liệt nầy đã gây xúc động cho hầu
hết các dân tộc trên hành tinh. Thế giới muốn nghe nói
cuộc chiến chấm dứt mà không cần biết đến thân phận
của người dân miền Nam sẽ thế nào sau đó. Nếu chúng
ta không dự hòa hội có nghĩa là chúng ta từ chối tham
gia thảo luận để chấm dứt chiến tranh. Và như thế
chúng ta sẽ bị cô lập về chính trị ngay lập tức. Đó
là lý do thứ nhất.
- Còn lý do thứ hai?
- Người Mỹ đã hi sinh cho chúng
ta thực nhiều, kể cả tiền bạc lẫn sinh mạng. Chúng
ta hết sức biết ơn nước Mỹ và nghiêng mình thành kính
tri ân những quân nhân Mỹ đã bỏ mình vì nền tự do
của nhân dân miền Nam Việt Nam. Đối với một đất
nước cách chúng ta nửa vòng trái đất thì sự hi sinh đó
quả thực là vô cùng to lớn. Chúng ta không có quyền đòi
hỏi họ hơn nữa. Bây giờ người Mỹ muốn dùng hòa hội
Paris để rút ra khỏi Việt Nam trong danh dự thì chúng ta
phải hết sức giúp họ hoàn thành dự định nầy.
- Và sau đó mình phải tự bảo
vệ mình?
- Đó là điều đương nhiên.
- Nếu Mỹ và Đồng minh rút đi
thì chúng ta có khả năng tự bảo vệ mình hay không?
- Không thể nào khẳng định
chuyện tương lai được. Mỹ rút đi, phía chúng ta bị
bất lợi rất lớn là bị suy giảm lực lượng một cách
trầm trọng, nhưng điều đó cũng gây một điểm bất
lợi không nhỏ cho địch.
- Bất lợi chỗ nào?
- Từ trước đến nay, Việt cộng
vẫn vu khống Mỹ đem quân vào đây là để xâm lăng Việt
Nam và chúng rêu rao tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ
cứu nước. Nay, nếu Mỹ rút đi rồi thì chúng để lộ
bộ mặt xâm lược nếu tiếp tục gây tang tóc cho miền
Nam.
- Thế thì sau khi Mỹ rút đi,
liệu họ có bỏ cuộc vì mất mục tiêu tuyên truyền hay
không?
Thế cười to:
- Cộng sản gây chiến để thôn
tính miền Nam chứ đâu phải để đánh đuổi Mỹ ra khỏi
miền Nam đâu. Không có Mỹ thì chúng sẽ tìm cách thôn
tính nhanh hơn. Chuyện đánh Mỹ để cứu nước chỉ là
một luận điệu tuyên truyền xảo quyệt mà thôi. Luận
điệu đó không dùng được nữa thì chúng sẽ bày ra
luận điệu khác còn chuyện thôn tính miền Nam thì trước
sau như một, chúng phải làm cho kỳ được, dù có Mỹ
hay không có Mỹ.
Tân tỏ vẻ khó chịu:
- Hình như anh phản đối hòa hội
Paris phải không? Cứ để cho cuộc chiến kéo dài mãi hay
sao?
Thiếu tá Thế mím môi rồi nói:
- Tôi không phản đối mà cũng
không ủng hộ. Hội nghị Paris thể hiện ý muốn của Mỹ
và dư luận thế giới mà chúng ta không thể cưỡng lại
được. Trên thực tế, nó sẽ có hiệu quả bất lợi
cho chúng ta và có lợi nhiều cho cộng sản. Tuy nhiên vấn
đề mấu chốt là sau khi Mỹ rút đi rồi chúng ta có đủ
quyết tâm để đánh đuổi cộng sản cho đến cùng hay
không?
Thế thở dài rồi nói tiếp:
- Theo tôi, cái điều đáng lo
lắng là nhân dân miền Nam đã quá mỏi mệt vì chiến
tranh trong khi cộng sản chưa có dấu hiệu gì tỏ ra bớt
hiếu chiến.
Tân cố cãi lại:
- Nhưng nhân dân miền Bắc mấy
năm rồi cũng phải chịu đựng ghê gớm lắm. Phần thì
phải đưa lính vô Nam chết rất nhiều, phần thì phải
chịu đựng bom đạn của không quân Mỹ và Việt Nam Cộng
hòa. Họ cũng phải chán ngán chiến tranh lắm chứ.
- Đúng vậy. Đồng bào mình
ngoài Bắc cũng chán ngán lắm rồi nhưng cuộc chiến vẫn
tiếp diễn vì chiến tranh không phải là ý muốn của
đồng bào miền Bắc mà là chủ trương của cộng sản;
mà cộng sản thì đâu có bao giờ chán ngán chiến tranh.
