Tôi
kéo áo lên lau nước mắt và trở vào nhà. Thu Hồng cũng
vừa thức dậy. Nàng nhìn tôi, nhoẻn miệng cười, nụ
cười trẻ thơ tươi mát như không khí bình minh. Nụ cười
trẻ thơ đó nhanh chóng xua tan mọi phiền não, tôi bỗng
thấy lòng trở nên nhẹ nhàng; nàng là tất cả lý do để
tôi tiếp tục cuộc đời trên trần thế. Tôi ngồi xuống
mép giường, nắm lấy tay nàng. Tôi phải nói cho nàng
biết phần nào giây phút lịch sử vô cùng trọng đại
mà nàng đang trải qua, dù điều đó có thể bất lợi
cho tâm trí nàng. Do đó, tôi cố lấy giọng bình thản
giải thích cho nàng hiểu chiến tranh đã chấm dứt, hòa
bình đang trở lại, không còn tiếng súng, không còn thù
hận, không còn giết chóc nữa. Nàng mỉm cười nhưng
trong cái nhìn vẫn đầy ắp lo âu.
Một
lúc sau, tôi mở máy thu thanh. Sau những tin tức và những
lời bình luận lộn xộn, tiếng ông tổng thống cuối
cùng của miền Nam chậm rãi đọc lời tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện, rồi tới thông cáo của ông tướng
nào đó yêu cầu mọi quân nhân buông vũ khí. Tôi nghĩ
rằng, sau khi tuyên bố xong, hai ông ấy sẽ tự tử chết
để đỡ tủi cho linh hồn của đồng đội đã hi sinh
ngoài chiến địa.
Tôi
nằm xuống, nhắm mắt lại, tay tôi nắm chặt lấy bàn
tay mềm mại của Thu Hồng. Một lát sau, tôi mở mắt ra,
thấy nàng đã nghiêng đầu nhìn tôi đăm đăm. Có lẽ
nàng đã hiểu được ý nghĩa của giây phút lịch sử
nầy. Tôi ngồi dậy ngắm gương mặt nàng. Kể từ bây
giờ, tôi đã mất tất cả, chỉ còn lại tấm thân tàn
phế của nàng mà thôi. Lần đầu tiên kể từ khi nàng
ngã bệnh, tôi cúi xuống đặt môi mình vào môi nàng. Kỳ
lạ thay, cánh tay nàng từ từ đưa lên và rơi xuống, mấy
ngón tay lùa vào tóc tôi.
Sau
lời tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh, những kẻ
chiến bại quăng vũ khí để tìm về với gia đình. Từ
trong nhà, tôi có thể nhìn thấy nhiều người tất tả
đi ngang qua. Có người sải bước trên xa lộ; có người
tránh xa những đoàn quân xa của cộng quân đang tiếp tục
nối đuôi kéo vào thành phố, nên họ len lỏi trên các
đường mòn hai bên xa lộ. Họ ăn mặc lôi thôi lếch
thếch. Có người còn giữ nguyên bộ quân phục nhưng áo
ngoài quần, chân trần, chẳng giày chẳng dép. Có người
ở trần nhưng vẫn mặc nguyên chiếc quần dài của lính,
lại có người mặc áo lính với chiếc quần đùi cũn
cỡn.
Buổi
trưa cuối mùa nắng, mặt trời như thiếu như đốt, vài
người ghé vào nhà tôi xin nước uống rồi vội vã ra
đi. Tôi mang cả ấm nước to cùng mấy chiếc ly để mời
họ. Tôi lui cui rót nước và khi ngẩng lên tôi bắt gặp
cái nhìn châm bẩm của một người trẻ tuổi. Tôi nhìn
lại và không nhận ra nét quen thuộc nào. Mọi người
uống nước xong thì nói lời cám ơn rồi bỏ đi. Được
vài bước, người trẻ tuổi quay lại một mình. Tôi hơi
ngạc nhiên, đứng im chờ đợi. Có lẽ anh bạn nầy cần
một bữa ăn hay một ít tiền để về quê. Điều nầy
thì tôi sẵn sàng chia sẻ trong cơn hoạn nạn.
Anh
ta đã đến gần tôi, giọng ngập ngừng:
-
Ông có người bà con nào tên là Hưng không?
Tôi
giật mình, thủ thế:
-
Chú muốn nói tới Hưng nào? Đời nầy có thiếu gì Hưng.
Anh
ta tiếp lời, giọng thực rõ ràng:
-
Đại úy Hưng, thủy quân lục chiến.
Tôi
nghe như sét nổ bên tai. Giọng nói tôi đứt đoạn:
-
Anh hỏi ông ta để làm gì?
-
Em cùng tiểu đoàn với ông ấy. Đại úy Hưng là đại
đội trưởng đại đội Một còn em là lính đại đội
Hai.
Tôi
thở dài, nắm lấy hai vai anh ta:
-
Chính tôi là Hưng đây nhưng từ lâu không còn là đại
úy nữa.
Anh
ta mừng rỡ:
-
Đúng rồi, em thấy đại úy là nhận ra ngay, mặc dù đại
úy khác lúc trước rất nhiều. Em là hạ sĩ Chiến. Em
mới về tiểu đoàn lại ở khác đại đội nên đại úy
không biết em. Em thì biết đại úy. Sĩ quan tiểu đoàn
đâu có mấy người; hơn nữa, đại đội Một lại ngon
lành nhất tiểu đoàn, ai mà không biết.
Tôi
rất cảm động nhưng cũng phải ngắt lời để nhắc cái
anh hạ sĩ lắm mồm nầy:
-
Tôi không còn là đại úy nữa. Chú gọi tôi là Hưng được
rồi.
Chiến
nhìn quanh rồi bảo:
-
Không, cho em gọi đại úy một lần nầy nữa thôi. Bắt
đầu ngày mai, gặp mọi người, già trẻ lớn bé em đều
gọi là anh em.
