Một cuộc chiến tranh dài
Tập I
Chương 2: Miền Nam
(1)
Mỹ tho là một thành phố có ít xe cộ, không rộn ràng như thành phố Sài gòn mà hai anh em vừa trải qua gần một ngày đêm sau khi tàu cặp bến. Nhà của cậu Danh nằm trên một con đường rợp bóng mát. Đứng trên tầng lầu của ngôi biệt thự, thằng Vinh có thể nhìn thấy thấp thoáng mặt nước sông Cửu long. Bờ bên nầy xôn xao ghe tàu, bờ bên kia thì có vẻ hoang vu. Một hôm, cậu Danh chỉ về phía bên đó và bảo rằng đó không phải là bờ sông mà chỉ là một cù lao; phải vượt qua vài cù lao mới qua hết mặt sông. Nó nghe và lấy làm lạ. Biết bao nhiêu thứ khác cũng đều lạ lùng đối với nó.
Cái cảm giác choáng ngợp vẫn
đeo theo nó trong nhiều tuần lễ làm cho nó muốn thu mình
lại càng nhỏ càng tốt. Đôi khi nó cảm thấy luyến
tiếc mái nhà tranh nghèo nàn trong ngôi làng tuổi thơ của
nó. Nhiều đêm khi mọi người ngủ yên, nó thao thức và
âm thầm khóc trong bóng tối.
Nó cũng đủ tuổi để hiểu
rằng ngôi làng tuổi thơ đó, từ nay cho đến mãi mãi
chỉ còn là kỷ niệm mà thôi. Bây giờ, nó phải tập để
quen dần với cuộc sống ở đây, với gia đình cậu Danh.
Cậu Danh là một người hiền
lành, giọng nói nhỏ nhẹ và thân mật, gây cho nó nhiều
cảm tình ngay trong những ngày đầu tiên mới gặp. Mợ
Danh là một người đàn bà đẹp và sang trọng, tuy nhiên
cái nhìn của bà đối với anh em nó không có cái nét dịu
dàng và âu yếm như cái nhìn của mẹ nó xưa kia. Cậu mợ
Danh có tất cả ba người con; người con trai đầu, lớn
tuổi hơn nó đang học ở Sài gòn; một bé gái xinh đẹp
mà cậu bảo nó gọi là chị Hiền, dù bé chỉ bằng tuổi
em Tân của nó mà thôi; sau cùng là một “bà chị” tên
Hạnh còn nằm khóc oe oe trong nôi.
Trong nhà có hai người giúp việc.
Bác Tư Thọ độ bốn mươi tuổi, người ra mở cổng cho
cậu cháu nó ra vào, giữ việc canh gác, săn sóc nhà cửa,
vườn hoa và có khi phụ giúp việc bếp núc với mợ
Danh. Chị Hương, một người đàn bà còn trẻ, lo việc
giặt giũ và chăm sóc bé Hạnh.
Ngay buổi chiều mới đến, hai
đứa đã được chị Hương dẫn đi chỉ chỗ tắm rửa,
được mặc áo quần mới toanh còn thơm mùi hồ và được
dẫn vào một phòng nhỏ ở dãy nhà ngang thâm thấp phía
sau. Trong phòng, có một chiếc giường, một bàn nhỏ và
vài chiếc ghế ngồi. Đó là chỗ ở của anh em nó. Nó
thích gian phòng nầy vì ở sát bên phòng bác Tư Thọ và
cách ngôi nhà lớn một khoảng sân hẹp.
Chiếc giường trong phòng được
trải một chiếc chiếu mới có nhiều màu thực đẹp làm
nó nhớ đến chiếc chiếu rách trên giường mẹ nó mà
nó định mang theo hôm bị lính dẫn về đồn. Nó ngồi
xuống giường và cảm thấy vững vàng chắc chắn, khác
với chiếc giường tre ọp ẹp ở nhà quê, lúc nào cũng
lung lay như sắp sụm mỗi khi có ai nằm trên đó và trở
mình.
Thấy chiếc giường đẹp, thằng
Tân phóng lên nằm sải tay một cách khoan khoái, nụ cười
rạng rỡ trên cả môi lẫn mắt. Đang nằm, nó chợt vùng
dậy bò khắp giường, đến chỗ thằng Vinh, ôm cổ vật
xuống và ngồi đè lên bụng anh. Niềm vui thơ ngây của
em làm Vinh vui theo.
Có bóng người xuất hiện nơi
cửa. Hai đứa vội vùng dậy. Mợ Danh bước vào, mỉm
cười:
- Hai con ở trong phòng nầy, có
bằng lòng không?
Vinh đáp lại với giọng thực
lễ phép:
- Thưa mợ, chúng con được ở
đây thì tốt lắm rồi.
Bà Danh tỏ vẻ hài lòng, nhắc
lại:
- Phòng nầy của hai con, kế bên
là phòng của bác Tư Thọ. Nhà vệ sinh sát bên nầy. Hai
con ngủ trên giường và học trên bàn nầy.
Thằng Vinh thoáng sửng sốt vì
câu nói cuối cùng của bà. Hai anh em nó lại được đi
học? Chuyện học xa lắc xa lơ, nay lại trở về với
chúng nó hay sao?
Nó chợt nhớ tới ngôi trường
xa xưa của nó, trong đó, suốt bao năm liền nó học giỏi
làm cho bạn bè thán phục và thầy cô khen ngợi hết lời.
Gần xong bậc tiểu học, cha mẹ nó đang tính tìm nơi gởi
nó vào Huế tiếp tục bậc trung học thì nổ ra cuộc
cách mạng Mùa Thu. Dưới chính thể Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, việc học được tổ chức lại nhưng ngôi
trường thân yêu của nó không còn nữa, vì trước đó
một quả bom của Đồng minh đã rơi trúng và phá hủy
tan tành. Người ta phải mở các lớp học trong ngôi đình
làng nằm trên bờ sông Ô lâu. Nó vừa kết thúc bậc
tiểu học thì quân Pháp tràn đến. Toàn vùng quê của nó
lao vào cuộc kháng chiến toàn quốc, không còn ai nghĩ đến
việc học cho con trẻ nữa. Cái học xa dần và tắt lịm
trong nỗi luyến tiếc không nguôi của nó. Ngay cả lúc
theo cậu Danh xuống tàu vào Nam, nó cũng chỉ nghĩ rằng
được cậu lôi ra khỏi vùng quê đang bị chiến tranh vò
nát, đang bị cái đói đe dọa hằng ngày và sự sống sự
chết chỉ cách nhau trong gang tấc. Nó chưa hề nghĩ đến
chuyện vào miền Nam để được học hành, đúng với nỗi
luyến tiếc của nó.
Nó nhìn mợ Danh với cặp mắt
cảm xúc và biết ơn, giọng run run:
- Cậu mợ cho anh em con đi học
lại hay sao?
Mợ cười to:
- Chứ sao nữa? Hai con vào đây
là cốt nối tiếp lại chuyẹn học đã dở dang ngoài đó.
Con không thích đi học mà thích đi làm phải không? Còn
nhỏ lắm, chưa đi làm được đâu. Phải học thêm vài
năm nữa.
Nó chưa kịp cải chính sự hiểu
lầm của mợ thì bà đã quay lui ra khỏi phòng. Một lúc
sau, chị Hương đến gọi hai anh em lên nhà dùng cơm tối
với gia đình.
Trên chiếc bàn bầu dục đặt
giữa phòng, bữa cơm sang trọng đã được dọn ra. Hai
đứa rón rén ngồi vào hai chiếc ghế; đối diện là mợ
Danh và chị Hiền bé tí của nó. Con bé ngồi khép nép
bên mẹ, thỉnh thoảng len lén nhìn hai đứa con trai vừa
ở quê mới vào. Trong bữa cơm, mợ Danh trở lại chuyện
học của anh em nó. Cậu Danh ngồi ở đầu bàn chăm chú
nghe và cuối cùng nói một cách chậm rãi:
- Thế là hai cháu bị mất đi
hơn một năm học. Không sao, thời buổi chiến tranh này,
học trễ là chuyện bình thường. Ngày mai, cậu sẽ gọi
điện qua bên ty giáo dục để hỏi chỗ học. Phần hai
cháu phải cố gắng thực nhiều để bù lại thời gian
bỏ học vì chiến tranh. Hai cháu nghe chưa?
- Dạ nghe.
Thằng Vinh đáp lời cậu với
lòng hân hoan khôn tả. Mợ Danh tiếp lời chồng:
- Phải đó hai con ạ. Nên tiếp
tục học hành, đừng có ý nghĩ đi làm sớm. Học tới
nơi tới chốn rồi đi làm thì sung sướng hơn, lại được
người đời kính nể. Trong xã hội nầy, ai học nhiều
thì có địa vị cao. Như cậu con đó. Học tới nơi tới
chốn rồi đi làm, tới ông tỉnh trưởng người Pháp
cũng phải nể nang và tín nhiệm hơn mọi người khác
trong tòa tỉnh. Cả ông thủ hiến về đây làm việc cũng
thích cậu và có đến nhà mình chơi. Tụi Việt minh nghe
đến tên cậu thì khiếp vía.
Mợ chấm dứt câu nói bằng
tiếng cười đầy hãnh diện.
Đang hân hoan vì sắp được đi
học, câu nói và tiếng cười của mợ làm cho cổ nó
nghẹn lại, trong tai như vo vo lặp đi lặp lại mấy từ
mà trước đây nó thường nghe dân làng nhắc đến: Việt
gian, Việt gian, Việt gian. Nó cố nén tiếng thở dài, ăn
vội cho hết chén cơm và gác đũa.
Vài hôm sau, hai đứa cắp sách
đến trường. Nhà trường là một tư thục không to lắm
nhưng gồm cả hai bậc trung và tiểu học. Cậu Danh bảo
rằng đã liên lạc với ty giáo dục và người ta đã
giới thiệu trường nầy. Ở đây, nếu học sinh thông
minh và chăm học thì có thể học dồn lớp, nghĩa là học
liên tiếp hai lớp trong một năm. Nhờ thế, có thể rút
lại thời gian bỏ học vì chiến tranh. Nghe cậu nói, Vinh
mừng rỡ vô cùng.
Hai anh em học buổi sáng tại
trường. Buổi chiều, một mình nó đi học thêm môn Pháp
văn tại nhà ông thầy giáo đang dạy ở lớp nó. Nó muốn
đáp lại lòng mong muốn của cậu Danh là học cho nhiều
để bù lại thời gian đã bỏ phí.
Cuộc sống của hai anh em khá êm
ả, chỉ có việc chăm chú học hành, mọi việc khác đều
được cậu mợ Danh lo cho một cách chu đáo. Đến trường,
nó cũng cảm thấy thực dễ chịu. Trong phòng học, nó
được sắp ngồi ở cuối lớp với những đứa lớn xác
như nó. Lúc đầu, nó học kém lắm, gần như không làm
được bài nào. Nó lo lắng và đau khổ nhưng không nản
chí. Việc học làm cho nó vui thích, đó là tính bẩm sinh
của nó. Dần dần, nó khá lên rõ rệt, làm cho thầy cô
cũng phải chú ý.
Trong trường, ai cũng biết nó
sống trong một ngôi biệt thự nguy nga và chưa bao giờ bị
nhà trường nhắc nhở đóng học phí hằng tháng như phần
đông bạn cùng lớp của nó. Chính vì thế, mọi người
nhìn nó như con nhà giàu có. Nó biết điều đó và cũng
chưa bao giờ xác nhận hay phủ nhận. Riêng đối với
chính mình, nó không bao giờ tự xem là thuộc giai tầng
trên của xã hội. Hằng ngày, nó ra vào ngang qua cái cổng
đồ sộ của ngôi biệt thự nguy nga nhưng chỗ ở thực
sự của nó chỉ là căn phòng nhỏ bé của dãy nhà thấp
lè tè dành cho bồi bếp. Có một khoảng cách rõ rệt
giữa căn phòng khiêm nhường của nó với cái nhà sang
trọng kia. Khoảng cách đó không chỉ là một mảnh sân
hẹp mà là một cái gì đó to hơn, vô hình nhưng rất
vững chắc. Nó không bao giờ tự tiện đặt chân lên bậc
thềm sạch bóng của ngôi nhà, ngoại trừ những lần nó
được mợ Danh hay chị Hương gọi lên sai bảo một việc
gì.
Vì thế, trong một thời gian dài,
ngôi nhà vẫn giữ vẻ xa lạ đối với nó và những
người sống trong đó cũng không hoàn toàn thân thiết như
người ruột thịt. Nó biết rằng cậu Danh không phải là
anh ruột của mẹ nó mà chỉ là anh họ mà thôi, nghĩa là
đối với anh em nó, mối liên hệ về huyết thống chẳng
được bao lăm. Tuy nhiên cậu là người rất tốt nhưng
không có nhiều dịp gần gũi nó. Ngày hai buổi, cậu đi
về không đúng với giờ giấc. Nó biết điều đó nhờ
nghe tiếng máy xe quen thuộc dừng lại ngoài cổng và
tiếng bánh xe lăn lạo xạo trên con đường rải sỏi
ngang qua phòng nó ở. Có hôm, mãi đến khuya, khi nó học
xong, tắt đèn đi ngủ thì mới có tiếng xe về. Đó là
những lúc chiến cuộc dậy lên ở đâu đó quanh cái
thành phố an lành giả tạo nầy. Nó biết cậu là người
quan trọng và có thế lực vì ở thành phố nầy, giờ
giới nghiêm từ mười giờ tối mà cậu nó cứ thường
đi về lúc nửa đêm.