Trong cuộc chiến nầy, đồng bào cả hai miền đều là
nạn nhân của cộng sản.
Tân nói:
- Dù sao tôi cũng hi vọng hội
nghị Paris là ánh sáng ở cuối đường hầm. Mỹ dùng
hội nghị nầy để rút ra khỏi Việt Nam và biết đâu
họ cũng có cách nào đó để đem lại hòa bình thực sự
để cho sự rút lui nầy có ý nghĩa tốt đẹp hơn.
- Tôi cũng hi vọng như anh dù
biết rằng đó là hi vọng hão huyền.
- Nầy anh Thế!
Thế hơi giật mình quay vội lại:
- Gì đó anh?
- Tôi theo dõi tin tức thì thấy
có quá nhiều bất đồng về thủ tục làm cho hội nghị
bị trì hoãn, chưa biết lúc nào mới bắt đầu được.
Theo anh nói, cả Mỹ và Việt cộng đều hưởng lợi ở
hội nghị nầy, thế thì việc trì hoãn là do Việt Nam
Cộng hòa gây ra?
- Không, chúng ta không tạo khó
khăn và không cản trở gì cả. Chúng ta không bao giờ làm
việc gì để cho thế giới nghi ngờ thiện chí hòa bình
của mình. Sự khó khăn là do cộng sản gây nên.
- Tại sao vậy? Anh nói nghe có vẻ
mâu thuẫn quá.
- Vâng ,vần đề mới nghe qua thì
có vẻ mâu thuẩn nhưng thực tế là vậy đó.
- Tại sao cộng sản gây khó
khăn?
- Tôi xin giải thích vấn đề.
Cộng sản đến Paris không phải là để mưu tìm hòa bình
mà cốt dùng diễn đàn đó để đẩy cuộc xâm lăng đến
cùng. Nếu quả thực mưu tìm hòa bình thì hai bên Bắc và
Nam Việt Nam ngồi lại với nhau để bàn bạc là đủ. Ở
đây họ nằng nặc đòi cho được bốn bên.
- Vâng, tôi biết, bốn bên là
Mỹ, Bắc Việt, Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Giải
phóng.
- Đúng vậy. Thực chất đây là
cuộc xâm lăng của miền Bắc vào miền Nam nhưng cộng
sản cứ nhất mực bảo rằng đây là cuộc xâm lăng của
Mỹ, nên phải có Mỹ tham dự hội nghị. Sự có mặt
chính thức của Mỹ trong hội nghị biện minh cho sự vu
khống đó của chúng.
- Còn đòi cho được mặt trận
Giải phóng tham dự để làm gì?
- Lá bài nầy còn độc hơn nữa.
Mặt trận Giải phóng qui tụ được một số Việt gian
gốc gác miền Nam, thực chất chỉ là công cụ của cộng
sản Bắc Việt mà thôi. Bắc Việt dựng cái mặt trận
nầy để rêu rao rằng chính nhân dân miền Nam nổi dậy,
có nghĩa là miền Nam đánh với miền Nam. Chúng biết
rằng, sau hội nghị, Mỹ sẽ rút lui, lá bài “chống Mỹ
xâm lăng” mất tác dụng” nên đề cao lá bài “nhân
dân miền Nam nổi dậy”. Mặt trận Giải phóng được
tham dự hội nghị thì coi như chính thức ra mắt cái
“nhân dân miền Nam nổi dậy đó”. Chúng đã chuẩn bị
dư luận để sau khi ký hiệp định hòa bình xong thì
chúng sẽ đẩy mạnh chiến tranh.
- Thế là cái mặt trận đó được
ngồi ngang hàng với chính phủ mình.
- Đó là điều thực phi lý.
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã được rất nhiều nước
công nhận, nhiều hơn cả chính phủ cộng sản ở miền
Bắc. Mặt trận Giải phóng là một công cụ chiến tranh
của Bắc Việt lại đòi ngang hàng với chính phủ Việt
Nam Cộng hòa thì còn chi là công pháp quốc tế. Thế mà
chúng vẫn cứ nằng nặc đòi cho bằng được thành ra
công cuộc thảo luận tiền hội nghị cứ dậm chân tại
chỗ.
Tân hỏi:
- Theo anh, tình hình trong những
ngày tới thế nào?
- Theo tôi thì ở Paris, người ta
tiếp tục thảo luận về thủ tục trong ít lâu nữa rồi
hội nghị mới bắt đầu. Rồi lại cãi nhau, mắng nhau,
chửi nhau trong một vài tháng mới đi đến kết luận.