Tôi
cười:
-
Và gọi là đồng chí nữa chứ.
Chiến
cười ha hả một cách sảng khoái. Tôi nói tiếp:
-
Không đợi đến ngày mai. Ngay bây giờ, tôi đã là thường
dân từ lâu rồi.
-
Em biết, đại úy mất tích gần một năm rồi, cả tiểu
đoàn, ai cũng tiếc. Đại đội Một là đại đội chủ
lực của tiểu đoàn, đứng mũi chịu sào. Đại đội
Một tan rã, tiểu đoàn mình thành tiểu đoàn què, đánh
hết ngon.
Bỗng
dưng, tôi nổi tính tò mò:
-
Tiểu đoàn bị què có lâu không?
-
Đâu khoảng hai tháng thì tái lập lại đại đội Một
với tụi tân binh và lính đơn vị khác bổ sung. Đại
đội Một hết còn thiện chiến như xưa, đại đội Hai
của em trở thành chủ lực, bị xỉ vào những chỗ độc
địa nên hao bộn.
Tôi
tiếp tục tò mò:
-
Đại đội Một được tái lập, ai là đại đội trưởng?
-
Trung úy Tánh.
Tôi
hỏi dồn:
-
Trung úy Tánh hả? Hiện đang ở đâu, anh có gặp lại
không?
-
Trung úy Tánh chết rồi.
-
Trời ơi!
Tôi
nghe rúng động cả tâm can. Tánh là bạn đồng ngũ vô
cùng thân thiết của tôi. Chúng tôi đã cùng chia sẻ gian
nguy, chia sẻ tâm tình trong bao nhiêu năm trời ở nơi lằn
tên mũi đạn. Với giọng run run, tôi hỏi tiếp:
-
Trung úy Tánh tử trận tại đâu?
-
Không phải tử trận mà tự tử chết.
-
Trời hỡi! Tự tử? Có phải tự tử khi nghe lệnh buông
súng đầu hàng vô điều kiện không?
Chiến
cười:
-
Không phải đâu. Trung úy Tánh tự tử tháng trước, còn
lệnh buông súng mới ban ra sáng nay thôi.
-
Ừ nhỉ, đầu óc tôi rối mù rồi. Tại sao Tánh tự tử?
-
Để em kể đầu đuôi cho đại úy nghe. Ít lâu sau khi đại
úy mất tích, tiểu đoàn di chuyển ra Quảng trị chận
Việt cộng tấn công vào tỉnh lỵ. Họ đông và mạnh
quá, mình chận không nổi nên rút dần vào Huế. Rồi
cũng phải bỏ Huế luôn, chạy xuống Thuận an, giành nhau
xuống tàu để vào Sài gòn. Thực là kinh khủng. Nhiều
đứa dùng súng đi làm bậy làm bạ thực nhục nhã. Phần
lớn tụi làm bậy lại là lính thủy quân lục chiến.
Trung úy Tánh thấy một thằng thủy quân lục chiến thuộc
đơn vị khác đang đè môt bà già ra cướp của. Gần đó,
nhiều thằng khác cũng đang làm chuyện bỉ ổi. Trung úy
Tánh hét to bảo nó buông bà già ra. Nó không buông mà còn
ngẩng lên chửi trung úy một cách tục tĩu. Trung úy rút
súng, lên đạn, chĩa về phía nó. Nó bỗng nghệt mặt ra
rồi la lớn: “Mày giết tao đi. Mày nhìn kia. Mày có thể
giết hết hay không?”. Lúc đó, tôi đứng sau lưng trung
úy. Ông nhìn quanh, tay cầm súng run run, rồi đột nhiên
quay họng súng vào thái dương mình và bóp cò. Em biết
trung úy Tánh không nỡ giết đồng đội của mình dù bây
giờ nó là thằng ăn cướp đáng chết.
Tôi
nghe đầu mình như bị búa tạ đập vào. Tôi đưa tay
chận Chiến lại:
-
Thôi chú đừng kể nữa, đủ rồi.
-
Không, đại úy phải để cho em kể hết. Chỉ một ít
thằng làm bậy mà mọi người thù ghét cả binh chủng
mình thì chịu sao nổi. Xương máu mình đã đổ ra biết
bao nhiêu mà kể. Mấy thằng đó, trong phút chốc đã làm
tiêu tan danh dự của người sống cũng như của người
đã hi sinh. Cũng may, về đến Vũng tàu, quân cảnh bắt
được hầu hết những thằng khốn nạn đó và xử tử
tại chỗ. Chính những ông quân cảnh đó đã kịp thời
cứu vớt danh dự cho cả quân đội mình. Linh hồn trung
úy Tánh chắc cũng được an ủi phần nào nơi chín suối.
Tôi
ngồi xuống đất, gục mặt giữa hai đầu gối. Một bàn
tay đặt trên vai tôi, cùng một giọng nho nhỏ sát bên
tai:
-
Đại úy đừng buồn nữa. Mất hết rồi chứ đâu chỉ
riêng bạn của đại úy. Thôi em chào đại úy, em phải
về quê.
Tôi
ngẩng lên:
-
Em về đâu?
-
Quê em ở Phan thiết.
Tôi
tò mò hỏi thêm:
-
Tại sao bây giờ em mới về quê? Tôi nghe tin tiểu đoàn
tan rã tại Thuận an cách nay hơn một tháng rồi mà.
-
Đúng rồi, từ Thuận an, em được đưa vào Vũng tàu và
trốn về Sài gòn. Em vào trình diện ở quân vụ thị
trấn và nhất định xin về địa phương quân. Người ta
đồng ý vì chỗ nào cũng cần quân số. Vả lại để
cho lính thủy quân lục chiến lêu bêu ở ngoài thì thực
là nguy hiểm. Bây giờ, hòa bình rồi, muốn đi đâu thì
đi.