Đôi khi, nghe tiếng súng xa xa,
tiếp theo là tiếng xe cậu về khuya, nó bỗng chợt nhớ
đến mối thù hận xa xưa, bây giờ rất mờ nhạt nhưng
chưa tắt hẳn. Nó nghe đau nhói trong lòng. Nó vội xua ý
nghĩ căm hờn ra khỏi hình dáng của cậu. Nó hiểu rõ
rằng cậu là người thân duy nhất còn sót lại trong cuộc
đời của anh em nó, nó hiểu tình thương và công ơn to
lớn của cậu. Nó cũng cảm thấy thương yêu cậu lắm
nhưng có một cái gì đó ngăn cản không cho nó gần gũi
thân thiết với cậu.
Mợ thì càng xa cách hơn nữa.
Nơi người đàn bà đẹp đẽ và sang trọng đó, nó không
tìm thấy một nét nào của mẹ nó xưa kia. Nó không thể
nào quên được nét mặt đầy hãnh diện của mợ khi ca
ngợi công việc của cậu nó hiện nay. Chắc chắn, đó
là công việc rất đáng bị nguyền rủa vì phục vụ cho
thực dân Pháp để chống lại cách mạng. Cái ấn tượng
đầu tiên xấu xa đó in đậm nét trong lòng nó. Đôi khi,
nó cũng áy náy và tự trách mình khi thấy mợ lo lắng
nhiều cho đời sống anh em nó. Có lần, nó muốn làm thân
với mợ với một hi vọng mong manh là tìm được một
chút hơi hướng của người mẹ đã nằm lại nơi miền
quê quá xa xôi. Tuy nhiên nó không đủ can đảm làm việc
đó vì cái ấn tượng đầu tiên trong lòng nó.
Thằng Tân, em nó, thì đơn sơ
hơn nhiều. Nét mặt thằng bé gần như luôn luôn vui tươi
rạng rỡ. Tân nhanh chóng thân mật với con bé “chị
Hiền” của nó. Hai đứa cùng tuổi, tính tình đều hiền
lành và thơ ngây nên dễ thân nhau. Ngồi trong phòng, nhìn
hai đứa bé đùa giỡn bên những luống hoa sặc sỡ, với
tiếng cười trong như nước suối, Vinh thấy rộn lên
trong lòng một niềm vui sướng và xúc động lạ thường.
Cậu là người thù của cách mạng nhưng lại là người
ơn vô cùng to lớn của anh em nó. Nó cần phải giữ gìn
không bao giờ được để lộ ra mặt lòng căm thù của
nó để cho em nó tiếp tục được hưởng cuộc sống
sung sướng và để cho nó không phải là đứa cháu vô ơn
của cậu.
Tính tình thằng Tân thực dễ
mến, cả nhà đều tỏ ra thương yêu, kể cả người con
trai lớn của cậu mợ đang trọ học ở Sài gòn. Mỗi
tuần anh con trai về thăm nhà một lần. Cứ đến chiều
thứ bảy, thằng Tân và bé Hiền ra trước cổng để đón
và cùng reo lên khi anh xuất hiện ở ngã tư đường. Anh
thường mang quà về, khi thì gói bánh, khi thì hộp kẹo.
Hai đứa bé mang quà ra ngồi trên ghế đá để chia với
nhau.
Một hôm, hai anh em đi học về.
Vinh vói tay bấm chuông; một phút sau cánh cửa hé mở.
Bác Tư Thọ tươi cười đứng sang một bên cho hai đứa
bước vào. Giọng bác thân mật:
- Trưa nắng chang chang mà hai cháu
chẳng có nón mũ gì cả. Cô mà thấy thì chắc chắn la
rầy đó.
Thằng Vinh chống chế:
- Sáng đi vội quá, cháu quên
mang theo. Mấy hôm trước, anh em cháu đều có đội mũ cả
mà.
Hai đứa tiếp tục đi vào thì
bác Tư gọi giật lại:
- Nầy, hai cháu đi cất sách, rửa
mặt rồi vào ăn cơm với bác trong phòng của bác. Từ
trưa nay trở đi, ba bác cháu mình ăn cơm với nhau. Cô bảo
rằng dạo nầy thầy lắm việc đi về thất thường, cơm
nước trễ nãi nguội lạnh. Cô và bé Hiền chờ đợi
được, còn hai cháu phải ăn đúng bữa để còn học
hành nữa.
Nói xong, bác nhìn chăm chăm vào
mặt thằng anh như để dò phản ứng và bác hài lòng khi
thấy nó cười có vẻ vui thích. Mà quả thực nó vui
thích được dùng cơm với bác nơi cái bàn nho nhỏ trong
phòng đơn sơ dành cho bác. Ở đấy, nó sẽ được tự
nhiên và thoải mái, không phải dè dặt, giữ gìn khuôn
phép như khi ngồi chung trong phòng ăn lộng lẫy với cậu
mợ nó.
Vài hôm sau, thằng Tân rủ cả
bé Hiền xuống ăn chung. Bốn bác cháu vừa ăn vừa đùa
giỡn, chuyện trò vui vẻ.
Một hôm, trong bữa ăn chiều,
nó hỏi bác:
- Bác Tư, bác làm việc ở đây
lâu chưa?
- Hơn một năm rồi.
- Nhà bác ở đâu, sao không thấy
về thăm nhà?
- Quê bác ở Bến tre. Bây giờ
không còn nhà cửa, không còn ai thân thiết nữa cả.
Thằng Tân ngạc nhiên, buông đũa
nhìn bác:
- Bác không có vợ hả? Đàn ông
lớn rồi phải có vợ chứ.
Bác vò đầu thằng bé và cười
ngất:
- Phải rồi, đàn ông phải có
vợ. Khi nào cháu lớn lên cũng phải có vợ, đúng không
nào?
- Vậy vợ bác đâu rồi?
- Chết rồi, bị pháo kích mà
chết. Không biết đạn của bên nào. Bác không có con,
hai vợ chồng sống với nhau, làm ruộng mà ăn. Bả chết
rồi, bác buồn quá nên đốt nhà rồi bỏ đi.
- Rồi bác vào đại đây ở mà
làm việc phải không?
Bác lại cười ngất:
- Vào đại sao được. Ai dám
nhận người lạ vào nhà. Em của bác làm chung với thầy
ở tòa tỉnh giới thiệu bác đến đây. Cũng may cho bác
được giúp việc cho người tử tế.
Hai anh em càng ngày càng gần gũi
thân mật với bác hơn. Thằng Vinh mến bác vì, cũng như
nó, bác từ nhà quê đầy khói lửa ra đây, bỏ lại sau
lưng một quê hương với nhiều kỷ niệm đau thương và
với thân xác của người thân yêu nhất đời.
Một buổi chiều, bác sang phòng
nó ngồi chơi và hỏi nó:
- Bác nghe nói quê cháu tận ngoài
Trung xa lắm phải không?
- Dạ tận ngoài tỉnh Quảng trị.
- Có xa hơn Huế không?
- Dạ, xa hơn độ bốn mươi cây
số.
Bác ầm ừ rồi hỏi tiếp:
- Ba má cháu chết cả rồi phải
không?
- Dạ mới chết cách đây vài
tháng.
- Tại sao chết vậy?
- Mẹ cháu bị bệnh.
- Còn ba cháu?
Nó im lặng không trả lời. Bác
cũng im lặng nhìn ra sân theo dõi thằng Tân và bé Hiền
chơi đùa. Thằng Vinh thấy bác ngồi yên thì nghĩ rằng
bác đang chờ đợi câu trả lời của nó. Nó mím môi nói
nhỏ:
- Cha cháu bị Tây bắn chết.
Bác trầm giọng hỏi tiếp:
- Sao vậy? Ba cháu theo cách mạng,
phải không?
Nó lại im lặng. Nó không quen
nói dối nhưng cảm thấy cái sự thực của đời nó, nói
bao nhiêu đó cũng đã quá giới hạn cho phép trong ngôi
nhà nầy. Vì vậy, nó lắc đầu và cúi nhìn xuống đất
một cách buồn rầu. Bao nhiêu kỷ niệm đau thương vụt
trở về. Nó đáp lời bác, giọng lí nhí:
- Cháu không biết.
Bác Tư đứng dậy vỗ vai nó:
- Thôi cháu đừng buồn nữa. Đời
nầy có nhiều người khổ lắm chứ không riêng gì bác
cháu mình. Cháu đi học bài đi.
Bác bước ra cửa. Nó đến bàn
lật tập ra học bài cho ngày mai.
Tuy nhiên nó không thể tập trung
trí óc vào những trang đầy chữ được. Hình ảnh quá
khứ gợi ra từ câu chuyện với bác Tư vừa rồi vẫn
còn đọng lại trong đầu nó. Nó thèm kể lại mọi việc
cho bác Tư nghe để bác chia sẻ nỗi buồn đau của nó.
Mặc dầu vậy, nó cần phải giữ
kín quá khứ của nó một khi nó còn sống trong ngôi nhà
nầy. Nhưng, cái ý định giữ kín đó càng ngày càng nhạt
đi khi tình thân mật giữa nó và bác Tư tăng dần. Cho
đến một hôm, nó quyết định kể hết mọi việc đã
xảy ra ở quê nhà cho bác Tư nghe. Nó kể tỉ mỉ cái
chết của cha mẹ nó, nỗi căm hờn của nó đối với
bọn người đã làm cho anh em nó trở thành hai đứa trẻ
mồ côi và sau cùng ý định vào chiến khu để rửa hờn
nhưng không thành.
Bác Tư chăm chú ngồi nghe. Khi nó
nói xong, bác nắm lấy bàn tay nó bóp nhẹ trong tay bác.
Giọng của bác thực thắm thiết:
- Tội nghiệp cháu, bác hiểu nỗi
buồn của cháu. Thôi cháu hãy tự phấn đấu và cố gắng
vui vẻ lên. Đừng để nỗi buồn gặm mòn tuổi trẻ của
mình.
Vinh hơi ngạc nhiên vì câu an ủi
của bác có vẻ văn hoa chứ không phải lời nói chất
phác của một nông dân ít học. Nó cảm thấy nỗi buồn
đau của nó cũng vơi bớt phần nào vì đã có người để
trút bầu tâm sự u uất của nó tự bấy lâu nay. Nó cảm
thấy nhẹ nhàng và thích thú hơn với việc học hàng
ngày.
Năm học kết thúc. Cả hai anh em
đều được lên lớp dù mới chỉ vào học vài tháng
cuối cùng của niên khóa. Lớp học kế tiếp bắt đầu
ngay vì trường tư dạy luôn trong lúc trường công nghỉ
hè.
Một buổi chiều, trên con đường
về nhà, nó chợt thấy một người đàn ông đi phía
trước đánh rơi chiếc ví xuống vệ đường. Nó vội
chạy đến nhặt lấy và đuổi theo để trả lại. Người
đàn ông dừng lại khi nghe tiếng gọi của nó. Đó là
một thanh niên còn trẻ, ăn mặc lịch sự. Anh nhìn nó và
cám ơn rối rít. Anh nắm tay nó và hai người cùng tiếp
tục đi trên vệ đường. Anh thân mật chuyện trò với
nó, hỏi thăm nó về việc học hành và, may thay, không
hỏi nó về gia đình và chỗ ở, điều mà nó không muốn
nói thật với người mới quen biết. Cuối cùng, người
thanh niên bảo nó:
- Em tốt lắm. Anh muốn làm bạn
với em, em bằng lòng không?
Nó nhìn anh ngạc nhiên. Anh đã
là người lớn, còn nó là một đứa trẻ đang cắp sách
đến trường. Hiểu ý nó, anh mỉm cười nói tiếp:
- Anh đã đi làm và sống độc
thân, chưa có vợ con chi cả. Em cứ làm bạn với anh đi.
Bạn bè thì không cần phân biệt tuổi tác. Em đi theo anh
một đoạn đường nữa, anh chỉ nhà cho em. Khi nào rảnh
rỗi, em cứ lại chơi. Anh rất mến em. Anh sẽ rất vui
nếu em đến nhà chơi với anh. Anh tên là Loan. Còn em tên
là…
- Dạ em là Vinh.
Anh Loan vẫn cầm tay nó và dẫn
nó qua một ngõ khác đến một con đường nhỏ. Anh chỉ
một dãy nhà phố tầm thường gồm nhiều căn bên kia
đường và nói:
- Nhà anh kia kìa, số mười tám.
Nhà có cái cửa sơn màu xanh nhạt, khác với những nhà
hai bên. Em nhớ chưa?
- Dạ nhớ.