Kết luận đó thế nào thì tôi chưa đoán được nhưng
tôi nghĩ rằng trong những tháng tới, chiến trường sẽ
rất sôi động. Bao giờ cũng vậy, khi bắt đầu hội
nghị là cộng sản đánh thực mạnh để mặc cả. Trận
Điện biên phủ trong khi họp hội nghị Genève trước đây
là một thí dụ.
Tân thở dài;
- Thế là sắp có không biết bao
nhiêu người phải bỏ mạng cho sự mặc cả của họ.
- Đúng vậy.
Thiếu tá Thế bỗng đổi giọng
vui vẻ hơn:
- Thôi, chúng ta bàn về hòa hội
Paris như thế cũng nhiều lắm rồi. Hôm nay chúng tôi đến
đây để mừng Hòa Bình của anh Tân và Thùy Liên. Ước
mong không lâu nữa chúng ta cũng sẽ mừng Hòa bình của
toàn thể miền Nam.
Thế nói xong thì đứng dậy.
Bạch Mai đứng dậy theo. Hai vợ chồng dẫn hai con ra về.
Bé Hòa Bình đã ngủ say sưa từ
lâu trong tay mẹ. Nàng bế con vào phòng đặt lên giường.
Thùy Dung leo lên nằm cạnh em và vài phút sau cũng ngủ
vùi như em.
Ở phòng ngoài, chị Bảy lo dọn
dẹp bàn ăn, mang chén bát xuống bếp. Tân đến ngồi
ngoài hàng hiên, rút thuốc ra đốt, nét mặt tư lự. Thùy
Liên thay áo quần xong, ra ngồi cạnh. Nàng nắm tay chồng,
giọng nhỏ nhẹ:
- Anh Tân, em nghe anh Thế nói về
hoà hội Paris, em lo lắm.
Tân dụi tắt điếu thuốc, quay
sang vuốt tóc vợ:
- Em lo gì? Lo Việt cộng chiếm
được miền Nam nầy à?
- Không, em không lo như thế vì
việc đó khó có thể xảy ra, ít ra trong nhiều năm tới.
Mỹ rút lui nhưng chắc chắn sẽ viện trợ đầy đủ cho
chúng ta. Em nghe ở ngoại quốc người ta nhận định rằng
quân đội Việt Nam Cộng hòa là một trong những quân đội
thiện chiến nhất thế giới. Em nghĩ rằng, không có lính
Mỹ thì quân đội mình cũng đủ sức tự vệ để chống
lại cộng sản.
- Thế thì em lo điều gì?
- Em lo cho anh.
Tân ngạc nhiên:
- Em lo gì cho anh?
- Từ ít lâu nay, anh ít chú ý
đến thời sự nên em thấy anh có vẻ thảnh thơi, đi dạy
về thì vui chơi với vợ con. Tuy anh phải dạy nhiều
nhưng trạng thái tâm hồn nầy làm cho sức khỏe anh khá
hơn. Lúc nãy, khi anh Thế nói về hòa hội Paris một cách
bi quan, em thấy anh xúc động và lo sợ anh lại rơi và
một cuộc khủng hoảng tâm lý. Năm ngoái, tin tức về
trận đánh Hạ Lào làm anh mất bình tĩnh, đi lang thang
ngoài đường. Lâu lâu nhớ lại chuyện đó, em vẫn còn
lo ngại trong lòng.
Tân nắm chặt tay nàng:
- Cám ơn em lo lắng cho anh. Vì
hạnh phúc của em và của các con, anh cố gắng không để
thời cuộc làm xúc động một cách tai hại.
Tân dựa ngửa ra ghế nhìn lên
bầu trời đầy sao, tiếp tục nói như để tự nhắc nhủ
mình:
- Lịch sử nào thì cũng phải
trải qua những bước thăng trầm. Bánh xe lịch sử thì
ai cản nổi. Không cản nổi thì đành phải chấp nhận.
Thùy Liên tựa đầu vào ngực
chồng:
- Anh nói đúng đó. Phải chấp
nhận lịch sử thôi. Em mong anh giữ được bình thản đối
với cuộc chiến tranh nầy. Mỗi lần thấy anh buồn phiền
thì em lại đau lòng.
Tân cúi xuống nhìn khuôn mặt
xinh đẹp của Thùy Liên:
- Thùy Liên, em là nàng tiên của
anh.