Lời
nói của Chiến làm tôi nghĩ đến nguyện ước tìm lại
hài cốt cha và anh của Thu Hồng mà em Thanh đã kể với
tôi hôm Tết. Tôi hỏi Chiến:
-
Khi em rời Huế có thấy thành phố bị tan nát như sau Tết
Mậu thân không?
-
Em không biết Tết Mậu thân ở Huế thế nào. Nhưng bây
giờ Huế gần như còn nguyên vẹn. Giặc chưa tới thì đã
chạy rồi, đánh đá gì đâu mà hư hại. Tức lắm đại
úy ạ. Mấy ông tướng quá hèn nhát. Nếu chịu ở lại
cùng chúng em, cương quyết đánh nhau tới cùng thì chưa
chắc mèo nào cắn mỉu nao. Thôi đại úy ở lại em đi
đây.
Tôi
cầm tay Chiến:
-
Em có cần tiền về xe không?
Chiến
nhìn gian nhà lá của tôi rồi nói:
-
Không, em còn chút đỉnh đủ để đi đường. Đại úy
nghèo lắm mà, em biết.
Nói
xong, Chiến quay lui và hối hả về hướng xa lộ. Có lẽ,
nó là đồng đội xưa cuối cùng mà tôi còn gặp mặt.
Tôi
trở vào nhà đến ngồi bên Thu Hồng, tìm những chuyện
vui kể cho nàng nghe. Đợi đến lúc thấy mặt nàng bình
thản, tôi mới báo tin một lần nữa cho nàng biết là
chiến tranh đã hoàn toàn chấm dứt và bắt đầu từ hôm
nay mình sống chung với chính quyền cách mạng. Tôi cũng
vẽ vời cho Thu Hồng thấy cuộc sống hòa bình trên đất
nước sau ba mươi năm chiến tranh dai dẳng. Thu Hồng có ý
vui vì những lời nói cố ý lạc quan của tôi. Trong thâm
tâm, tôi thành thực hi vọng một cuộc sống bình yên và
tốt đẹp với chính quyền cách mạng, dù mới bị choáng
váng vì nghe tin người bạn chiến đấu thân thiết nhất
không còn nữa. Tôi thành thực mong muốn ngày hôm nay là
một gạch ngang tách rời quá khứ với hiện tại cùng
tương lai. Một khi chiến trường đã im tiếng súng thì
cả hai miền Nam Bắc lại trở về với tình nghĩa đồng
bào chung giọng nói, chung huyết thống, chung tổ tiên.
Tối
hôm đó tôi ngủ một giấc thực ngon lành vì ý nghĩ đây
là đêm đầu tiên, sau biết bao nhiêu năm, không còn tiếng
súng nào trên đất nước thân yêu.
Sáng
hôm sau, Thanh xin đi Thủ đức để xem cuộc sống mới
với cách mạng ra sao. Tôi đồng ý ngay. Lúc về, em cười
thật tươi, kể cho tôi nghe lắm chuyện lạ lùng. Súng
ống, đạn dược vứt đầy đường. Mọi người đều
ra khỏi nhà. Khác với những ngày trước, hôm nay đường
phố đông đúc và ồn ào. Nhiều đám đông bu quanh nhìn
những anh bộ đội như những nhân vật từ trên trời
rơi xuống. Thanh cũng chở về một bao gạo khá to. Em bảo
có vài nơi người ta bán gạo thực nhiều và thực rẻ;
hỏi ra mới biết là dân chúng vào bửa kho để khiêng ra
bán.
Nghe
Thanh kể, tôi cũng háo hức muốn đi xem cho biết khung
cảnh ngày cách mạng thành công và nhất là nhìn tận mặt
những người lính cộng sản, trong vai trò kẻ chiến
thắng chứ không phải là những xác chết hay những tù
binh mà tôi đã từng thấy trên chiến địa trước đây.
Tuy nhiên, tôi chưa dám để Thu Hồng ở nhà với Thanh mà
đi trong lúc nầy. Cho nên khung cảnh ngày lịch sử, tôi
chỉ được biết qua lời kể của Thanh mà thôi.
Mặc
cho sự ồn ào náo nhiệt bên ngoài, căn nhà lá của tôi
vẫn tĩnh mịch êm đềm. Chiếc hầm trú ẩn đã được
lấp đầy, nền nhà trở lại phẳng phiu. Thu Hồng lại
được ngồi xe lăn và dạo chơi từ phòng trên xuống bếp
và chung quanh nhà.
Ngày
qua ngày, những biến đổi trong xã hội vẫn chưa ảnh
hưởng nhiều đến nếp sống của gia đình bé nhỏ chúng
tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn để tâm theo dõi qua làn sóng đài
phát thanh để kịp thời biết được những gì có liên
quan đến mình. Tôi hiểu rằng, với chính quyền cách
mạng, tôi không thể duy trì sự cô lập như những tháng
vừa qua.
Quả
thực, một tháng sau ngày chiếm được Sài gòn, ủy ban
quân quản ra lệnh cho sĩ quan quân đội bại trận trình
diện học tập. Tôi chăm chú theo dõi và vui mừng khi thấy
người ta chỉ gọi những người đã buông súng vào những
ngày cuối cùng. Tôi là sĩ quan đã đào ngũ từ gần một
năm trước thì không thấy nói đến. Danh từ “học tập
cải tạo” nghe hiền lành và đầy ân huệ không làm cho
tôi sợ hãi, nhưng tôi không muốn xa Thu Hồng một phút
nào, nhất là trong những ngày nầy.