- Thế thì lần sau em đến chơi
với anh tại nhà nầy. Ừ, ừ, tuần sau nhé, cũng vào giờ
nầy. Hôm nay là thứ tư. Hẹn thứ tư tuần sau. Nhớ nhé.
Anh buông tay nó ra, mỉm cười
tiếp tục nói:
- Thôi em về đi kẻo cậu mợ
mong.
Nó thoáng sửng sốt, không hiểu
tại sao anh Loan lại biết nó sống với cậu mợ mà không
sống với mẹ cha? Nó chưa kịp hỏi thì anh đã vẫy tay
chào và băng qua đường. Nó quay lui, bước về nhà, lòng
cảm thấy vui vui.
Suốt tuần lễ sau đó, nó thường
nghĩ đến anh Loan, một người đàn ông có gương mặt
hiền lành, cởi mở và dễ mến. Nó muốn làm bạn như
anh đã đề nghị. Tuy nhiên, nó vẫn thắc mắc về anh.
Tại sao anh biết nó sống với cậu mợ? Tại sao anh muốn
làm bạn với nó ngay lần đầu tiên mới tình cờ gặp
nhau? Thôi cứ để những điều thắc mắc lại đó, tuần
sau đến chơi với anh có nhiều thì giờ sẽ hỏi anh sau.
Nó vào Nam sống với cậu mợ
được hơn nửa năm rồi. Trong thời gian nầy nó được
sống yên ổn, được ăn ngon mặc đẹp, được cắp sách
đến trường. Tuy nhiên nó không thấy hoàn toàn vui thích
với nếp sống sung sướng đó. Nó có mặc cảm sống bám
vào người khác.
Ngược lại, thằng Tân, em nó,
hoàn toàn sống hồn nhiên với tuổi thơ ngây. Nhìn em
chơi đùa thích thú với chị bé Hiền, nó vui sướng và
hài lòng nhưng đồng thời cảm thấy một khoảng cách
thầm kín cứ tăng dần trong tâm hồn của nó và đứa
em. Trong quá khứ, hai anh em chưa bao giờ rời xa nhau. Khi
tang tóc đổ ập xuống gia đình, tâm hồn cả hai đứa
đều chìm đắm trong nỗi đau thương cùng cực.
Khi cuộc sống được ổn định
trong ngôi nhà ấm cúng nầy, em nó đẩy dần cái tâm sự
đau thương về phía nó để lấy lại cái bản năng hồn
nhiên của tuổi thơ. Nó mừng cho em nó nhưng lại thấm
thía nỗi buồn cô đơn.
Tình thương em vẫn còn đầy ắp
trong lòng nó. Ngày ngày, nắm bàn tay em dắt đến trường,
đêm đêm nằm sát bên em để nghe hơi thở đều đều,
nó cảm nhận ra rằng không thể nào sống được nếu
không có em nó sống cùng. Tuy nhiên, đó chỉ mới là cuộc
sống thường nhật. Phía sau cuộc sống hằng ngày đó
còn một cuộc sống khác của riêng nó, một cuộc sống
nội tâm đầy u uất xuất phát từ cái chết của cả
cha lẫn mẹ. Với em, nó không muốn nhắc đến cái quá
khứ đau thương để em giữ được sự hồn nhiên vừa
mới có trở lại. Với bác Tư Thọ, nó đã thố lộ một
lần và không muốn tâm sự tiếp nữa một khi hai anh em
còn sống trong gia đình của cậu mợ. Nó mong muốn có
một người bạn thân sống ngoài cái nhà nầy. Trong số
bạn học cùng lớp, nó không chọn được người nào.
Hầu hết đều nhỏ tuổi, tất cả chỉ biết học hành
và vui đùa theo lối trẻ con. Cuối cùng nó nghĩ đến anh
Loan….
Một tuần trôi qua nhanh chóng,
chiều thứ tư lại đến. Nó ra khỏi lớp học ở nhà
thầy, bước nhanh trên con đường có ánh nắng nghiêng
nghiêng rọi bóng hàng cây cao xuống mặt lộ.
Nhà số mười tám có cánh cửa
màu xanh nhạt đây rồi. Anh Loan có vẻ đang chờ đợi.
Anh thân mật nắm tay đưa nó vào nhà.
Nhà là một căn phố nhỏ đơn
sơ, chỉ có một phòng duy nhất không có vách ngăn làm
cho mọi người khi bước vào thì biết ngay là chỗ ở
của một người độc thân. Cuối căn nhà, sát với tấm
vách lửng là một giường chiếc lẻ loi, kế bên là một
tủ nhỏ cũ kỹ, rồi một kệ sách với vài ba quyển
thưa thớt. Sát với cửa sổ phía trước, một cái bàn
được đặt giữa bốn chiếc ghế đẩu loại rẻ tiền.
Trên bàn, có một đĩa bánh nhiều thứ, một bình trà và
hai cái ly nhỏ.
Vinh nhìn và biết tất cả những
thứ trên bàn là chuẩn bị để đón nó. Nó ngồi xuống
ghế một cách sượng sùng vì đây là lần đầu tiên nó
đến một nhà lạ với tư cách là một khách mời. Cho
đến bây giờ, nó luôn đi đứng theo lệnh của người
lớn hoặc lủi thủi chạy theo sau người khác như một
con chó con. Bây giờ nó là khách mời thực sự, được
đón tiếp có chuẩn bị, dù sự chuẩn bị nầy đơn sơ
chứ không sang trọng và linh đình như những bữa tiệc
đãi khách mà nó đã trông thấy ở nhà cậu mợ Danh của
nó.
Anh Loan là người bặt thiệp,
giọng nói nhẹ nhàng và có duyên nên dễ dàng lôi cuốn
người đối diện. Anh kể cho nó nghe nhiều chuyện lý
thú trong thành phố, những chuyện vui vui xảy ra trong cái
văn phòng của một hãng tư nhân mà anh làm thư ký. Anh
hỏi nó về việc học, về hoàn cảnh sống xưa kia trong
làng quê hẻo lánh. Nó vui vẻ nhập cuộc và kết thúc
buổi nói chuyện một cách hân hoan.
Nó ra về và hẹn gặp lại vào
tuần sau.
Hôm nay lại là thứ tư. Từ lúc
mới ngủ dậy, nó đã nghĩ đến cuộc hẹn với anh Loan.
Buổi sáng, vì lý do nào đó, chị Hương dọn thức điểm
tâm ra hơi trễ hơn thường ngày. Ăn xong, hai anh em vội
vã dắt tay nhau đến trường.
Trường cách nhà khoảng hơn hai
cây số, đi ngang qua một hồ nước rộng, nơi đó suốt
ngày có người đến gánh nước về nhà. Từ hồ nước,
có thể đến trường gần hơn nếu chịu khó đi trên một
khúc đường lầy lội, hai bên đầy rác hôi thối, băng
qua một xóm lao động, gồm những dãy nhà nghèo nàn chật
chội, lúc nào cũng có tiếng la ó của trẻ con và tiếng
chửi rủa của người lớn. Vì vậy, thỉnh thoảng hai
anh em mới đi con đường nầy.
Hôm nay, đang giữa mùa mưa mà
trời lại nắng ráo mấy hôm liền. Vinh quyết định dẫn
em đi đường hồ nước, qua xóm lao động cho gần, để
kịp giờ vào lớp.
Đường đi có vẻ là lạ. Mọi
lần, giờ nầy, người ta lũ lượt kéo ra khỏi xóm để
đến nơi làm việc, thế mà bây giờ đường vắng ngắt.
Mặc kệ, hai anh em cứ việc tiến tới vì nếu trở lui
đi đường cũ thì trễ mất giờ học.
Qua một khúc quanh, chúng khựng
lại. Một người lính đứng chận ngay đầu ngõ, phía
sau lố nhố một bầy con nít đứng quay lưng lại về
phía nó. Thằng Vinh biết rằng mấy đứa trẻ đang nhìn
vào khoảng đất trống bị mấy gian nhà lá cùng cây cối
chung quanh che khuất. Trên khoảng đất trống nầy, nó
thường thấy bọn trẻ trong xóm hay thả diều và đá
banh vào mùa khô, còn mùa mưa thì cỏ mọc um tùm ít ai
vào trong đó.
Thằng Tân giựt mạnh tay anh nó:
- Anh Vinh, có cái gì trong đó
kìa, vô coi mau lên.
Chưa dứt câu nói, Tân vụt chạy
tới. Người lính quay lại quát to:
- Hai thằng nhỏ, đi chỗ khác
chơi.
Tân cãi lại:
- Tụi con đi học mà.
- Quay lại đi đường khác.
Bỗng nhiên thằng bé đổ lỳ:
- Không được, đi đường khác
xa lắm, trễ giờ rồi.
Nó nói xong, nắm tay anh kéo đi.
Người lính đứng yên, nói vói
theo:
- Vào được chứ ra không được
đâu.
Mặc kệ, hai đứa cứ rảo bước.
Lập tức, chúng trông thấy hai chiếc xe nhà binh đậu lù
lù trên bãi cỏ. Xa hơn, có nhiều bóng người. Chưa kịp
nhìn kỹ, thằng Vinh nghe tiếng la hốt hoảng của em nó:
- Anh Vinh, con ma, con ma kia kìa.
Thằng bé lấy tay chỉ vào đám
đông đang ngồi túm tụm thành một vòng tròn khá rộng,
ở giữa là một khoảng trống. Tất cả đều là người
lớn, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, đủ
cả. Nhiều người lính đứng chung quanh, súng cầm tay,
mũi súng chĩa xuống đất.
Bên trong vòng người là một vật
kỳ dị mà thằng Tân vừa gọi là “con ma”. “Con ma”
bị trùm trong một bao bố to mà người ta thường dùng để
đựng gạo, miệng bao kéo dài tận đầu gối, phía dưới
là cặp chân khẳng khiu với hai bàn chân trần dẫm trên
nền cỏ ướt. Ngang tầm mắt, bao bố được khoét hai lỗ
đen ngòm. Nó đoán “con ma” nhìn ra ngoài bằng hai lỗ
đen đó.
“Con ma” đi chậm rãi từng
bước một trước vòng người, hai người lính ghìm súng
theo sau. Đám đông im phăng phắt, nghe rõ cả tiếng chim
se sẻ đùa giỡn trên các mái nhà. Tất cả nhìn chầm
chập vào “con ma”. Nó dừng lại đứng yên một chút,
rồi gật đầu.
Lập tức, hai người lính nhảy
bổ vào xốc nách một người đàn ông đứng lên, kéo
hai tay anh ta ra phía sau và bập vào một chiếc còng số
tám. Một người lính bên ngoài vạch lối đi vào, nắm
lấy cổ áo lôi nạn nhân đến bên xe. Cửa mở ra, nạn
nhân bước lên, người lính đẩy mạnh vào lưng làm anh
ta lọt thỏm vào bên trong. Cửa xe đóng mạnh, nghe một
tiếng rầm ngắn gọn.
Trong vòng người, “con ma” lại
tiếp tục di chuyển, dừng lại, gật đầu. Một người
nữa bị lôi dậy còng tay và bị đẩy lên xe. “Con ma”
tiếp tục đi thêm hai vòng và không dừng lại để gật
đầu nữa.
Đến đây, “trò chơi” chấm
dứt, người ta dẫn “con ma” sang chiếc xe bít bùng thứ
hai và đẩy vào bên trong.
Tiếng rì rào nổi lên cùng những
tiếng thở dài khoan khoái. Vòng người đứng dậy. Toán
lính lần lượt lên xe. Hai chiếc xe nổ máy từ từ lăn
bánh trên mặt cỏ và leo lên con đường đất gồ ghề.
Mọi người đi về, có người cười cười nói nói, có
người khóc rưng rức, có người im lặng, trên nét mặt
còn in nỗi kinh hoàng.
Hai anh em Vinh và Tân không kịp
hỏi han gì, vội vã ra khỏi xóm để đến trường. Chúng
bị mất nguyên một giờ học đầu tiên.
Buổi chiều, sau giờ học cuối
cùng, Vinh đi nhanh đến nhà anh Loan. Nó vội kể cho anh
nghe cái cảnh lạ lùng mà anh em nó vừa chứng kiến sáng
nay. Anh Loan nghe xong, ngồi trầm ngâm một phút rồi hỏi:
- Có phải em gặp tại xóm lao
động gần hồ nước không?
- Dạ phải.
Anh gật đầu:
- Sáng nay xóm đó bị bố.
Vinh ngạc nhiên:
- Bị bố. Phải rồi có cái bao
bố biết đi. Ai ở trong cái bao đó?
- Người của Việt minh. Người
đó có lẽ là Hai Cà, bị bắt cách nay hơn một tuần.
Anh Hai ở ngoài Ngã ba Trung lương. Có lẽ anh ấy bị tra
tấn mà không chịu khai các đồng chí của mình, mật
thám Tây không phá vỡ được tổ chức Việt minh nên làm
một cuộc bố ráp để cầu may.
- Nhưng tại sao lại bố ráp ở
xóm đó. Anh vừa mới nói ông Hai Cà nào đó ở Ngã ba
Trung lương kia mà.