*
* *
Sau những nhượng bộ liên tiếp
của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, hội nghị Paris cũng
được xúc tiến và kết thúc sau nhiều tháng bàn cãi
thực căng thẳng. Đầu năm 1973, cuộc đình chiến được
chính thức áp dụng theo một kiểu cách khá mơ hồ. Quân
đội hai bên ngưng tất cả mọi hoạt động và đóng
quân tại chỗ. Bên nào có quân đội tại đâu thì nơi
đó thuộc vùng kiểm soát của mình. Thế là những ngày
trước khi hiệp định có hiệu lực, xảy ra những trận
đánh dữ dội để giành vùng kiểm soát. Việt cộng xua
quân tràn qua các làng mạc ở khắp bốn vùng chiến
thuật, trong khi các đài phát thanh Hà nội và Giải phóng
cứ liên tục tố cáo Việt Nam Cộng hòa giành dân lấn
đất. Nhiều nơi, du kích và cán bộ nằm vùng, trước
đây vẫn hoạt động bí mật, nay ra mặt xí phần cho mặt
trận Giải phóng nhiều vùng đất ở ngay sát nách các đô
thị của Việt Nam Cộng hòa. Do đó chính phủ phải đối
phó bằng cách huy động một lực lượng khá lớn đi vẽ
cờ quốc gia ở cửa, ở trụ cổng , ở vách tường và
ngay cả trên mái nhà của dân chúng. Có nơi, ban ngày cờ
quốc gia được vẽ lên thì ban đêm cán bộ Việt cộng
đi xóa để vẽ lại cờ mặt trận, rồi sáng hôm sau có
người đi xóa và vẽ lại như cũ. Cứ mỗi lần như thế
thì bọn con nít chạy theo xem một cách thích thú. Có đứa
còn chỉ cho nhân viên chỗ Việt cộng vẽ cờ và phụ
giúp khiêng những thùng sơn đến đó. Cuộc chiến tranh
ác liệt bỗng chốc trở thành một trò khôi hài kỳ lạ.
Nông thôn đã im tiếng súng,
người dân bắt đầu lo làm lại nhà cửa, khai khẩn lại
miếng ruộng, miếng vườn đã bỏ hoang từ nhiều năm
nay. Vì thế, chị Bảy xin nghỉ việc để về quê quán
mình. Tân và Thùy Liên buộc phải gởi cả hai con cho nhà
giữ trẻ.
Tất cả các buổi chiều thứ
bảy, Bạch Mai đều mời cả nhà Tân sang dùng cơm tại
nhà. Trong bữa ăn, đề tài luôn luôn xoay quanh hiệp định
đình chiến. Thiếu tá Thế ở tổng tham mưu nên nhìn
thấy được tình hình một cách bao quát trên toàn lãnh
thổ.
Trong một bữa ăn, anh nói với
cả nhà:
- Người Mỹ gọi đùa cuộc đình
chiến nầy là đình chiến da beo vì vùng kiểm soát của
quốc gia và cộng sản nằm xen vào nhau như những đốm
vàng đen trên da con beo.
Tân hỏi:
- Như vậy thì đâu có ranh giới
đình chiến?
- Chẳng có ranh giới gì cả.
Trên thực tế, các đơn vị quân đội của hai bên chỉ
hiện diện ở một số địa điểm. Còn lại là những
vùng rộng lớn trên lãnh thổ bao la của miền Nam, không
có bóng dáng quân nhân thì chẳng biết thuộc về bên
nào.
- Vậy thì giải quyết vấn đề
đó ra sao?
- Chẳng có biện pháp nào để
giải quyết cả. Lợi dụng sự mập mờ đó của hiệp
định, Việt cộng mở những cuộc hành quân để chiếm
đóng, ngay sau khi hiệp định có hiệu lực.
- Phía quốc gia không biết làm
như thế sao?
- Không, dù có muốn làm như
chúng nó thì mình cũng không thể làm được vì người
Mỹ bắt buộc mình phải thi hành đúng đắn hiệp định
Paris.
- Tại sao bạn mình lại ép mình
như vậy?
Thiếu tá Thế thở dài:
- Có nhiều lý do. Như tôi đã có
nói trước đây, người Mỹ muốn dùng hiệp định Paris
để rút chân ra khỏi chiến tranh Việt Nam. Họ buộc
chúng ta phải cố nhịn để họ rút quân và nhận lấy
những tù binh từ các trại giam của Việt cộng ở cả
hai miền. Việt cộng vi phạm hiệp định thì được,
nhưng hễ miền Nam có hành động trả đũa thì lập tức
chúng nó dọa không trao trả tù binh cho Mỹ nữa. Mỹ sợ
và liên tiếp gây áp lực lên chúng ta.
- Thế thì chúng ta đành bị trói
tay vì hiệp định Paris à?