Tôi
yên tâm ở nhà, quanh quẩn với chiếc xe lăn của Thu
Hồng. Mọi việc tiếp xúc với bên ngoài giao cho Thanh lo
liệu. Mới mười sáu tuổi nhưng trông Thanh khôn ngoan,
biết ứng xử khá kịp thời nên tôi cũng an lòng. Bây
giờ, không còn sợ sự truy nã của an ninh quân đội,
không còn sợ sự rình rập của du kích ở xóm trong,
nhưng tôi cũng ngại đến chỗ đông người. Trong những
quyển sách tôi đọc trước đây, có vài quyển nói về
những thời kỳ cách mạng mới thành công, người ta
thường lợi dụng để trả thù trả oán. Rồi có cả
những kẻ cơ hội sẵn sàng hại kẻ khác để lập công,
hầu tiến thân với cái giá đau đớn mà người khác
phải trả.
Tóm
lại, tôi cố duy trì cuộc sống biệt lập, được ngày
nào hay ngày đó. Tuy nhiên, như tôi đã biết qua sách vở,
người cộng sản không chấp nhận quan điểm “đèn nhà
ai nấy sáng”, không cho phép ai sống biệt lập, ngoài
cộng đồng xã hội mà họ kiểm soát từng li từng tí.
Hiểu như thế nên tôi sẵn sàng chờ đợi. Tôi không đến
tìm họ, ắt họ sẽ đến tìm tôi.
Đúng
vậy, một ngày gần cuối tháng sáu, có ba người đàn
ông xăm xăm bước vào nhà tôi. Họ có những túi đeo vai
theo kiểu cán bộ. Quả thực, họ là cán bộ của chính
quyền cách mạng, đến hỏi tôi đã nộp “tờ khai gia
đình” của chế độ cũ chưa. Tôi trả lời là không có
vì tôi là lính đào ngũ của quân đội cộng hòa, phải
trốn tránh sự truy nã của an ninh quân đội. Họ nhìn
tôi bằng cặp mắt nghi ngờ cố hữu của họ. Sau đó họ
bảo tôi đến ủy ban cách mạng lâm thời để khai báo.
Tôi
y theo lệnh, sáng hôm sau đến trụ sở của chính quyền
mới thành lập. Từ hơn hai tháng rồi, hôm nay tôi mới
thấy tận mắt khung cảnh của xã hội bên ngoài. Mọi
thứ có vẻ mới mẻ và xa lạ. Các tiệm ăn, các cửa
hiệu gần như dẹp sạch. Không khí ngoài đường không
còn rộn rịp như tôi thường hình dung qua lời mô tả
của Thanh trong những ngày đầu. Tuy nhiên, biểu ngữ còn
giăng khắp nơi ngang qua các đường phố, cờ và khẩu
hiệu đỏ chói đầy trước cửa những căn phố cửa
đóng im ỉm hay khép hờ. Tôi vào ủy ban, người ta phát
cho tôi mấy tờ giấy có ghi chi chít nhũng chi tiết cùng
khoảng trống phải điền vào. Tôi vừa moi ký ức, vừa
suy nghĩ nên công việc kéo dài đến hơn một giờ mới
xong. Khi tôi ngẩng lên thì bắt gặp một gương mặt khá
quen đang ngồi làm việc trước chiếc bàn dành cho nhân
viên và cán bộ. Tôi cố nhớ lại; nếu gặp được
người quen đang làm việc ở nơi nầy thì đó có thể là
điều may mắn cho tôi. Cuối cùng, tôi nhớ ra rồi. Đó
là thầy Danh, đồng nghiệp với Thu Hồng.
Tôi
cũng nhớ lại, sau ngày cưới, một hôm, Thu Hồng có kể
cho tôi nghe về một ông thầy tên Danh vẫn theo tán tỉnh
nàng, có hôm vào tận nơi ở của hai chị em, khi còn trú
ngụ trong trường. Lúc đó, tôi không để tâm lắm đến
việc nầy vì tôi hoàn toàn tin tưởng tình yêu của Thu
Hồng. Song do tính hiếu kỳ pha lẫn tự cao tự đại, tôi
bảo nàng chỉ cho tôi biết con người đã thất bại
trong mưu toan trở thành tình địch của tôi. Nay tôi lại
gặp người nầy ở đây. Quả thực, đó là người quen
nhưng tôi cần phải nhanh chóng đi cho khuất mắt người
quen bất đắc dĩ nầy.
Tôi
lên xe, đạp về nhà, lòng thoáng lo âu, nhưng không rõ vì
lý do nào.
Suốt
buổi chiều, tôi cố gắng xua mọi ý nghĩ đen tối đang
chập chờn trong trí óc để giữ niềm vui nhẹ nhàng cho
Thu Hồng. Với tình hình nầy cần phải cố gắng làm cho
vợ tôi chóng bình phục.
Trong
những ngày cuối tháng tư đầy xáo động trước khi miền
Nam sụp đổ, dù tôi và Thanh cố giấu Thu Hồng những
biến đổi trầm trọng đang đến với xã hội miền Nam,
nhưng sự căng thẳng trên nét mặt và giọng nói của tôi
hình như đã tác động xấu đến tâm lý nàng mà hậu
quả là sự phục hồi như khựng lại. Tuy nhiên, hơn một
tháng qua, trong không khí hòa bình, sự phục hồi có vẻ
tiến triển khả quan trở lại. Nàng đã đưa được hai
tay về trước, các ngón tay nắm được những vật nhẹ
như một cái muỗng hay một cây bút. Các ngón chân rồi
cả hai bàn chân đã bắt đầu cử đông. Âm thanh phát ra
rõ ràng hơn, nàng có thể gọi tên tôi, tên Thanh và tên
mọi vật trong nhà. Tôi hi vọng trong vòng một năm nữa,
nàng có thể nói năng lưu loát và tự di chuyển được
trong xe lăn hay bước đi với cặp nạng mà tôi sẽ sắm
cho nàng. Viễn ảnh đó làm cho tôi vui sướng miên man.