Anh Loan im lặng suy nghĩ một
chút rồi đáp:
- Anh cũng không thể biết rõ
được. Tuy nhiên anh đoán thế nầy. Hai Cà bị tra tấn
dữ quá, chịu không nổi mới khai là có nhận hay giao tài
liệu cho một người nào đó không biết tên cư ngụ
trong xóm ấy. Chắc chắn là từ khuya, lúc chưa hết giới
nghiêm, mật thám và lính đã vây kín xóm nầy, không cho
ai ra vô.
- Nhưng hai đứa em vô được mà.
- Hai em đến đó thì trời sáng
lắm rồi phải không? Cuộc bố ráp sắp xong nên thằng
lính mới dễ dãi với các em. Vã lại, đi ra bị cấm
nghiêm nhặt hơn đi vào. Hai em lại là học sinh. Người
mà chúng cần bắt đang ngồi trong cái vòng tròn người
mà em vừa kể khi nãy.
- Chúng trùm ông Hai Cà trong bao
bố, khoét hai cái lỗ đen thui làm hai con mắt để ông
Hai có thể nhìn ra người cùng trong tổ chức Việt minh,
có phải vậy không?
Anh Loan gật đầu:
- Đúng vậy. Chúng dẫn người
bị trùm bao bố đi nhiều vòng để nhìn mặt, bao bố gật
người nào thì bắt người đó đem đi tra khảo.
- Nhưng tại sao phải trùm Hai Cà
trong bao bố để che dấu. Cứ để cho ông ấy tự nhiên
như người thường, đến chỉ người nào thì bắt người
đó không được sao?
Anh Loan mỉm cười:
- Cậu học trò nầy lắm thắc
mắc quá.
Bỗng nhiên, anh thôi cười, mặt
anh đanh lại một cách dễ sợ. Giọng anh trầm xuống:
- Lúc Hai Cà bị đem đến đó
thì đã bị đánh nhừ tử mấy ngày rồi. Bọn “chó má”
hiểu rằng đem cái mặt sưng vù và tím như mồng tơi của
Hai Cà ra mà trình trước đám đông có thể gây phẩn nộ
trong dân chúng. Hơn nữa, nếu có anh phóng viên nào đứng
đó chụp hình thì rất bất lợi cho chúng đối với dư
luận trong nước và thế giới.
Anh Loan dừng lại, ngồi trầm
ngâm; Vinh im lặng chờ đợi. Một phút sau, anh nói tiếp:
- Một lý do khác nữa để trùm
kín Hai Cà là thằng Tây cũng hiểu được chút tâm lý.
Người bị bắt chịu đựng sự tra tấn mà không khai,
một là vì họ là người anh hùng thà chết chứ không
phản bội, hai là họ sợ bị thi hành kỷ luật về sau.
Thằng Tây bắt người đi chỉ điểm phải giấu mặt vì
lý do thứ hai nầy.
Tiếng nói anh nhỏ lại và buồn
bã:
- Nhưng họ là những người anh
hùng. Họ không bao giờ chịu chỉ điểm những đồng
chí. Họ chỉ bậy bạ một ai đó để thằng Tây chấm
dứt bố ráp, cho đồng bào trở về làm ăn.
- Nhưng chỉ bậy bạ như thế
thì có người bị bắt oan, tội nghiệp lắm.
Anh Loan trở lại với nụ cười
hiền lành:
- Thế nào là oan? Cuộc kháng
chiến dành độc lập là của toàn dân, ai cũng có bổn
phận phải tham gia. Nếu phải chịu đựng thay cho các
đồng chí để họ được ở ngoài tiếp tục hoạt động
thì đó cũng là một đóng góp xứng đáng cho Tổ quốc
vậy.
Anh Loan ngừng nói, im lặng móc
thuốc ra hút. Thằng Vinh nhìn ra sân một chốc rồi quay
lại đột ngột hỏi:
- Anh Loan, anh có phải là người
của cách mạng không?
Như đã có chuẩn bị trước,
anh Loan vẫn thản nhiên, hỏi lại:
- Em hỏi điều đó để làm gì?
Vinh đáp giọng cương quyết:
- Nếu đúng anh là người của
cách mạng thì anh hãy đưa em vào con đường mà anh đang
đi.
Nó cố gắng ghìm hơi thở dồn
dập để nói một hơi dài cho hết ý:
- Cha em là một anh hùng như anh
đã nói. Em muốn noi theo gương của cha em. Ông đã hi sinh
cho cách mạng. Em muốn trả thù cho ông. Hôm ngoài làng,
em đã muốn trốn lên chiến khu mà chưa trốn được thì
cậu em đã về mang em vào đây.
Anh Loan nhìn nó và hỏi nho nhỏ,
thực dịu dàng:
- Bây giờ em còn ý định đó
không?
- Còn, nhưng mà….
Nó ngập ngừng, không biết có
nên thố lộ tất cả tâm sự cho người thanh niên đáng
kính nầy hay không. Nó muốn nói với anh hiểu rằng nó
sẵn sàng ra chiến khu để làm cách mạng bất cứ lúc
nào nhưng không nỡ rời xa thằng em của nó. Nó nghĩ rằng
đó là một tình cảm ủy mị đáng chê trách nhưng chưa
thể nào từ bỏ được.
Anh Loan nhìn nó đăm đăm rồi
khom mình tới trước, nắm lấy bàn tay nó đang đặt trên
mặt bàn, giọng thân mật:
- Em có gì khó nghĩ, nói cho anh
nghe đi.
- Em ra chiến khu thì được rồi,
nhưng thằng Tân của em ở lại một mình thì tội lắm.
Hay là cho nó đi theo em được không?
Anh Loan buông tay nó ra cười xòa:
- Chẳng︠ cần phải ra chiến
khu. Em có thể làm cách mạng ngay trong thành phố nầy.
Hai anh em vẫn ở gần nhau. Em đồng ý chứ?
Vinh gật đầu. Anh Loan nói tiếp:
- Được rồi. Anh sẽ đưa em vào
tổ chức cách mạng và sẽ bố trí công tác cho em. Nhớ
đừng nói chuyện nầy cho ai nghe cả. Phải tuyệt đối
giữ bí mật. Thôi em về đi, hôm nay mình nói chuyện hơi
lâu rồi đó. Em cứ tiếp tục học hành bình thường,
đừng để cho ai nghi ngờ gì cả. Chiều thứ tư tuần
sau em lại đến đây nói chuyện với anh.
Nó nghe lời đứng dậy ôm cặp
ra về. Nắng chiều đã tắt. Nó đi trong không khí hoàng
hôn oi nồng mà nghe lòng lâng lâng một niềm phấn khởi
tột cùng. Nó sắp đi vào con đường cách mạng của cha
nó.
*
* *
Gần hai năm sau, một hôm, ăn cơm
trưa xong, hai đứa về phòng. Thằng Tân leo lên giường
nằm, thằng Vinh ngồi vào bàn học. Nó im lặng nhắm mắt
nhớ lại công việc sáng nay thì em nó bỗng vùng dậy
nói:
- Anh Vinh, em có cái nầy cho anh
xem. Em tính đưa cho anh lúc tan học nhưng em quên. Em cất
vào trong cặp học đây nầy.
Thằng Vinh quay lui chụp tờ giấy
trên tay em, giọng hốt hoảng:
- Em lấy ở đâu ra tờ truyền
đơn nầy?
- Anh ấy đưa cho em?
- Anh nào?
- Em không biết tên. Anh ấy học
ở dãy lớp trung học.
- Có phải cái anh cao cao da trắng,
có nốt ruồi ở dưới cằm không?
Tân reo lên:
- Phải rồi, chính anh đó. Anh có
quen với anh ấy sao? Hai anh học cùng lớp phải không?
Vinh lắc đầu, vò tờ truyền
đơn thành một viên bi, ngó dáo dác quanh nhà để tìm chỗ
quăng đi nhưng không biết quăng vào đâu. Nó bước ra
khỏi phòng, nhìn ngôi nhà lớn và lắng tai nghe. Hoàn toàn
im lặng, có lẽ mọi người đang ngủ trưa. Nó cho viên
giấy vào túi áo, bước ra khỏi phòng, đi ngang qua bếp,
đến phòng vệ sinh. Vài giây sau, có tiếng nước dội
mạnh trong đó. Nó trở về phòng mình, ngồi vào ghế.
Thằng Tân vẫn ngồi yên trên giường, nhìn anh với đôi
mắt tiếc rẻ:
- Sao anh không đọc đi? Cái anh
đó nhét tờ giấy vào tay em và bảo đưa cho nhiều bạn
khác xem.
- Em có đưa cho ai không?
- Mấy đứa trong lớp em xúm lại
đọc, thích lắm. Có đứa xin nhưng em không cho. Sao anh
không đọc mà liệng bỏ đi ngay vậy?
- Khỏi đọc, anh biết trong đó
nói gì rồi.
- Cái anh cao cao cũng có đưa cho
anh một tờ phải không?
- Không, nhưng anh biết.
Nó nhìn thẳng vào mắt em, cố
lấy giọng nghiêm trang:
- Tân, em có biết tờ giấy đó
rất nguy hiểm không?
Thằng bé làm ra vẻ rành rẽ:
- Biết chớ sao không. Tờ truyền
đơn của Việt minh kêu gọi toàn dân tham gia vào công
cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Em giữ tờ giấy đó trong người
không sợ mật thám bắt sao?
- Mật thám làm sao biết được.
Em cất kỹ lắm để cho anh đọc. Anh không đọc mà bỏ
đi, uổng công em cất giấu.
Vinh gằn giọng:
- Anh cấm từ rày em không được
mang truyền đơn hay bất cứ thứ gì nguy hiểm khác về
nhà. Nghe chưa?
Thằng bé vâng dạ với nét mặt
không hài lòng. Nó luôn luôn thương yêu và kính phục anh
nó nhưng ngay bây giờ nó bất mãn vì anh nó quá nhút nhát
đến đỗi không dám đọc tờ truyền đơn mà công khó
nó đã giữ gìn và lén mang về.
Thằng bé đâu có thể ngờ rằng
tờ truyền đơn đó là một trong những tờ mà sáng sớm
nay anh nó đã đem vào trường phát cho một số bạn học
đã được anh nó đưa vào tổ chức được từ trước.
Thực vậy, chiều hôm qua, như thường lệ, Vinh ghé qua
nhà anh Loan sau lúc tan học. Anh trao cho nó một cái hộp
giấy, dặn dò mấy câu rồi bảo nó về ngay. Những tờ
truyền đơn được xếp gọn gàng và nằm trọn trong hộp
giấy đó.
Nó nhẩm tính đã được gần
hai năm kể từ khi nó đi vào con đường cách mạng với
anh Loan. Nó cảm thấy không hài lòng vì hoạt động cách
mạng của nó không có gì sôi nổi. Nó chưa hề gặp một
người cách mạng nào khác ngoài anh Loan. Công việc nhanh
chóng trở nên nhàm chán. Mỗi tuần một lần, nó đến
ngồi nghe anh Loan kể tình hình đấu tranh chính trị và
quân sự của quân dân ta. Lúc đầu nghe cũng lạ tai nên
lý thú, dần dần câu chuyện trở nên nhạt nhẽo, nó
không mấy chú tâm.
Thỉnh thoảng, một cuộc đấu
tranh chính trị nổ ra ngay trong thành phố, gây xáo trộn
hoặc làm tê liệt sinh hoạt hằng ngày, có khi các trường
học phải đóng cửa cho học trò nghỉ mấy hôm. Những
lần đó, giọng anh Loan sôi nổi hẳn lên, câu chuyện trở
nên lôi cuốn.
Bình thường, công tác của nó
không hào hứng chút nào. Lâu lâu, anh Loan trao cho nó một
bó truyền đơn hay cờ đỏ sao vàng, chỉ cho nó cách dán,
rải hoặc trao cho bạn bè. Anh dặn nó kết thân với vài
đứa con nhà nghèo, đưa truyền đơn cho những đứa đó
và dặn cho những đứa khác xem. Nó đã thực hiện được
công tác đó. Nó đã thuyết phục được ba đứa theo nó,
một ở cùng lớp và hai ở lớp khác. Anh Loan tỏ ý hài
lòng, nhưng nó không hài lòng chút nào về công tác cách
mạng theo kiểu nhàm chán đó.
Anh Loan thường nói với nó rằng
cách mạng mỗi ngày mỗi lớn mạnh thêm. Nó cũng cảm
thấy được điều đó qua những tiếng súng đại bác
ban đêm nổ càng ngày càng gần thành phố hơn.
Nó đã được mười sáu tuổi
rồi, không còn là một đứa trẻ con nữa. Cái thân phận
sớm mồ côi, cái quá khứ đầy đau thương thúc đẩy nó
trưởng thành nhanh hơn những đứa trẻ bình thường. Mối
căm hờn xưa kia không còn sôi sục trong lòng nữa mà đã
lắng vào bề sâu trong tâm hồn để trở thành nỗi khát
khao được cống hiến nhiều cho cách mạng, được hy
sinh nhiều hơn nữa trong công cuộc giành độc lập cho Tổ
quốc.