- Chớ còn gì nữa. Tuy nhiên, ở
vài nơi, một số cấp chỉ huy của quân đội mình tức
quá chịu không nổi nên đã tự động tổ chức hành
quân để chiếm lại vài vùng đã bị Việt cộng đánh
chiếm sau hiệp định Paris. Chính phủ hay bộ tổng tham
mưu không chủ trương điều đó nhưng cũng không ngăn
cản. Vì vậy từ khi hiệp định Paris có hiệu lực cho
đến nay, đã mấy tháng rồi mà chưa có ngày nào súng
hoàn toàn không nổ trên lãnh thổ chúng ta.
Bạch Mai chen vào:
- Dù sao cũng còn đỡ hơn trước
khi ký hiệp định. Em vẫn đọc báo hằng ngày và không
thấy những trận đánh lớn với nhiều người chết nữa.
Trong không gian có phảng phất mùi hương của hòa bình.
Thiếu tá Thế cười, nói với
Bạch Mai:
- Em ăn nói nghe hay thực. Với
hiệp định Paris, cuộc chiến đã lắng dịu rõ ràng,
nhưng đó chỉ là tạm thời thôi. Cộng sản đang củng
cố lực lượng và chắc chắn, sau khi Mỹ hoàn tất cuộc
rút quân khỏi miền Nam thì chúng sẽ đánh lớn. Tin tình
báo cho hay chúng bắt đầu vơ vét thanh thiếu niên ở
vùng nông thôn để bổ sung các đơn vị địa phương. Ở
miền Bắc thì Cộng sản rầm rộ chuyển quân vào hai
tỉnh Quảng bình và Quảng trị gần với vĩ tuyến Mười
bảy để chuẩn bị xâm nhập vào Nam. Trong số quân tập
trung ở phía Bắc sông Bến hải, có nhiều đơn vị công
binh. Có lẽ chúng nó sẽ mở rộng con đường mòn Hồ
chí Minh, để có thể đưa vào các binh đoàn cùng những
vũ khí nặng và tối tân như xe tăng, đại bác. Miền Nam
đang đứng trước nguy cơ hứng chịu tai họa ghê gớm mà
miền Bắc đang tích cực chuẩn bị ồ ạt đưa vào.
Bạch Mai nhìn chồng:
- Em thấy lúc nầy anh ăn nói đầy
vẻ bi quan.
Thiếu tá Thế thở dài:
- Đúng, anh thực sự bi quan,
nhưng bi quan đúng chứ không sai. Anh ở tổng tham mưu nên
thấy rõ tình hình.
Bạch Mai hỏi :
- Thế là rốt cuộc chúng ta đành
phải thua cộng sản sao?
- Không, anh không nghĩ như thế.
Nhất định chúng ta phải bảo vệ cho được chế độ
tự do của miền Nam nầy. Tự do hay là chết! Chưa bao giờ
khẩu hiệu đó đúng như lúc nầy.
Thế quay sang Tân:
- Có phải vậy không anh Tân?
Tân không trả lời, nhìn xuống
khăn bàn, mặt buồn bã. Hơn một phút sau, Anh chợt ngẩng
lên, nói một chẫm rãi:
- Anh Thế, tôi chán ngán chiến
tranh quá rồi. Chán ngán vô cùng. Nhiều khi tôi nghĩ rằng
cứ chịu cho cộng sản chiếm hết miền Nam nầy để
chấm dứt chiến tranh cho rồi. Tôi nhớ câu nói: “Chiến
tranh là điều tồi tệ nhất trong những điều tồi tệ”.
Vậy thì hòa bình với cộng sản có lẽ còn ít tồi tệ
hơn chiến tranh. Dù sao cộng sản miền Bắc cũng là người
Việt Nam, cùng một dòng máu với mình.
Thiếu tá Thế trừng mắt nhìn
Tân, cơn giận cơ hồ ắp bùng nổ nhưng khi nhìn nét mặt
buồn thảm của Tân, anh cố rán giữ vẻ thản nhiên.
Giọng anh vẫn ôn tồn, anh đúng là một sĩ quan cao cấp
của ngành chiến tranh chính trị:
- Anh Tân, tôi hiểu anh. Bẩm tính
anh hiền lành lại có nhiều năm chứng kiến cảnh chết
chóc trên chiến trường nên anh ghê sợ chiến tranh cũng
phải. Anh bảo rằng, dù sao cộng sản Bắc Việt cũng là
người Việt Nam cùng da vàng máu đỏ như mình thì đâu
đến nỗi quá tàn ác với dân miền Nam một khi mình đã
chịu thua chúng. Nhiều người ở miền Nam cũng hi vọng
như thế. Nhưng anh không còn nhớ cảnh tàn sát dân thường
vô tội ở Huế trong Tết Mậu thân hay sao? Chúng nó đã
chiếm thành phố Huế mà không gặp sức kháng cự nào
cả. Sau gần một tháng làm chủ thành phố chúng đã giết
mấy ngàn người trong tay không có một vũ khí nào cả.