Tuy
nhiên, mọi sự bỗng nhiên sụp đổ. Buổi sáng kế tiếp
ngày tôi đến ủy ban, có ba người mang súng dài theo sau
một người mang súng ngắn xăm xăm bước vào nhà, trong
khi Thu Hồng đang nằm nghỉ trên giường và tôi ngồi kế
bên nói chuyện. Thấy họ vào, Thu Hồng trố mắt ra nhìn,
mặt tái đi. Tôi quay lại, sững sờ.
Người
mang súng ngắn hỏi to:
-
Anh tên là Hưng, phải không?
-
Vâng, thưa ông, tôi là Hưng.
-
Anh là trung úy lính
thủy đánh bộ,
phải không?
Tôi
nghe tim mình đập thình thịch, cổ họng như thắt lại.
Tôi cố gắng giữ giọng tự nhiên để trả lời:
-
Vâng đúng. Nhưng đó là chuyện trước kia.
Người
đàn ông gằn giọng:
-
Ở ủy ban, anh đã không khai báo thành thật là trung úy
lính thủy đánh bộ
mà chỉ khai là quân nhân đào ngũ.
Tôi
đã nhanh chóng lấy lại được bình tĩnh, đáp lời:
-
Quả thực, tôi là quân nhân đào ngũ. Đã từ lâu, tôi
không liên quan đến cấp bậc và binh chủng thủy quân
lục chiến truớc đây nữa.
-
Anh cho tôi xem giấy tờ chứng minh anh là sĩ quan đào ngũ.
Phải là giấy chứng minh trước ngày giải phóng mới có
giá trị.
Tôi
trố mắt nhìn ông ta không hiểu ông ta muốn nói gì. Trên
thế gian nầy có một loại giấy tờ như thế sao? Trước
khi đào ngũ, tôi phải xin quân đội cấp cho một giấy
chứng minh hay giấy cho phép đào ngũ hay sao?
Thấy
tôi im lặng, ông ta mỉm cười một cách đắc thắng, rồi
lên giọng ngạo nghễ:
-
Lưới trời lồng lộng, anh không thoát được đâu. Nhân
dân tai mắt khắp nơi, đã phát hiện và tố cáo anh là
trung úy của cái bọn ác ôn nhất là lính
thủy đánh bộ.
Anh đừng hòng trốn tránh nhân dân để tiếp tục hành
động chống phá cách mạng. Anh đừng hòng gây thêm nợ
máu đối với nhân dân nữa.
Bỗng
nhiên, lửa giận trong người tôi bốc lên, tôi định lao
vào họ để nhận một tràng đạn cho xong đời. Nhưng
tôi kịp nhớ lại Thu Hồng đang ở sau lưng tôi. Người
vợ yêu quí của tôi, nàng cần sự yên tĩnh biết bao.
Tôi thở dài, chán nản:
-
Thôi, tùy các ông muốn lên án thế nào cũng được.
Gã
đàn ông ra lệnh:
-
Anh theo chúng tôi.
Gã
quay lại ba người mang súng dài, giọng đểu cáng:
-
Các đồng chí thỉnh ông trung úy lính
thủy đánh bộ nầy
về ủy ban.
Tôi
cúi xuống hôn Thu Hồng rồi đứng lên theo họ đi ra cửa.
Bỗng tôi nghe một tiếng thét nho nhỏ của Thu Hồng, tôi
định quay lại thì họ ấn vào lưng, đẩy tôi ra sân.
Tôi loạng choạng bước tới, nhưng tiếng thét cứ văng
vẳng bên tai. Tôi dồn cả sức mạnh vào hai cánh tay, gạt
phăng họ ra và lao vào nhà, quì xuống ôm chặt lấy Thu
Hồng. Tôi chờ đợi một tràng đạn và hai vợ chồng
chúng tôi cùng chết bên nhau.
Nhưng
không, họ nhào tới vồ lấy tôi, bẻ quặt hai cánh tay
tôi ra sau lưng và trói chặt lại. Người lôi, người
đẩy, họ kéo phăng tôi ra khỏi nhà. Một tiếng thét to
từ trong nhà vang ra; lần nầy không phải của Thu Hồng
mà là của Thanh. Sau tiếng thét là tiếng gào khóc của
em. Không biết trên cao xanh, ông Trời có nghe những tiếng
gào khóc nầy không.
Tôi
không còn nhìn rõ cảnh vật chung quanh. Tôi bước theo họ
như đi trong một cơn mộng du. Tôi cũng không nhớ mình đã
đi đường nào, đi tới đâu. Tôi chỉ lờ mờ nhận ra
rằng mình trải qua hai chỗ giam khác nhau và cuối cùng
đến đây với anh em.
*
*
*
HƯNG kể cho tôi nghe
đến đây thì ngừng lại. Câu chuyện kéo dài suốt gần
hai tuần lễ, chiếm tất cả buổi trưa và buổi chiều
sau giờ lao động. Trong những ngày chủ nhật nghỉ ngơi,
tôi và Hưng ngồi bên nhau ở góc hội trường trong khi
những bạn tù khác mải mê với những trò giải trí để
giết chết thời gian lê thê của những tháng ngày bị
giam cầm. Hưng thôi kể nhưng tôi biết câu chuyện đau
thương nầy vẫn chưa chấm dứt.
Đang
là giữa mùa mưa, bầu trời xám xịt mây đen, thỉnh
thoảng có những tia chớp lóe lên và tiếng sấm rền xa
xa trong không trung. Gió từng cơn thổi qua làm cho mái tôn
rung lên lộp cộp. Hưng ngồi nhìn ra ngoài trời, cặp mắt
buồn bã trên khuôn mặt hốc hác, đau khổ. Tôi nghe giọng
nói thê lương của anh:
-
Những hôm chuyển mưa, trong căn nhà bé nhỏ đó, tôi cùng
nàng nằm lắng nghe mái lá khua xào xạc, rồi tiếng mưa
rơi rào rào. Mưa rồi cũng có lúc tạnh, nhưng nỗi bất
hạnh của vợ tôi có bao giờ chấm dứt hay không?