Một hôm, cả thành phố rúng
động vì một quả lựu đạn nổ trước chợ làm cho
nhiều người chết và bị thương. Trong số người chết,
có một người lính bảo an đang đứng gác. Việc nầy
gây cho nó một sự xúc động mạnh mẽ và một lần nữa
khuấy động lòng mong muốn thực sự dấn thân cho cách
mạng.
Có lần, nó tỏ thực lòng nó
với anh Loan thì anh ôn tồn nói với nó:
- Em nghĩ như thế là rất tốt.
Đó là tính cách của người yêu nước thực sự. Nhưng
em nhớ rằng yêu nước không nhất thiết phải ôm súng
lao vào quân thù. Cuộc kháng chiến của chúng ta phải có
tính toàn diện và trường kỳ. Toàn diện là đấu tranh
quân sự lẫn chính trị, trong đó đấu tranh chính trị
là cơ bản và khó khăn hơn. Trường kỳ là phải kiên
nhẫn, không được nóng vội. Em đang tham gia vào công tác
đấu tranh chính trị ngay trong lòng địch. Đó là một
công tác rất vinh quang, em nên hãnh diện về công tác đó.
Anh ngừng một chút để dò phản
ứng của nó rồi hói tiếp:
- Nhiệm vụ càng vinh quang thì
càng phải rất cẩn thận, đặc biệt là trong hoàn cảnh
của em, sống trong nhà của cậu em, một tay sai đắc lực
của thực dân Pháp, một kẻ thù nguy hiểm của cách
mạng. Em không được để lộ ra một chút nào để cậu
em có thể nghi ngờ. Nếu biết em theo cách mạng, cậu em
sẽ không còn kể tình ruột thịt với em đâu. Em hiểu
chưa?
Nó gật đầu một cách buồn bã.
Anh Loan như cảm thấy chưa đủ thuyết phục nó nên nói
tiếp với giọng đầy khí thế cách mạng:
- Em hãy hoàn toàn tin tưởng ở
sự lãnh đạo của cách mạng. Thắng lợi cuối cùng ắt
phải về ta, kẻ thù ắt phải bị tiêu diệt. Em nghe rõ
chưa, còn thắc mắc gì nữa không?
Nó lặng thinh cúi đầu. Tự
nhiên, một nỗi buồn phiền chợt hiện ra và lan tràn
nhanh chóng trong lòng nó. Từ đó cho đến lúc về, nó
không nói một lời nào nữa.
“ Cậu của em là tên tay sai đắc
lực của thực dân Pháp, là kẻ thù nguy hiểm của cách
mạng…” Câu nói đó của anh Loan bám vào đầu nó trên
suốt đoạn đường về nhà. Nó dừng lại trước cổng,
nhìn ngôi nhà đồ sộ, quá tương phản với những nhà
lá lụp xụp ở cái xóm lao động mà mỗi ngày hai lần
nó trông thấy khi đi học và trở về nhà.
Nó thừa nhận lời lên án nặng
nề của anh Loan là đúng. Nó không biết rõ cậu Danh của
nó giữ chức vụ gì cho thực dân Pháp vì chưa ai nói cho
nó rõ điều nầy. Tuy nhiên, nó biết một cách chắc chắn
rằng cậu là một viên chức cao cấp trong tỉnh, một
người làm việc thẳng với Tây và được Tây tín nhiệm.
Nó hiểu rằng cậu nó đang tích cực đánh phá cách mạng,
đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân và lý tưởng
của nó. Tuy nhiên, chưa bao giờ nó dám nghĩ cậu là kẻ
thù của nó. Lời lên án, đúng hơn là lời mạt sát của
anh Loan đối với cậu làm nó đau lòng.
Cậu Danh là người ơn lớn nhất
của anh em nó, sau cha và mẹ nó. Khi nghe tin mẹ nó mất
và anh em nó trở thành bơ vơ, cậu đã xin nghỉ việc,
lặn lội từ Nam ra Trung để đưa chúng nó vào đây. Từ
cuộc sống cùng quẫn của hai đứa trẻ mồ côi, anh em
nó đã được về sống yên ổn trong ngôi nhà nầy, được
học hành cùng với những đứa trẻ thành phố. Từ ngôi
nhà sang trọng và tiện nghi trong cái thành phố tương đối
bình an nầy, cậu đã đi hàng ngàn cây số đến làng quê
điêu tàn và bất ổn để cứu vớt chúng nó thì làm sao
nó có thể gọi cậu là kẻ thù cho được?
Trong chương trình mà nó đã học
qua, thầy cô đã dạy nó đạo lý làm người trong những
bài luân lý. Điều quan trọng đầu tiên trong đạo lý
làm người là phải nhớ ơn những người đã cứu giúp
mình, chứ không thể xem người ơn như kẻ thù được.
Nó đưa tay bấm chuông. Người
ra mở cửa không phải là bác Tư mà là em nó. Thằng bé
có vẻ chờ đợi anh nó về. Vinh hỏi:
- Bác Tư đi đâu rồi?
- Bác đang ở trong nhà nói chuyện
với mợ. Anh vào đây em kể anh nghe.
Tân lôi anh về phòng, nói nhanh:
- Anh có nghe tin gì chưa?
Vinh ngạc nhiên:
- Chưa, chuyện gì vậy?
- Ông cảnh sát trưởng bị ám
sát.
- Ai ám sát? Lúc nào?
- Việt minh bắn chớ ai nữa. Mới
chiều nay. Hai người đi trên xe Vespa bắn ông cảnh sát
trưởng ở trước đồn rồi bỏ chạy mất.
- Tại sao em biết?
- Bác Tư kể lại. Lúc nãy, mợ
nhờ bác ấy đi mua thứ gì đó. Bác may mắn được chứng
kiến tại chỗ. Bác bảo rằng hai anh Việt minh đó thiệt
là giỏi. Xe ông cảnh sát trưởng bên trong rề ra, anh lái
xe ngồi trước vừa ngừng lại là anh sau bắn liền mấy
phát đạn rồi chạy mất, người lính gác lúc đó đang
lo đóng cửa, không kịp phản ứng gì cả.
- Ông cảnh sát trưởng chết
không?
- Bác Tư nói không biết vì lúc
đó bác cũng bỏ chạy như những người khác nhưng bác
thấy ông ta gục xuống tay lái. Bác khen Việt minh bắn
giỏi và gan dạ. Bác hỏi em dám làm như vậy không. Em
nói không. Bác chê em nhát. Anh có dám không?
Vinh nhìn em cười:
- Dám chứ.
Nói xong, nó gạt thằng em qua một
bên, vào góc buồng cởi áo quần dài ra rồi rút chiếc
khăn, đi vào buồng tắm. Nó đứng tần ngần một lúc
trước vòi nước, suy nghĩ về câu chuyện mà em nó vừa
kể.
Những cuộc ám sát táo bạo
thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong thành phố, gây xôn xao dư
luận. Người ta đồn với nhau rằng những người đi ám
sát thuộc về một nhóm quyết tử gồm những thanh niên
tài ba, có võ nghệ rất giỏi, bắn súng thì trăm phát
trăm trúng. Sau khi ám sát xong, họ còn để lại một bản
án. Chưa ai đọc được bản án nầy vì cơ quan an ninh
đến lấy đi tức thì. Do đó nội dung bản án được
mỗi người suy đoán một cách khác nhau với tội trạng
được bịa ra sao cho phù hợp với chức năng của nạn
nhân trong chánh quyền. Chính điều đó đã hướng dẫn
dư luận dành tất cả cảm tình cho kẻ giết người. Nạn
nhân ngã xuống chỉ còn được sự xót thương của chính
những người thân thích của họ mà thôi.
Đối với thằng Vinh, không những
nó có cảm tình với người đi ám sát mà còn hết sức
thán phục hành động của họ nữa. Nó cho đó là hành
động hết sức anh dũng và ước mơ có ngày trở thành
một nhân viên của toán quyết tử oai hùng đó.
Nhưng nếu nạn nhân là cậu Danh
của nó?
Nó bỗng hốt hoảng vì ý nghĩ
đó. Nó ngắt ngay luồng tư tưởng, vội vã múc nước
dội ào ào, lau khô mình mẩy và chạy nhanh ra khỏi nhà
tắm như bị ma đuổi.
*
* *
Ông Danh xuống xe vào nhà, mệt
mỏi ngồi phịch xuống ghế. Bà Danh từ buồng ngủ bước
ra, ngồi kế bên, nhìn ông một cách lo lắng. Ông lắc
đầu ngao ngán:
- Tụi nó lại rải truyền đơn
kêu gọi đình công bãi thị để đòi trả tự do cho mấy
thằng cộng sản cầm đầu toán biểu tình ngày hôm qua.
Bà tiếp lời:
- Sáng nay đi chợ, em thấy không
khí rất căng thẳng. Người ta không còn để hết tâm
trí vào việc mua bán mà túm tụm bàn bạc với nhau.
- Em có nghe họ bàn về việc gì
không?
- Không, ở cái thành phố nhỏ
như bàn tay nầy, mọi người đều biết mặt em nên khi
lộn xộn họ đều có vẻ muốn tránh em. Em cũng giữ ý
không gần gũi nói chuyện với dân lao động đó. Ra chợ
mua thức ăn xong là về ngay.
Bà cúi nhìn xuống đất rồi nói
tiếp:
- Em lo lắm. Tình hình có vẻ bất
ổn quá.
Ông Danh gật đầu:
- Bất ổn khắp mọi nơi, tình
hình càng ngày càng nặng nề. Ngoài Bắc, Việt minh đang
rêu rao chiến dịch biên giới.
Bà Danh ngẩng lên:
- Chiến dịch gì vậy?
- Trung cộng chiếm được cả
Hoa lục rồi. Quốc dân đảng đang rút ra đảo Đài loan
để cố thủ. Nhân dịp đó, Việt minh liều mạng tấn
công vào các đồn bót của quân Pháp Việt trên các tỉnh
giáp giới với Trung hoa. Họ gọi đó là chiến dịch biên
giới.
Bà Danh tỏ vẻ am tường:
- Chắc họ muốn có một vùng
đất riêng của họ để bắt tay với Trung cộng.
Ông Danh ngắt lời:
- Đúng vậy, họ tưởng bắt tay
được với Trung cộng là sung sướng lắm. Họ ngây thơ
đến độ khờ dại. Họ quên rằng cái tai ách triền
miên không bao giờ chấm dứt của lịch sử Việt Nam
chính là cái họa phương Bắc do nước Tàu khổng lồ gây
ra. Bây giờ, với chiến dịch biên giới, họ mở rộng
cửa cho Tàu tràn vào thì thực là nguy khốn cho đất nước
mình. Đó là mối nguy thứ nhất. Mối nguy thứ hai là
Việt minh chủ trương đuổi người Pháp đi để đem cả
Đông dương sát nhập vào khối cộng sản. Lúc còn học
bên Pháp, anh đã từng tìm hiểu lý thuyết cộng sản,
phần lớn qua những ông thầy của anh. Anh cũng đã biết
được phần nào cái gì xảy ra ở đất nước Nga dưới
sự cai trị tàn bạo của đảng Cộng sản nên anh thấy,
ở Việt Nam, cần tiêu diệt Việt minh để ngăn chận sự
bành trướng của chủ nghĩa cộng sản trước đã. Anh
cho rằng bị cộng sản cai trị, dân mình sẽ còn khổ
hơn bị Pháp cai trị nữa. Anh dám nói điều đó vì đã
so sánh đời sống của dân Nga hiện nay với đời sống
dân Việt Nam trước thế chiến thứ hai. Ách thực dân
thì mình còn hi vọng cởi được chứ ách cộng sản như
ở Nga bây giờ thì không mong gì chấm dứt được. Vì
vậy, điều cần thiết trước tiên là đừng để cộng
sản chiếm được đất nước nầy, rồi mọi việc khác
sẽ tính sau.
Ông Danh ngừng nói, nhìn xuống
hai bàn tay xoè rộng trên hai gối. Một lát sau, ông nói
tiếp, giọng thực buồn:
- Anh làm việc với người Pháp,
hết lòng giúp họ tiểu trừ Việt minh cộng sản, nhưng
anh đâu có hoàn toàn vui thích. Có hôm thấy toán lính lê
dương xử bắn nhiều Việt minh rồi chôn chung vào một
hố, anh thấy đau lòng nhưng cũng cố làm vẻ mặt hân
hoan với mọi người.
Ông lại ngừng một chút lấy
thuốc ra hút rồi nói tiếp:
- Anh còn nhớ trước đây,
professeur de philo của anh có nói một câu rất thấm thía:
“Thượng đế sinh ra con người và bắt phải chịu đựng
một cách can đảm. Sự chịu đựng chỉ chấm dứt khi
người ta nhắm mắt xuôi tay”. Học trò đều bảo rằng
ông thầy đó là một triết gia thuộc phái bi quan. Nhưng
anh tin rằng lời nói của ông thì đúng, rất đúng cho
những người có thói hay suy tư.