Anh không nhớ, sau khi chúng bị đẩy ra khỏi thành phố
Huế thì liên tiếp nhiều tháng sau, chúng ta đã khai quật
nhiều mồ chôn tập thể ở sân trường trung học Gia
hội, ở chùa Tăng quang, Chợ Thông, Khu Lăng tẩm, ở
Thiện hàm, Đồng gi, Phú thứ, Vinh lộc, Xuân ổ và nhiếu
nhất là ở Suối Đá mài. Tôi đã gặp nhiều người dân
Huế sau Mậu thân. Họ bảo rằng thà sống trong chiến
tranh còn hơn sống hòa bình với cộng sản. Điều đó
hoàn toàn trái ngược với ý nghĩ vừa rồi của anh.
Thế ngừng nói. Mọi người im
lặng, không khí trở nên nặng nề. Bữa cơm chấm dứt.
Bạch Mai và Thùy Liên cùng đứng dậy dọn dẹp chén bát.
Thế châm nước trà, rót ra các chén nhỏ. Anh làm với
dáng điệu suy nghĩ. Đưa tách nước lên môi uống một
ngụm nhỏ rồi để xuống và nói tiếp:
- Ngành chiến tranh chính trị của
chúng tôi đã họp nhiều lần để phân tích tình hình
nên thấy rõ những khó khăn ghê gớm trước mắt chúng
ta. Việt cộng lợi dụng ngưng chiến để bổ sung và
tăng cường sức mạnh quân sự. Hiện nay, về quân số
cũng như về vũ khí, chúng ngang bằng với chúng ta. Trong
ít lâu nữa, với sự xâm nhập từ miền Bắc, chắc chắn
cán cân lực lượng sẽ nghiêng về phía chúng. Tuy nhiên
đó không phải là nguy cơ duy nhất. Nguy cơ tiếp theo là
cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu làm tiêu mòn sự kiên
trì của nhiều người trong chúng ta. Từ đó sinh ra phong
trào phản chiến. Phản chiến có nghĩa là chống lại
chiến tranh. Điều kỳ lạ là phong trào đó chỉ có ở
miền Nam mà thôi. Chúng ta có chủ trương chiến tranh đâu.
Chúng ta đang sống hòa bình thì cộng sản đem quân vào
để gây ra cuộc chiến tranh. Đúng lý ra, phong trào phản
chiến phải hoạt động ở miền Bắc để ngăn chận
hành động của bọn chủ chiến thì mới hợp lý chứ.
Tân phì cười:
- Phong trào phản chiến làm sao
mà hoạt động ở miền Bắc được. Mọi người ở
ngoài đó đâu còn có quyền nói lên tiếng nói của mình
nữa. Họ buộc phải tuân theo mệnh lệnh của đảng một
cách tuyệt đối. Đảng chủ trương chiến tranh thì dân
chỉ có một con đường duy nhất là hoan hô chiến tranh
và tình nguyện lao vào chiến trường mà thôi.
Thiếu tá Thế cười một cách
thoả mãn:
- Anh thấy rõ được vấn đề
rồi đó. Với sự cai trị của cộng sản thì người dân
không có quyền phát biểu ý kiến riêng của mình. Cho nên
phong trào phản chiến chỉ có thể hoạt động ở miền
Nam mà thôi. Điều kỳ lạ là phong trào nầy chống lại
cuộc chiến đấu tự vệ của miền Nam chứ không chống
lại cuộc chiến tranh xâm lược của miền Bắc.
- Đây có phải là phong trào do
cộng sản dựng nên không?
- Tôi không biết. Điều lạ lùng
là phong trào nầy có cả những gương mặt trí thức, có
cả các vị tu sĩ của Phật giáo và Thiên chúa giáo nữa.
Tôi không tin rằng họ là tay sai của cộng sản nhưng
chính hành động của họ làm suy yếu tinh thần chiến
đấu của quân đội miền Nam. Nếu đất nước nầy rơi
vào tay của cộng sản, thì lịch sử phải ghi tên những
người trí thức phản chiến đó vào danh sách những kẻ
có tội đối với Tổ quốc, sau danh sách những người
cộng sản.
Tân muốn tìm hiểu thêm quan điểm
của thiếu tá Thế. Anh hỏi:
- Ở miền Bắc không có hoạt
động phản chiến nhưng theo anh người dân miền Bắc ủng
hộ hay phản đối cuộc chiến tranh ở miền Nam?
- Chẳng ủng hộ mà chẳng phản
đối. Qua gần hai mươi năm được cộng sản giáo dục,
nghĩa là bị tuyên truyền, dụ dỗ cùng hăm dọa, đồng
bào mình ngoài đó đã trở thành những con người ngoan
ngoãn của đảng, nghĩa là trở thành những công cụ
không có cảm tính, hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của
đảng.