Tôi
tiếp tục im lặng ngồi nghe anh nói. Hưng quay lại nhìn
tôi với nụ cười dễ làm cho người khác rơi nước
mắt:
-
Tôi đã làm cho anh buồn vì câu chuyện đời của tôi. Lẽ
ra, tôi không nên làm như thế. Trong trại cải tạo nầy,
mọi người đều mang vào đây tâm sự não nề của riêng
mình. Lòng ai cũng nặng trĩu niềm đau vì tai họa đổ ập
xuống cho gia đình và cho đất nước. Câu chuyện của
tôi làm tăng thêm gánh nặng trong lòng anh.
Tôi
cầm tay Hưng, cố bộc lộ niềm thân ái:
-
Anh Hưng, anh đừng nói vậy. Tôi cần nghe anh kể, mọi
người cần nghe nhau tâm sự, đó không phải là cách an
ủi nhau trong những ngày dài tù tội hay sao?
-
Cám ơn anh.
Hưng
vừa nói vừa lơ đãng cầm cái que nhọn vạch những vòng
tròn đan nhau trên mặt đất. Tôi hỏi anh:
-
Anh Hưng, có phải cái thằng thầy giáo mà anh gặp trong
ủy ban tố cáo anh không?
-
Tôi cũng nghi như vậy nhưng không có bằng chứng. Cũng có
thể không phải là nó mà là một người khác. Tôi đã
có nói với anh rằng khi cách mạng vừa thành công thì có
biết bao kẻ cơ hội lập công bằng cách tìm dịp tố
cáo người khác.
-
Nhưng tại sao nó tố cáo anh là trung úy trong khi anh đã
lên đại úy rồi. Không lẽ nó còn muốn bao che cho anh
hay sao?
-
Không phải vậy đâu. Đã là đứa ác đi tố cáo người
khác thì phải làm sao cho nạn nhân nặng tội thêm thì
lời tố cáo mới có giá trị. Sở dĩ nó tố tôi trung úy
vì nó không biết tôi đã lên đại úy. Anh không nhớ lời
tôi đã kể à? Cấp bậc đại úy, tôi nhận được sau
trận đánh chiếm ngọn đồi đẫm máu. Duy nhất chỉ có
đơn vị tôi biết. À còn tiểu khu Thừa thiên cũng biết
vì thời gian chờ đợi ở đây, tôi mang lon đại úy,
ngày ngày đi ngang qua cổng ra vào. Ngoài ra, chưa ai biết
cả. Ngay cả anh bạn thân của tôi là Thịnh cũng cứ
tưởng tôi còn là trung úy.
Nghe
Hưng nhắc đến Thịnh, anh chàng hiệu trưởng nhân hậu,
nên tôi hỏi:
-
Sau ngày “giải phóng”, anh có gặp lại Thịnh không?
-
Không, cả gia đình kịp di tản trước ba mươi tháng tư.
Tôi có bảo em Thanh đến tìm một lần nhưng nhà đóng
cửa và bị niêm phong.
-
Cô bé Thanh có trở lại trường không?
-
Không, Thanh vẫn còn sợ cái nơi có chứa quá nhiều kỷ
niệm thơ ấu của em.
Hưng
thở dài:
-
Tính đến ngày nay, tôi ra đi đã gần tám tháng rồi. Hai
chị em đã sống thế nào trong những ngày qua? Tất cả
tiền bạc tôi gởi tại ngân hàng đều mất hết. Tất
cả người miền Nam chúng mình đều phải trả giá rất
đắt cho sự bại trận của mình. Vì vậy tôi không tiếc
số tiền bị mất. Tuy nhiên tôi vô cùng lo lắng cho đời
sống của vợ tôi và em Thanh. Sau ngày tôi bị bắt lôi
đi, hai chị em sống thế nào trong xã hội cộng sản? Tôi
chẳng được một tin tức nào cả. Tôi sợ....
Hưng
ngừng nói, cúi gầm mặt xuống đất, lấy tay xoa những
vòng tròn vừa mới vẽ. Tôi buộc miệng hỏi anh:
-
Tại sao trong đợt gởi thơ vừa rồi, anh không được
phúc đáp. Anh có nghĩ rằng thơ đã bị lạc không?
-
Có lẽ thơ tôi gởi về không đến được với Thu Hồng.
-
Anh đề về địa chỉ nào?
-
Đó là điều tôi suy nghĩ nát óc khi trại cho anh em mình
gởi thơ về nhà. Căn nhà của tôi cất lên chẳng có
khai báo, chẳng có số nhà gì cả. Những người duy nhất
biết chỗ ở nầy là vợ chồng Thịnh thì đã xa chạy
cao bay rồi. Tôi đành gởi về trường cho anh tổng giám
thị. Tôi chỉ cầu may thôi vì sau ngày ba mươi tháng tư,
tất cả các trường tư đều phải giao lại cho nhà nuớc.
Chủ nghĩa xã hội mà. Các bài chính trị mà mình đã học
cho thấy giáo dục là chuyện riêng của nhà nước, không
một tư nhân nào được rớ tới. Nhà nước chỉ con bò
và bảo thế hệ trẻ nói là trâu thì cũng không ai được
đính chính. Thế mới đúng với tính chất xã hội chủ
nghĩa.
Tôi
hơi sốt ruột nên ngắt lời Hưng:
-
Anh nghĩ thế nào mà lại nhờ ông tổng giám thị? Ông
nầy đâu có biết nhà anh.