Bà Danh là người có học nhưng
bà thích việc bếp núc, săn sóc con cái hơn là thảo luận
chính trị. Tuy nhiên những khi ông nói nhiều như hôm nay
thì bà kiên nhẫn ngồi nghe. Bà hiểu rằng cần phải để
ông giải tỏa bớt mối ưu tư thầm kín trong lòng ông.
Đó phần nào cũng là mối ưu tư của bà khi bà bắt gặp
cái nhìn không mấy thiện cảm của người chung quanh,
nhất là những nguời buôn gánh bán bưng và những người
lao động mà bà không thể luôn luôn tránh tiếp xúc trong
cuộc sống hàng ngày. Ngôi nhà tráng lê, cuộc sống sung
túc và nhất là vai trò của chồng trong guồng máy chính
quyền của Pháp làm cho bà cảm thấy gia đình bà như
sống trong một ốc đảo ngay trên quê hương của bà.
Thấy ông ngồi thẩn thờ im lặng
hồi lâu, bà lôi ông về với thực tế:
- Nầy anh, khi nãy, em muốn nói
với anh về sự lộn xộn đang xảy ra trong thành phố của
mình. Họ kêu gọi đình công bãi thị. Em lo sợ nên đã
dự trữ thức ăn. Em không muốn ra chợ nữa vì cảm thấy
những người quen nhìn em với đôi mắt đầy ác cảm. Em
sợ nên thường nhờ anh Tư Thọ đi mua những món cần
thiết. Em nghe nói ở Sài gòn cũng lộn xộn lắm phải
không anh?
- Tình hình ở trên đó còn căng
thẳng hơn ở đây nhiều. Học sinh, sinh viên biểu tình
liên miên mấy hôm nay. Tụi nhỏ bị xúi dục gây bạo
động và lính nổ súng. Có một học sinh Lycée Pétrus-Ký
tên là Ơn bị bắn chết. Bên anh nhận được từ
Sécurité militaire và Deuxième Bureau vô số bản sao truyền
đơn, chỉ thị, tài liệu học tập của Việt minh thúc
đẩy tất cả các thành phố xúi dục học sinh và mọi
người tham gia biểu tình vì cái chết của cậu học sinh
đó.
Ông hạ thấp giọng:
- Mình cố ngăn chận biểu tình
nhưng chắc không nổi. Em dự trữ một ít thức ăn là
phải.
Như sực nhớ ra một điều quan
trọng, ông lên giọng nói với bà:
- Em bảo ba đứa bé, ngày mai
đừng đến trường. Biểu tụi nó ở nhà không được
ra đường, nhất là thằng Vinh và thằng Tân. Hai đứa đó
mà bị bọn phiến loạn lôi cuốn thì khổ lắm. Bên cơ
quan an ninh được lệnh tránh đổ máu nhưng nếu tụi
phiến loạn hành động thái quá thì điều đó khó tránh
khỏi. Em phải cố giữ ba đứa ở nhà. Dặn anh Tư Thọ
khóa cửa cẩn thận.
Ông Danh dợm đứng lên thì bà
kéo tay ông lại:
- Anh nầy, em có chuyện muốn nói
với anh từ ít lâu nay nhưng em ngần ngại, sợ anh lo
buồn.
Ông âu yếm nắm tay bà:
- Em cứ nói đi, chuyện hai đứa
cháu của anh sống trong nhà nầy phải không?
- Dạ phải.
Ông tỏ vẻ lo lắng:
- Thế nào em cứ nói đi. Em không
vừa lòng về tụi nó thế nào?
- Thằng Tân thì rất dễ thương.
Nhìn nó và con Hiền vui đùa với nhau một cách hồn
nhiên, em cũng thấy vui. Nhưng thằng Vinh thì tính khí kỳ
kỳ làm sao ấy.
Ông sửng sốt nhìn vợ:
- Sao vậy, nó hỗn với em hả?
- Không, với em, nó ăn nói lễ
phép, chững chạc lắm. Tuy nhiên, em thấy nơi nó có cái
gì đó khó chịu và khó nói lắm. Nó có vẻ không thiện
cảm với nhà nầy, nhất là với em. Nó lầm lỳ, ít nói,
suốt ngày ngồi trước sách vở.
Ông ngắt lời vợ, giọng an ủi:
- Con nít tính tình mỗi đứa một
khác nhau. Nó là thằng ham học nên ít nói. Nó là một
học sinh giỏi của trường, em biết rồi đó. Năm rồi
nó nhảy một lớp mà vẫn học giỏi, sang năm là thi
diplôme rồi.
- Không, em không nói về chuyện
học của nó. Em muốn nói tới cái thái độ, cái tình
cảm của nó đối với gia đình mình. Có cái gì đó
không ổn trong đầu nó với sự sống ở đây.
Bà quay ngang, tránh nhìn vào mắt
ông:
- Anh ạ, em có học hành nên em
hiểu việc đưa hai đứa trẻ mồ côi đáng thương vào
đây là một vấn đề lương tâm của anh. Nuôi nấng và
cho chúng ăn học cho nên người cũng là một vấn đề
lương tâm của anh. Em hoàn toàn tán thành điều đó. Em
nói vậy để anh hiểu rằng em không có ý gì xấu xa đối
với việc nuôi hai đứa cháu của anh. Nhưng em muốn nói
với anh là thằng Vinh có cái gì đó không giống với
những đứa trẻ học sinh khác. Nhiều hôm, em thấy nó đi
học về rất trễ. Em hỏi thì nó bảo ở lại đá banh
cùng các bạn trong trường. Nếu nó là đứa cởi mở và
ham chơi thì nói vậy em tin ngay. Đằng này….
Câu nói nửa chừng của vợ làm
ông Danh cảm thấy lành lạnh trong xương sống. Ông bỗng
nhớ đến lời một triết gia nào đó: “Đàn ông hơn
đàn bà về suy luận logique, đàn bà hơn đàn ông về
nhận xét sự vật qua linh cảm”. Ông hết sức lo lắng.
*
* *
Sau mấy ngày náo loạn trên đường
phố, cuộc sống trở lại bình thường. Chợ búa họp
lại với người mua kẻ bán, trường học mở cửa, học
sinh lũ lượt vào lớp. Tuy nhiên, tình hình không thực sự
yên tĩnh. Cơ quan an ninh làm việc ngày đêm, quan sát cặn
kẽ hình chụp các cuộc biểu tình, các nơi tụ họp đông
đảo, tổng hợp tin tức các nơi gởi về. Toàn bộ lực
lượng an ninh chìm được tung ra lùng sục suốt ngày suốt
đêm trong thành phố và tới tấp gởi về các báo cáo tỉ
mỉ. Kết quả là có rất nhiều vụ bắt bớ, nhiều cuộc
bố ráp xảy ra.
Một chuyện động trời là trong
số người bị cơ quan an ninh bắt giữ, có mấy người
làm việc ngay trong tòa hành chánh tỉnh. Và càng động
trời hơn nữa, những người bị bắt khai ông Tư Thọ là
cán bộ nằm vùng được cài ngay vào nhà ông Danh, một
viên chức cao cấp của tòa tỉnh trưởng. Người ta đến
nhà còng tay ông Tư Thọ, lục tung phòng ở, lục sang cả
phòng hai đứa bé.
Bà Danh không bị bất ngờ vì
trước đó hơn một giờ đồng hồ, ông Danh ghé về cho
bà hay một cách vội vàng rồi đi ngay. Tuy vậy bà cũng
tối tăm mày mặt. Từ lúc ông Danh về báo tin cho đến
khi mọi việc bắt bớ và khám xét phòng bác Tư Thọ xong
xuôi, bà đóng cửa nằm bẹp trong phòng, trùm mền từ
đầu đến chân.
Cửa phòng tuy đóng kín nhưng
không ngăn được tiếng động từ bên ngoài vào, tiếng
cửa bị giật mở toang, tiếng quát tháo, tiếng xô bàn
ghế, tiếng rơi lịch kịch của đồ đạc bị quăng
xuống đất….
Mãi đến lúc những tiếng động
đó không còn nữa, bà nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Bà
biết đó là tiếng gõ của chị Hương. Bà tung mền bước
ra mở cửa, bắt gặp ngay khuôn mặt đầm đìa nước mắt
của người đầy tớ gái. Bé Hạnh ôm lấy chân bà. Bà
cúi xuống bế con lên.
Bà bước lại cửa sổ, nhìn
xuống phòng ông Tư Thọ. Căn phòng trống trơn, đồ đạc
bừa bãi. Bà ứa nước mắt quay vào, lòng ngổn ngang trăm
mối, vừa thương cảm người giúp việc hiền lành và
siêng năng, vừa ghê sợ những ngày tháng sống chung với
một cán bộ Việt minh. Bà lo lắng, không biết việc nầy
sẽ ảnh hưởng xấu đến mức nào đối với cuộc sống
của gia đình bà và vị trí của chồng bà trong chính
quyền.
Trưa hôm đó, hai anh em đi học
về, ngạc nhiên thấy người ra mở cửa là chị Hương
chứ không phải là bác Tư Thọ như mọi ngày. Chị bảo
nhỏ:
- Chú Tư bị bắt rồi.
Thằng Vinh sửng sốt:
- Chú Tư bị bắt? Hồi nào? Tại
sao bị bắt?
- Sáng nay, công an đến bắt,
còng tay đưa lên xe bít bùng. Họ lục tung đồ đạc
phòng của chú Tư và phòng của hai cậu nữa. Vô dọn dẹp
đi rồi ăn cơm.
Nói xong chị đóng cửa rồi theo
sau hai đứa đi vào. Thằng Vinh đứng trước cửa phòng,
tai lùng bùng nhức nhối. Thằng Tân sợ sệt kéo tay anh:
- Tại sao bác Tư bị bắt? Bác
là Việt minh phải không?
Thằng Vinh bỗng dưng nổi giận,
quát:
- Im đi, con nít đừng xía vô
chuyện người lớn. Xếp mùng mền trên giường, rồi sắp
sách vở cho gọn lại như cũ.
Tiếng rầy la của chính nó lại
làm cho nó bình tĩnh trở lại. Nó vội để cặp xuống
đất và cùng với em đi thu xếp đồ đạc. Trăm ngàn ý
nghĩ và nỗi sợ hãi vùn vụt kéo qua đầu nó như những
đám mây đen trên bầu trời trong cơn bão tố.
Nó bỗng dừng tay, nhìn sững
sang hướng phòng bác Tư và nó chợt hiểu điều mà nó
thắc mắc trong buổi đầu tiên gặp anh Loan, người thanh
niên xa lạ. Tại sao anh Loan biết nó sống với cậu mợ,
tại sao anh biết nó có mối thù với Tây trước khi nó
thố lộ thân thế với anh? Những điều nầy chỉ có cậu
mợ và bác Tư Thọ biết mà thôi. Thế thì chính bác đã
liên lạc với anh Loan và sắp đặt cho anh Loan làm quen
với nó. Rõ ràng chuyện làm rớt cái ví giữa đường để
nó trông thấy là một màn kịch hết sức thô sơ nhưng
rất thành công vì chỉ cần một lần đó thôi là đủ
để anh tiếp xúc và đưa nó vào tổ chức. Nghĩ tới đó,
nó cảm thấy nỗi lo tràn ngập trong lòng. Hai người có
thể trong cùng một tổ chức. Bác bị bắt rồi thì anh
Loan sẽ ra sao? Nếu anh Loan cũng bị bắt thì số phận nó
sẽ ra sao?
“Đi trốn!”. Ý nghĩ nầy lóe
lên đầu nó như một tia chớp. Nhưng mà trốn đâu? Nó
đưa tay đập vào trán mình. Trong gần hai năm nhận công
tác của cách mạng, anh Loan chưa hề đặt vấn đề nầy
ra với nó. Nó cảm thấy cực kỳ bối rối.
Có tiếng chị Hương gọi hai anh
em qua nhà bếp để ăn cơm, vì phòng của Bác Tư còn quá
bừa bãi. Nó cố nuốt hết chén cơm như một cực hình,
rồi trở về phòng nằm dài trên giường, lòng ngổn
ngang trăm mối.
“Đi trốn”, hai tiếng đó cứ
liên tục hiện ra trong trí nó. Nếu là hai năm trước,
lúc còn ở miền Trung, việc nầy có thể đã được nó
giải quyết dễ dàng: chạy thẳng lên núi hay xuống đồng
ruộng rồi tìm đường vào chiến khu. Không, bây giờ nó
không quá ngây thơ như thế nữa. Chiến khu không phải dễ
dàng tìm được như một trường học hay một cái chợ
trong thành phố.
Nó cảm thấy mệt nhọc rã rời.
Nó muốn nằm ngủ suốt buổi chiều, không thiết đến
lớp học nữa. Thường ngày, việc học là một niềm đam
mê của nó. Bây giờ việc đó trở thành hết sức nhạt
nhẽo. Tuy nhiên, hôm nay, nó vẫn phải đến trường vì
chiều nay là đúng ngày hẹn thường lệ với anh Loan tại
nhà.
Nó vội vùng dậy, nghe có tiếng
sột soạt bên phòng bác Tư. Nó rón rén đến gần, ghé
mắt nhìn sang thì thấy chị Hương đang thu dọn đồ đạc.