- Điều đó có nghĩa là người
miền Bắc mất tính chất con người rồi sao? Đó là một
điều khủng khiếp.
- Không mất hẳn đâu nhưng họ
biết che dấu kỹ nhân tính của mình để có thể sống
yên ổn dưới chế độ cộng sản. Khi có dịp thì nhân
tính đó liền bộc lộ ra. Tôi có thể kể cho anh nghe hai
sự việc có thực để chứng minh rằng nhân tính của họ
vẫn còn và có thể bộc lộ ra nếu thoát được vòng
kiềm tỏa của cộng sản.
Tân tỏ vẻ chú ý:
- Sự việc gì, anh kể đi.
- Sự việc thứ nhất là sau khi
hiệp định Paris có hiệu lực, cả hai bên đều có lệnh
ngưng bắn. Nhiều nơi ở Đông hà, phòng tuyến hai bên
rất gần nhau cho đến đỗi bên nầy nói chuyện to, bên
kia có thể nghe được. Sau khi ngưng bắn, binh sĩ của
chúng ta ló đầu lên giao thông hào nhìn sang bên kia thấy
mấy anh lính Bắc Việt. Binh sĩ mình vẫy tay chào. Sau một
phút ngỡ ngàng, bên kia cũng vẫy tay chào lại. Bên nầy
cười thân mật, bên kia cũng đáp lại bằng nụ cười.
Thế là hai bên bắt đầu qua lại với nhau, lính thì nói
chuyện với lính, sĩ quan nói chuyện với sĩ quan. Anh cũng
biết sĩ quan của chúng ta toàn là người có học. Họ ăn
nói, đối xử với đối phương một cách lịch sự và
trí thức làm cho bên kia rất ngạc nhiên. Một anh trung úy
còn rất trẻ bên kia đã tâm sự một cách rụt rè: “Ở
ngoài Bắc, chúng tôi được học tập rằng sĩ quan các
anh toàn là những tên khát máu, dã man còn hơn cả thú
dữ. Bây giờ thì tôi rất ngạc nhiên khi tiếp xúc với
các anh”. Và hai bên trao tặng với nhau những điếu
thuốc cùng những miếng bánh trong khẩu phần lương khô
của mỗi người. Thực là cảm động và đó là lúc mà
nhân tính của người miền Bắc trổi dậy để bộc lộ
ra ngoài. Tuy nhiên những cuộc tiếp xúc cảm động và
đầy nhân tính đó phải sớm chấm dứt. Các vị lãnh
đạo cộng sản thấy ngay rằng để cho sĩ quan của họ
nói chuyện với sĩ quan Việt Nam Cộng hòa là điều rất
tai hại cho sự tuyên truyền của họ. Đó là sự việc
thứ nhất chứng minh nhân tính của đồng bào ta ngoài
Bắc bị giấu kỹ chứ đâu có biến mất.
- Còn sự việc thứ hai?
- Đó là việc xảy ra khi trao trả
tù binh. Theo một điều khoản của hiệp định Paris, hai
bên trao trả tù binh theo từng đợt, mỗi đợt từ vài
trăm đến vài ngàn người. Thường thường những đợt
nầy xảy ra suôn sẻ dưới sự giám sát quốc tế. Tuy
nhiên có một đợt, chúng ta lên danh sách trao trả cho bên
kia đến năm ngàn người trong đó có rất nhiều lính Bắc
Việt. Rất bất ngờ, tất cả năm ngàn người đều xin
ở lại miền Nam. Vì danh sách đã trao cho bên kia và cho
cả cơ quan giám sát quốc tế nữa nên bắt buộc chúng
ta phải chở đủ các tù binh nầy đến địa điểm thỏa
thuận trước. Tại đây, tất cả tù binh đều không chịu
rời phi cơ nên đợt trao trả đó bị hủy bỏ.
Tân gật đầu:
- Việc đó báo chí trong nước
và ngoài nước đều có đăng.
- Đó, anh thấy chưa, tự trong
thâm tâm, đồng bào miền Bắc của chúng ta đâu có tán
thành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam nhưng họ không
dám nói ra, trong khi đó những người trong phong trào phản
chiến ở miền Nam lợi dụng sự tự do, to miệng la lối
làm hại tinh thần chiến đấu của quân đội mình.
Tân tỏ ra không bằng lòng:
- Theo tôi, lên án phong trào phản
chiến hiện nay là quan điểm của riêng ngành chiến tranh
chính trị của các anh và chưa hẳn là quan điểm của
mọi người.