-
Đúng vậy, nhưng bí quá tôi đành gởi về địa chỉ nầy
và nhờ trao lại cho Thu Hồng. Tôi hi vọng sau ngày tôi bị
trói dẫn đi, Thanh sẽ tìm đến anh tổng giám thị tại
trường để cầu cứu. Đó là người thứ hai mà Thanh
biết chỗ ở, nơi cái đất Sài gòn mênh mông kia. Anh
tổng giám thị là người rất tốt, có lòng thương mến
chị em Thu Hồng. Tuy nhiên, đó là hi vọng quá mỏng manh.
Giọng
anh trở nên rên rỉ:
-
Tôi mong tin Thu Hồng ngày đêm, không phút nào quên, không
giây nào nguôi, kể cả trong giấc ngủ say. Tôi sợ....
Nàng có còn trên cõi đời nầy không?
Tôi
cố ngăn nước mắt, cầm lấy tay Hưng:
-
Anh Hưng, đừng nói vậy. Anh chưa nhận được tin chị vì
thơ không tới tay. Anh thấy rõ rồi, sau ngày ba mươi
tháng tư, chắc chắn các tư thục bị nhà nước trưng
dụng làm việc khác và gia đình ông tổng giám thị phải
dời đi nên không nhận được thơ mà chuyển đến cho
chị Hồng. Anh đừng quá chán nãn. Kỳ gởi thơ kế tiếp,
tôi sẽ nhờ vợ tôi làm mọi cách tìm cho được tin tức
chị và nhắn vào cho anh rõ.
Hưng
nhìn tôi bằng cặp mắt cảm kích:
-
Cám ơn anh. Tôi đã tìm đúng chỗ để trao gởi tâm sự
buồn của tôi.
-
Anh hãy yên tâm, có dịp là tôi sẽ hết sức giúp anh.
Dịp
may đến, một tháng sau ngày tôi hứa với Hưng. Sáng hôm
đó, khi anh em chuẩn bị đi lao động thì có lệnh tập
họp lên hội trường. Quản giáo trưởng cho biết anh em
sẽ được gặp gia đình lần đầu tiên, trong một đợt
thăm nuôi kéo dài ba ngày. Cả hội trường nổ tung vì
tiếng reo hò vui mừng của hơn một ngàn con người.
Quản
giáo ra hiệu cho anh em im lặng để dặn dò những điều
phải làm. Mỗi người được viết một lá thư, trong đó
chỉ được báo tin cho gia đình về đợt thăm nuôi, liệt
kê những món cần thiết mà người nhà mang vào tiếp tế,
gồm thức ăn và thuốc men. Ngoài ra không nói gì khác để
đỡ tốn thì giờ kiểm duyệt. Trong mỗi lá thư, quản
giáo sẽ cho vào một giấy phép thăm nuôi với ngày do ban
chỉ huy trại ấn định, sao cho rải đều trong ba ngày
liên tiếp tùy theo địa chỉ gần hay xa. Điều đó có
nghĩa là mỗi người được gặp thân nhân một lần vào
ngày giờ không cho biết trước.
Những
ngày sau đó, không khí trong trại vô cùng náo nức. Mọi
người đều phấn khởi, ngoại trừ Hưng. Anh cũng viết
thư và gởi về cho ủy ban cách mạng lâm thời của xã
để nhờ chuyển giao cho chị Thu Hồng. Đó vẫn là hi
vọng mong manh như anh đã nói với tôi.
Đúng
mười ngày sau khi gởi thơ, đợt thăm nuôi bắt đầu.
Trong ba ngày, thứ tư, thứ năm và thứ sáu của tuần lễ,
anh em được nghỉ lao động để chờ đón thân nhân. Từ
sáng sớm, mọi người đã chen nhau, tề tựu ở đầu
xông dãy nhà đầu tiên, nhóng cổ nhìn ra cổng. Tôi cũng
ở trong số đó. Tôi hy vọng thuộc nhóm đầu tiên hôm
nay. Tôi sờ vào túi để yên tâm mảnh giấy nhỏ vẫn
còn trong đó. Trên mảnh giấy nầy, Hưng đã vẽ một
cách tỉ mỉ đường đi đến ngôi nhà, nơi anh đã sống
với vợ và em. Nếu tôi được thăm nuôi ngay ngày đầu
tiên thì tôi sẽ trao mảnh giấy nầy và dặn vợ tôi
ngày mai thứ năm phải đi tìm cho được gian nhà của chị
Thu Hồng rồi ngày mốt là thứ sáu trở lên đây mang
theo thơ của chị ấy hay của chính vợ tôi, nhờ một
người thăm nuôi ngày cuối lén đưa vào để trao lại
cho Hưng.
Thân
nhân đã bắt đầu vào cổng và đi đến gian nhà thăm
nuôi đã được anh em cất lên một cách vội vã mấy
hôm trước. Đám đông tù nhân ùn ùn xô lấn, chen đẩy
nhau. Vài người được gọi tên, vội vẹt đám đông để
đi ra. Tiếp theo là những người khác. Suốt ngày hôm đó,
cả trại sống trong không khí ngày hội. Trên con đường
ra nhà thăm nuôi, dập dìu kẻ tới người lui. Tôi bỏ cả
bữa ăn trưa, chờ đợi cả ngày mà không được gọi
tên. Ngày thứ nhì cũng thế. Vậy là tôi thuộc nhóm được
thăm nuôi ngày cuối cùng.
Trong
hai ngày tưng bừng của anh em, Hưng nằm ủ rủ trong góc
phòng. Tôi biết anh đang sống trong sự đọa đày của
hỏa ngục trần gian. Anh còn một chút hi vọng, một hi
vọng mỏng manh như sợi tơ, đang chao lượn một cách
tuyệt vọng trên ngọn lửa hỏa ngục trong lòng anh. Tôi
xót xa nhìn anh nằm co ro như một con thú bị trọng
thương, nhưng không biết nói lời an ủi nào cho thích hợp
với Hưng trong lúc nầy. Vả lại, trong hai ngày qua, tôi
cũng rất mệt mỏi và căng thẳng vì mải chạy ra rồi
chạy vào và ngồi phơi nắng để nhìn ra cổng, trong
không khí oi nồng, đầy mùi mồ hôi của anh em đồng
cảnh ngộ.