Nó uể oải thay quần áo, lấy cặp bước ra khỏi phòng.
Chị Hương dừng tay bước theo nó ra mở cổng rồi vội
vàng khóa lại. Nó lầm lũi đến trường.
Lớp học buổi chiều là lớp
học thêm cho một số đứa chuẩn bị kỳ thi cuối cấp
trung học đệ nhất cấp. Mọi hôm nó chăm chỉ học hành
nhưng chiều nay nó chẳng hiểu các thầy nói gì trong lớp.
Sau giờ học cuối cùng, nó vội vàng ra khỏi trường và
rảo bước trên vệ đường quen thuộc. Nó dừng lại ở
ngã tư đường, lén lút nhìn về hướng nhà anh Loan. Nó
định bụng, nếu thấy bóng người lạ, dù mặc sắc
phục hay thường phục thì nó cũng sẽ quay lui bỏ đi lập
tức.
Không có gì cả, dãy phố vẫn
im lìm, vài người đàn bà thơ thẩn và vài trẻ em nô
đùa như thường lệ. Nó bước sang bên kia đường và
ngẩng mặt tiến tới một cách thản nhiên. Ngang qua nhà
anh Loan, nó khẽ ngước mắt nhìn. Cửa đóng im ỉm chứ
không mở toác ra để đón nó như mọi khi. Rõ ràng có
chuyện đây rồi.
Nó có nên vào và kêu cửa hay
không? Bọn mật thám có đang phục kích trong nhà anh Loan
hay không? Nó bối rối tự hỏi trong khi chân vẫn rảo
bước băng qua hết dãy phố. Nó cặp theo lề đường, rẽ
sang bên trái rồi đi thẳng về nhà.
Nó bước qua cánh cổng của ngôi
nhà vừa trải qua sóng gió sáng nay. Nó nghĩ rằng những
đợt sóng khác sẽ tiếp tục tràn vào gây xáo động đời
sống của mọi người trong nhà. Người ta bắt được
Việt minh trong nhà nầy. Đó là một điều hết sức hệ
trọng, làm sao có thể qua được một cách nhanh chóng để
trả lại sự bình yên như trước.
Nhưng không, nếp sống vẫn bình
yên. Những người lớn trong nhà dường như không ai muốn
nhắc biến cố nầy trước mặt nó. Nó để ý thấy cậu
Danh vẫn ngày hai buổi đi về, mợ nó và chị Hương có
vẻ bận rộn hơn vì phải làm thêm công việc hàng ngày
của bác Tư.
Độ một tuần sau biến cố, một
buổi tối, chị Hương đến phòng bảo nó lên nhà trên
gặp cậu nó. Nó không ngạc nhiên vì trước đây cậu
vẫn thường gọi nó lên để hỏi việc học, sách vở
giấy bút và cho nó tiền đóng học phí và tiền bỏ túi.
Nhưng lần nầy thì nó linh cảm thấy câu chuyện của cậu
quan trọng hơn nhiều.
Quả thực, nó vừa ngồi vào ghế
thì cậu lên tiếng ngay:
- Vinh, cậu gọi con lên đây để
nói một chuyện quan trọng.
Cậu ngưng nói như để tìm lời
thích hợp hay để nó bắt đầu chú ý rồi mới tiếp
lời:
- Năm nay con mười sáu tuổi rồi.
Cậu nghĩ rằng con đã lớn, có thể lớn hơn những đứa
bạn cùng lớp sống trong gia đình bình thường. Vì vậy,
cậu muốn bàn thẳng công việc với con.
Ông nhìn vào mắt nó và nói
tiếp:
- Cậu được lệnh chuyển về
làm việc tại Rạch giá. Con lớn rồi, cậu không cần
phải giấu giếm. Việc thuyên chuyển của cậu có liên
quan đến chuyện anh Tư là Việt minh bị bắt trong nhà
nầy. Nhưng đó là chuyện của ngưòi lớn, con không cần
phải để tâm.
Cậu lại ngừng nói. Nó biết
cậu đang lựa lời để vào thẳng vấn đề chính yếu.
Nó ngồi im lặng chờ đợi. Cậu nói tiếp:
- Cậu và mợ vừa bàn về chuyện
sống của hai anh em con mà chưa dứt khoát được. Vì vậy,
cậu phải hỏi ý của con trước khi quyết định. Ngày
mai, cậu đi nhận nhiệm sở mới. Ngôi biệt thự này là
nhà chức vụ, mợ và các con có thể ở lại trong một
thời gian tối đa là hai tháng rồi phải giao lại cho
người khác. Tại Rạch giá, chưa biết có nhà chức vụ
hay không nên chỗ trú ngụ của gia đình chưa biết trước
được. Vì vậy, cậu mợ không đem theo hai con về Rạch
giá được.
Ông trầm ngâm một lúc rồi tiếp
lời với giọng buồn bã:
- Khi cậu về làng thì mẹ con đã
mất. Tuy nhiên, cậu đã một lần hứa với linh hồn nó
là sẽ lo cho hai con ăn học đến nơi đến chốn.
Vinh thấy mắt cay cay khi nghe cậu
nhắc đến linh hồn của mẹ mình. Cậu đáng thương và
đáng kính biết là dường nào! Lòng thương chân thành đó
đã dằn vặt nó kể từ khi anh Loan dẫn nó vào con đường
cách mạng. Nó thương cậu nó nên muốn xa rời cậu. Nó
không muốn đối đầu trực tiếp với người họ hàng
thân thiết duy nhất của anh em nó trong cuộc đời nầy.
Nó cần phải xa cậu nó, không phải chỉ là chuyện tình
cảm mà còn là ước mơ của nó trong công tác cách mạng
nữa.
Thực vậy, sống với cậu mợ,
nó bị ràng buộc chặt chẽ về giờ giấc, không được
tự do thoải mái để nhận những công tác quan trọng hơn
là thỉnh thoảng nhận một vài tờ truyền đơn đem rải
trong trường. Không, nó muốn làm một công việc quan
trọng hơn nhiều, để xứng đáng là một thành viên của
cách mạng. Đã vài lần nó nói điều đó với anh Loan
thì anh lại đem cái “trường kỳ” ra để trấn an nó
và nhắc nhở nó phải cẩn thận hơn để bảo toàn bí
mật. Nó rất muốn đi khỏi nơi nầy. Nhưng đi đâu? Về
Sài gòn là tốt nhất. Thực ra, ở miền Nam nầy, ngoài
Mỹ tho ra, nó chỉ còn biết Sài gòn mà thôi.
Nghĩ như thế, nó ngồi thẳng
dậy, cố lấy giọng thực lễ phép:
- Thưa cậu, con muốn về Sài gòn
học như anh con.
Cậu lắc đầu, buồn bã:
- Chi phí cho anh con học ở Sài
gòn bấy lâu nay là một gánh nặng cho cậu mợ. Nay cậu
bị thuyên chuyển về Rạch giá, lương bổng không bằng
ở đây nên có lẽ phải tính lại việc học của nó. Ở
Sài gòn đi học thì tốt lắm nhưng chi phí thì rất cao.
Cậu ngừng lại, xua tay rồi mới
nói tiếp:
- Thôi, việc học của anh con, để
cậu mợ lo. Hôm nay, cậu muốn bàn chuyện sống của hai
anh em con. Cần phải bàn gấp để có ngay một giải pháp
vì ngày mai cậu phải lên đường rồi. Cậu tính thế
nầy, con nghe kỹ và cho cậu biết ý kiến. Cậu sẽ tìm
một nhà quen gởi hai anh em ở lại tại Mỹ tho nầy, tiếp
tục đi học. Vài tháng nữa, con học xong trung học đệ
nhất cấp, cậu sẽ nhờ người quen tìm việc cho con đi
làm. Lúc đó, con mới mười bảy tuổi, học hành chưa
tới nơi tới chốn mà phải ngưng học đi kiếm ăn; điều
đó làm cậu buồn lắm.
Cậu thở dài:
- Cậu không làm tròn lời hứa
với linh hồn của mẹ con. Tình thế của cậu xoay theo
một hướng xấu, biết làm thế nào hơn được. Đó, cậu
tính cho hai con như thế, con nghĩ thế nào?
Vinh ngập ngừng:
- Dạ, cậu nói thì con nghe vậy
chứ đâu có biết gì mà có ý kiến.
Cậu lại thở dài:
- Thôi con về phòng đi. Ngày mai
cậu đi Rạch giá. Tình hình dưới đó cũng rối ren lắm,
chưa biết lúc nào cậu về được. Mọi việc nhà và
việc của hai anh em con, mợ sẽ thu xếp.
Cậu đứng dậy vỗ vai nó. Nó
cũng đứng dậy theo.
Nó về phòng trông thấy em nó đã
ngủ say, nét mặt thơ ngây thực là thanh thản. Nó bỗng
thèm được vô tư như em nó.
Mấy ngày tiếp theo, không khí
trong nhà như trĩu xuống trong một nỗi buồn da diết.
Ngôi nhà đồ sộ thênh thang trở nên im lìm. Thằng Tân
và con Hiền không còn chơi đùa với nhau nữa. Con bé đi
học về là rúc vào phòng với mẹ và với em bé. Bà Danh
thì dã dượi mệt nhọc, mọi việc bếp núc, săn sóc nhà
cửa đều giao cả cho chị Hương. Vườn hoa ở sân trước
bắt đầu đượm vẻ tiêu điều. Không có bàn tay chăm
sóc của bác Tư, những lá cây rũ xuống vì nhớ thương.
Những đóa hoa đã nở, màu sắc tàn phai, cố bám lấy
chiếc cành khẳng khiu, gục đầu xuống dưới sức nặng
của ưu phiền.
Ông Danh đi rồi, ngôi nhà càng
thêm nét thê lương. Không còn tiếng xe lạo xạo lăn trên
con đường trải sỏi, không còn bóng dáng người đàn
ông cao gầy bước xuống xe khoan thai đi vào nhà. Ông đi
rồi, mang theo hầu hết sinh khí của ngôi nhà.
Mỗi ngày, thằng Vinh vẫn cùng
em đến trường, nhưng về đến nhà thì nó hết sức
buồn rầu và xao xuyến trong lòng. Rồi đây, anh em nó sẽ
ra sao? Ở lại Mỹ tho như sự sắp đặt của cậu Danh?
Không, nó không muốn sống tại
nơi nầy nữa. Nó cảm thấy thành phố nầy trở nên chật
hẹp và tù túng. Đó chỉ là một không gian nhỏ nhoi chứa
ngôi nhà của cậu nó với những con đường mà ngày hai
buổi nó đi về. Ngoài ra, Mỹ tho không còn gì nữa để
tạo ra cho nó một tình cảm lưu luyến quê hương như khi
nó còn sống ở làng quê của nó.
Nó mong được về sống tại Sài
gòn. Sài gòn đã từng gây cho nó sự choáng ngợp trong
buổi chiều nó từ tàu thủy bước lên bờ. Trong gần
hai năm ở đây, nó có dịp theo cậu nó về Sài gòn vài
lần. Cái thành phố mênh mông đó thực vô cùng hấp dẫn
đối với nó.
Mấy hôm liên tiếp, nó sống
trong trạng thái bồn chồn bất ổn. Nó cần gặp anh
Loan, nhất thiết phải gặp anh Loan để tuôn hết mọi ý
nghĩ trong đầu nó ra. Anh là người duy nhất trên đời
nầy mà nó có thể tâm sự và cũng là người có thể
cho nó lời khuyên đúng đắn nhất trong hoàn cảnh nầy.
Nó đã trở lại con đường quen thuộc nhiều lần, nhưng
căn nhà có cánh cửa sơn xanh vẫn đóng im ỉm, nó lại
ra về với tấm lòng nặng trĩu.
Một buổi chiều trên đường
về, nó chợt nghe giọng nói quen thuộc, nhỏ nhưng rõ
ràng sau lưng nó:
- Vinh, anh Loan đây. Cứ tự nhiên
đi tới cách sau anh một khoảng vừa đủ.
Bóng người thanh niên bước
nhanh qua mặt, nó mừng rỡ cắm cúi theo sau, thẳng bước
trên con đường quen thuộc. Đến gần nhà, anh đưa tay
sau lưng, khoát bảo nó dừng lại. Anh đi thẳng đến căn
nhà có cửa sơn xanh, mở khóa, hé cửa bước vào và đưa
tay ngoắt nó. Nó vội đi tới, lách nhanh vào nhà. Anh đóng
cửa lại ngay rồi gài chốt bên trong.
Căn nhà đủ sáng, nhờ những
khe lá sách và lỗ thông gió bên trên. Hai người ngồi
xuống ghế đối diện nhau. Nó định lên tiếng thì anh
Loan ngăn nó lại:
- Anh hiểu những điều em thắc
mắc. Nhưng để anh nói trước. Mình không có nhiều thì
giờ đâu.