- Tôi đồng ý điều nầy. Miền
Nam chúng ta đang lâm vào một tình trạng chia rẽ rất
trầm trọng mà phải chống lại miền Bắc là một khối
liền lạc, mọi người răm rắp tuân theo mệnh lệnh của
một nhúm người lãnh đạo đảng. Miền Nam quyết tâm
bảo vệ tự do nhưng lại có thể chết vì chính sự tự
do đó. Những người phản chiến đã lợi dụng tự do để
chia rẽ miền Nam.
Tân càng tỏ ra bất mãn:
- Anh nên biết rằng phong trào
phản chiến không phải chỉ ở miền Nam nầy thôi mà
đang phát triển rầm rộ ở cả bên nước Mỹ xa xôi
nữa.
- Biết chứ, tuy nhiên cái phản
chiến bên đó có tính chất khác và không có gì khó
hiểu. Cộng sản đang xâm lăng miền Nam chứ có xâm lăng
nước Mỹ đâu. Nếu miền Nam thất thủ thì nước Mỹ
vẫn sống trong chế độ tự do. Thế thì tại sao thanh
niên Mỹ phải qua đây tham gia chiến tranh và nhiều người
đã phải hi sinh? Đó là xuất phát điểm phong trào phản
chiến ở Mỹ. Phong trào nầy vận động sự từ bỏ
nghĩa vụ quốc tế của Mỹ đối với Việt Nam. Nếu
miền Nam nầy thất thủ thì phong trào phản chiến đó
không có tội và chỉ đáng xấu hổ mà thôi. Nước Mỹ
được cả thế giới tôn trọng như là thành trì bảo vệ
tự do cho nhân loại thì cái việc từ chối nghĩa vụ
quốc tế để cho miền Nam rơi vào tay cộng sản cũng là
một vết nhơ nơi hình ảnh của nước Mỹ đối với cái
nhìn của nhân loại.
Thiếu tá Thế ngừng nói. Tân
cũng im lặng. Anh cảm thấy hết sức chán nản. Thùy Liên
đứng dậy nói:
- Thôi khuya rồi, chúng em cám ơn
anh chị. Bây giờ chúng em xin về để cho hai cháu ngủ.
*
* *
Đúng như nhận định của thiếu
tá Thế, cộng sản lợi dụng đình chiến để đưa người
và vũ khí vào Nam. Con đường mòn Hồ chí Minh trở nên
rất rộn rịp. Quân lực Việt Nam Cộng hòa rất bực tức
vì cứ phải khoanh tay đứng nhìn. Mỹ vẫn ra sức ngăn
chận phản ứng của Việt Nam Cộng hòa để tránh sự đổ
vỡ hoàn toàn của hiệp định Paris trước khi họ rút
hết quân và nhận tất cả tù binh mà cộng sản hứa
trao trả. Trước tình hình nầy, cộng sản càng mạnh dạn
vi phạm hiệp định Paris và Việt Nam Cộng hòa không thể
bị kìm chế mãi được.
Thế là chiến tranh có cơ thực
sự bùng nổ trở lại. Mỹ vội vàng vận động các bên
ngồi trở lại với nhau và một thông cáo chung gọi là
hiệp định tái đình chiến được ký kết và công bố
cho toàn thế giới. Tuy nhiên, thông cáo nầy cũng chẳng
có hiệu lực gì và bước qua năm 1974, miền Nam đứng
trên bờ vực của một cuộc chiến tranh ác liệt. Trong
lúc hai bên liên tiếp tố cáo nhau vi phạm hiệp định
Paris thì súng nổ rền khắp bốn vùng chiến thuật.
Máy bay Mỹ không còn hoạt động
ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Không quân Việt Nam
Cộng hòa thì bị hạn chế tầm hoạt động vì đạn
dược và cơ phận thay thế không còn nhiều. Lợi dụng
điều nầy, từng đoàn xe rầm rộ chạy dọc theo đường
Trường sơn chuyển bộ đội cộng sản và vũ khí vào
Nam. Quyết tâm của những người cộng sản Bắc Việt
đánh chiếm miền Nam lộ rõ hơn bao giờ cả.
Trong suốt năm 1974, miền Bắc đã
chuyển vào Nam một số lượng khổng lồ các phương tiện
chiến tranh. Trong khi đó, Mỹ đã quay lưng lại với miền
Nam và Việt Nam Cộng hòa cứ bị vướng víu trong những
điều khoản của hiệp định Paris vì cứ muốn giữ tư
cách và chứng minh sự lương thiện của mình cho dư luận
thế giới. Vì vậy, cán cân lực lượng quân sự nghiêng
hẳn về phía cộng sản và nỗi lo ngại miền Nam bại
trận càng ngày càng lớn.
*
* *