Tuy thế, anh cũng móc bao thuốc
ra châm lửa rít một hơi dài, ngửa mặt phà khói lên
trần nhà. Vinh im lặng theo dõi. Nó biết đó là thói quen
của anh trước một câu chuyện quan trọng mà anh muốn
trình bày. Cử chỉ nầy như đang dồn nén ý nghĩ thành
lời để bắt đầu ào ạt tuôn ra, như một vận động
viên chạy nhanh cần làm một động tác chuẩn bị trước
khi phóng tới. Sau hơi thuốc, anh bắt đầu nói:
- Việc đồng chí Tư Thọ bị
bắt tại nhà thì em đã biết rồi. Anh và đồng chí Thọ
cùng trong chi bộ nên khi anh Thọ bị bắt thì anh phải
lánh mặt. Thôi đó là chuyện cá nhân, anh nói sơ qua cho
em đỡ thắc mắc thôi. Hôm nay anh phải gặp em vì hai
điều cần thiết. Một là trình bày cho em rõ nghị quyết
của cấp trên, hai là thảo luận để thu xếp công tác
cho em.
Vinh biết hôm nay, mình sẽ giải
quyết việc vô cùng quan trọng với anh Loan nên hết sức
tập trung chú ý để lắng nghe. Anh Loan nói tiếp, giọng
nhỏ nhưng rõ ràng:
- Vừa qua, cả nước sục sôi
với khí thế đấu tranh. Ở Sài gòn, các giới đã cùng
sinh viên học sinh xuống đường rầm rộ buộc địch
phải nổ súng giết chết trò Trần văn Ơn. Cả nước
đều phẫn uất và dư luận thế giới đồng loạt lên
án hành vi dã man nầy. Ở tại địa phương mình, tỉnh
ủy cũng đã phát động cao trào đấu tranh trong giới trí
thức và các giới khác để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh
sôi nổi ở Sài gòn. Đó là thắng lợi vô cùng to lớn
của nhân dân ta. Tuy nhiên thắng lợi nào cũng phải có
cái giá phải trả. Cái giá đó là nhiều đồng chí bị
lộ mặt và bị địch bắt. Địch hoảng hốt, tăng cường
gắt gao sự dò xét theo dõi, canh tuần khủng bố nên
nhiều cơ sở của ta bị lung lay. Do đó, anh tạm lánh mặt
hai tuần nay mà không kịp báo cho em hay. Nay thì tình hình
tạm lắng xuống đôi chút, tuy nhiên vẫn phải đề cao
cảnh giác.
Nghe đến đây, Vinh bất giác
hướng tầm mắt về phía cánh cửa đóng kín. Anh Loan
hiểu ý nên tiếp lời:
- Không sao. Mấy ngày nay, anh đã
đứng từ xa quan sát căn nhà nầy, thấy không có gì đáng
nghi, nên anh mới dám trở lại. Tuy vậy, anh đã bỏ đi
trong nửa tháng, nay đột nhiên mở toang cửa và hai anh em
mình ngồi nói chuyện với nhau, ắt thế nào hàng xóm
cũng chú ý. Đóng cửa im ỉm như mọi ngày vẫn tốt hơn.
Bây giờ anh trình bày đến phần công tác của mình đây.
- Dạ, nhưng anh cho em hỏi thêm
điều nầy nữa. Trong hai tuần lánh mặt thì anh có đi
làm việc hay không?
- Đã gọi là lánh mặt thì sao
còn dám đến sở làm. Tuy vậy, anh cũng đã nhờ một
đồng nghiệp nộp đơn xin về quê ngay vì mẹ đau nặng
và đang hấp hối. Tội nghiệp, bà già còn mạnh khỏe
dưới đó chớ có đau ốm gì đâu. Thôi, đó là chuyện
nhỏ. Em hãy nghe anh nói điều quan trọng đây. Vì cơ sở
đã bị vỡ nên anh được lệnh chuyển công tác đi nơi
khác, không còn ở thành phố nầy nữa nên hôm nay anh
chấm dứt liên hệ với em. Sẽ có một người khác đến
tiếp xúc và em sẽ tiếp tục công tác với người đó.
Anh cho em biết mật khẩu để nhận diện người đó.
- Nhưng….
Anh Loan nhìn nó một cách nghiêm
trang và ngắt lời:
- Không nhưng gì cả, đây là
quyết định của lãnh đạo.
Giọng nó cương quyết:
- Anh hãy cho em nói. Em sắp rời
khỏi ngôi nhà đang ở rồi. Đời sống của chúng em chưa
biết định đoạt thế nào. Đời sống mà còn lửng lơ
thì làm sao làm sao hoạt động được.
Anh Loan ngạc nhiên:
- Vậy hả, tại sao?
Nó kể cho anh Loan nghe việc cậu
nó bị khẩn cấp thuyên chuyển về Rạch giá và nguyện
vọng tha thiết của nó là về công tác tại Sài gòn.
Nhưng nếu về đó thì anh em nó lấy gì để sống?
Anh Loan ngồi chú ý nghe và suy
nghĩ. Sau cùng anh kết luận:
- Sau cao trào tranh đấu vừa qua,
các cơ sở lãnh đạo sinh viên học sinh ở Sài gòn bị
thiệt hại nhiều. Nếu đưa được em về đó thì cũng
kể như một sự bổ sung đáng quý. Anh sẽ trình bày
nguyện vọng của em với cấp lãnh đạo. Các đồng chí
đó có lẽ sẽ chấp thuận và sẽ tạo điều kiện cho
em sinh sống và công tác ở Sài gòn. Đáng lẽ hôm nay là
buổi gặp gỡ cuối cùng của anh em mình, nhưng bây giờ
kế hoạch có khác đi rồi. Tuần sau, em sẽ đến đây
một lần nữa, cũng vào giờ nầy. Thôi, em về đi.
Anh Loan nói xong đứng dậy mở
hé cửa. Vinh lách ra và trở về nhà, lòng khấp khởi
mừng thầm. Nó không ngờ chiều nay lại gặp anh Loan và
sự ước mong bấy lâu của nó nay trở thành quá cận kề
gần như trước mắt, nó chỉ cần đưa tay ra là nắm bắt
được. Nó rất tin tưởng lời hứa của anh Loan. Cách
mạng có thừa khả năng để giải quyết cho anh em nó.
Nó trở lại học hành chăm chỉ
và mong cho chóng hết một tuần để gặp lại anh Loan.
Thì giờ chầm chậm trôi qua rồi cũng đến ngày hẹn.
Anh Loan nói vắn tắt rằng nó đã được chấp thuận cho
về nhận công tác tại Sài gòn và anh Loan cũng tìm được
người bảo bọc cho hai anh em nó ít nhất trong một thời
gian nào đó.
Nó về nhà và liên tiếp trong
hai ngày, nhiều lần năn nỉ mợ cho phép nó về Sài gòn
đi học. Để thuyết phục mợ chấp nhận, nó đã bịa
chuyện ra rằng thầy dạy học của nó thương nó nên có
ý nhận hai anh em về sống với cha mẹ của thầy ở Sài
gòn. Nó còn bảo người nhà của thầy sẽ đến bến xe
để đưa nó đi.
Mợ là một người nội trợ đảm
đang với những công việc lặt vặt hàng ngày và chưa
mảy may chịu khổ với cuộc chiến tranh đang tàn phá đất
nước. Sau khi đậu tú tài xong, bà từ giã cuộc đời
học sinh để trở thành người vợ hiền của một công
chức cao cấp. Thành phố nầy, ngôi nhà sang trọng nầy
là một pháo đài vững chắc bảo vệ bà và các con. Bom
đạn rơi đâu đó bên ngoài vòng đai phòng thủ của
thành phố, bà không quan tâm mấy. Những cuộc biểu tình,
đình công bãi thị, khủng bố, ám sát cũng có gây cho bà
xúc động nhưng không lớn lắm nhất là khi bà bước qua
cánh cổng để vào nhà. Bà cảm thấy thực sự an toàn
bên trong bức tường rào cao nghệu có gắn miễng chai bén
ngót bên trên.
Cho nên, việc ông Tư Thọ đột
nhiên bị bắt ngay trong nhà, dẫn đến sự thay đổi
nhanh chóng nhiệm sở của chồng trở thành biến cố quan
trọng đầu tiên trong đời bà. Tinh thần bà suy sụp rõ
rệt, nhưng bà cố gượng dậy, vì bà hiểu rằng, không
còn người đàn ông rường cột trong nhà thì chính bà
phải đảm đương sự thu xếp sao cho đừng phải ân hận
về sau. Việc nhà thì chẳng có gì khó lắm nhưng gay go
là việc lo cho hai đứa cháu của chồng có chỗ ăn chỗ
ở tại cái thành phố mà bà không có bạn bè thân thiết
và luôn luôn nhận được cái nhìn không mấy thiện cảm
của người chung quanh. Bà biết sự cưu mang hai đứa trẻ
mồ côi là một đòi hỏi lương tâm của chồng nên đó
là một vấn đề rất nhạy cảm đối với tình nghĩa vợ
chồng. Vì vậy, bà rất lo âu.
Khi nghe thằng Vinh cương quyết
xin về Sài gòn mà không cần sự trợ cấp, bà đã sửng
sốt, đồng thời nghe gánh nặng trên vai bà nhẹ đi rất
nhiều. Bà đã lưỡng lự suốt hai ngày và cuối cùng gật
đầu ưng thuận dù bà biết rằng điều nầy sẽ tạo
nên nỗi ray rứt khó nguôi trong tấm lòng nhân hậu của
chồng bà. Bà đã trao cho thằng Vinh một số tiền khá
lớn với nhiều lời ân cần dặn dò khuyên bảo nó.
Buổi sáng, khi bà chuẩn bị đưa
hai cháu ra bến xe thì con bé Hiền đòi đi theo. Mấy hôm
rồi, biết thằng Tân cùng anh sẽ rời khỏi nơi đây,
con bé buồn bã ra mặt. Từ gần hai năm rồi, thằng Tân
là bạn thân thiết của nó trong nhà nầy. Nay thằng Tân
đi luôn, chẳng còn ai chơi đùa với nó nữa. Nó mang theo
ra bến xe cây “bút nguyên tử”, món đồ vật quý nhất
của nó. Đây là loại viết lần đầu tiên được nhập
từ châu Âu, anh Hai nó đã mua ở Sài gòn đem về làm quà
sinh nhật cho nó. Thằng Tân thích cây viết nầy vô cùng.
Khi ra tới bến xe, bé Hiền trao cây viết cho thằng Tân
mà mắt rưng rưng làm mọi người có mặt đều cảm
động.
Thằng Vinh đứng nhìn quanh và
mừng rỡ khi thấy một người bàn bà mặc áo trắng,
quấn khăn rằn trên đầu đi đến. Bà nầy cúi chào mợ
Danh và hỏi nó có phải là Vinh không. Nó gật đầu và
nói với mợ rằng đây là người nhà của thầy nó và
xin phép cho anh em nó theo người đàn bà nầy lên xe. Bà
Danh yên tâm chia tay, ra khỏi bến xe. Bé Hiền vừa đi vừa
quay lại nhìn rồi đưa tay áo lên lau nước mắt.
Bà Danh ra về, cảm thấy nhẹ
nhõm trong lòng. Tuy nhiên, khi bước qua cổng, bà bỗng
đứng yên ngẩn ngơ nhìn gian phòng nho nhỏ trống trải,
cửa mở toang, trong đó, hơn hai năm rồi, hằng ngày bà
trông thấy hai đứa bé lúc thúc bên nhau và hằng đêm,
trong ánh đèn vàng vọt, hai mái đầu thơ dại cắm cúi
trên trang vở học trò. Bà Danh thở dài, rơm rớm nước
mắt, quay lại bước nhanh lên thềm của ngôi biệt thự.
*
* *
Chiếc xe đò cũ kỹ rú máy từ
từ ra khỏi bến. Khi xe ra khỏi Trung lương, người đàn
bà lôi trong giỏ hai chiếc bánh trao cho hai đứa và nói:
- Ăn cho đỡ đói đi hai con. Xe
chạy kiểu nầy thì đến trưa mới về đến nhà. Một
hai giờ chiều mới có cơm ăn.
Hai đứa bóc bánh, vừa ăn vừa
nhìn ra hai bên đường. Những đám ruộng xanh mơn mởn
chạy giật lùi, xa xa hàng cây bao bọc xóm làng sáng rực
dưới ánh nắng ban mai. Thằng Vinh cảm thấy phơi phới
trong lòng. Nó quay mặt nhìn người đàn bà đi chung. Sáng
nay vội lên xe, nó chưa kịp quan sát gương mặt của bà.
Nó hài lòng vì cái nét chân thật hiện rõ trong đôi mắt
hiền lành, trong cử chỉ chậm rãi và thân mật của bà.
Đó là người đàn bà mà anh Loan đã cho nó biết trước
trong lần gặp gỡ cuối cùng. Anh đã nói với nó:
- Sẽ có một người đàn bà
quấn khăn rằn đợi hai em ở bến xe. Hai em sẽ theo bà
nầy lên xe và về ở tại nhà bà ấy. Mọi việc sau đó
sẽ do bà lo liệu.
Nó thầm cảm ơn tổ chức cách
mạng thực là chu đáo đối với anh em nó. Điều đó làm
tăng thêm lòng nhiệt thành của nó đối với cách mạng.
*
* *