Và
đây rồi, ngày hôm nay là ngày của tôi, chắc chắn như
thế. Tôi phải “chải chuốt” một tí cái “dung nhan”
đã bị quên lãng từ nhiều tháng nay để tạo sự vui
lòng và an tâm cho vợ và con tôi. Tôi vừa định bước
ra cửa thì có tiếng loa gọi tên tôi ra gặp thân nhân.
Hưng bật dậy nhìn tôi với đôi mắt thất thần. Tôi
chỉ kịp vỗ vai anh một cái rồi phóng ra khỏi phòng.
Không
phải nói dài dòng về giây phút tôi gặp mặt những
người thân yêu sau bao tháng ngày nhớ nhung và nhung nhớ.
Tôi vội vàng hỏi cuộc sống của mấy mẹ con từ khi
tôi đi cải tạo. Sau đó, tôi kể sơ lược tình cảnh
của Hưng và nhét vội vào tay vợ tôi mảnh giấy chỉ
đường đến nhà chị Thu Hồng. Hôm nay là ngày thứ sáu.
Tôi dặn vợ tôi ngay ngày mai phải đến tìm căn nhà nầy
và chủ nhật đưa tin lên. Ngày thứ hai, chúng tôi sẽ
nhận được tin nầy.
Đêm
hôm trước, tôi và Hưng đã bàn tính kỹ lưỡng kế
hoạch đưa tin. Ngày chủ nhật, vợ tôi sẽ đến khu canh
tác dành cho tổ của tôi và giấu thơ vào chỗ định
trước.
Khu
đất mà trại dành cho chúng tôi lao động để cải tạo
là một vùng đất bỏ hoang từ lâu, cách trại non một
cây số. Chung quanh khu nầy, có một ít nhà dân đang khai
khẩn những miếng đất kế bên. Giữa hai vùng đất khác
nhau không có một ranh giới nào cả nên thỉnh thoảng dân
cũng đi ngang qua chỗ chúng tôi làm việc. Tuy nhiên, chúng
tôi chỉ nhìn họ thôi chứ không dám đến gần nói
chuyện. Khu đất chung của trại được phân thành nhiều
mảnh riêng biệt cho các tổ.
Mảnh
đất dành cho tổ tôi có một cây to rất dễ nhận thấy.
Tôi chỉ cách cho vợ tôi đến được khu lao động trong
ngày chủ nhật là ngày anh em được nghỉ tại trại. Vợ
tôi sẽ moi đất và giấu một lá thơ cách gốc cây nửa
thước về hướng tây là hướng mặt trời lặn.
Điều
bất tiện là cái cây nầy có bóng mát nên ông quản giáo
và chú cảnh vệ thường đứng đây để canh gác tù
nhân. Tuy nhiên, ngoài cây nầy ra, không còn chỗ nào có
thể làm tiêu mốc dễ nhận nữa. Đành phải dùng cây
nầy với nhiều hi vọng thành công vì ông quản giáo và
chú cảnh vệ thường bỏ đi đến các nhà dân chung
quanh. Điều đó cũng dễ hiểu; từ các nhà nầy, có vài
cô thôn nữ ngày ngày ra cuốc đất như chúng tôi bên nầy
vậy.
Đợt
thăm nuôi chấm dứt, ngày hôm sau là ngày thứ bảy, chúng
tôi được nghỉ ngơi dưỡng sức. Không khí trong trại
vẫn tiếp tục sôi nổi. Anh em kể cho nhau nghe tin tức
gia đình mình và tặng cho nhau những viên kẹo, những
viên đường quí giá. Được tặng nhiều nhất có lẽ là
Hưng, người duy nhất trong trại không được thăm nuôi.
Anh không còn ủ rủ nữa mà dậy ngồi chăm chỉ bên bàn
cờ tướng của Cúc và Tiến.
Sau
khi ăn trưa xong, Hưng rủ tôi xuống hội trường và đến
ngồi nơi góc nhà quen thuộc. Tôi lên tiếng trước:
-
Anh Hưng, tôi nghĩ là giờ nầy chị Hồng và vợ tôi cũng
đang nói chuyện như chúng mình ở đây vậy. Anh có nghĩ
vậy không?
Hưng
cúi đầu, giọng buồn bã:
-
Tôi cũng mong được như lời anh nói. Vợ anh có thích
nghe người khác tâm sự như anh không? Ngày mai, chị phải
trở lại đây thì nhọc nhằn quá.
Tôi
hiểu niềm hi vọng đang nhen nhúm trong lòng Hưng. Tôi cố
gắng thổi bùng niềm hi vọng đó lên:
-
Anh yên tâm, vợ tôi có tính thích giúp đỡ người khác.
Hơn nữa, biết được chuyện của anh và chị Hồng thì
đến đá cũng phải mềm lòng, nói chi con người.
Hưng
cười một cách cay đắng:
-
Thế mà có người không mềm lòng tí nào. Họ đã lôi
tôi đi như một con vật trước mặt Thu Hồng. Tại sao họ
lại có thể thô bạo như thế trước mặt một người
đàn bà bệnh hoạn nhỉ? Ngoài chiến trường hai bên bị
kích động vì không khí chém giết nên đối xử với
nhau một cách tàn bạo, điều đó dễ hiểu. Nhưng bây
giờ hòa bình rồi, họ đang vênh vang làm kẻ chiến
thắng, mình cúi đầu làm kẻ chiến bại, tại sao lúc
nào họ cũng sẵn sàng phát tiết lòng căm thù như thế?
Tôi
vỗ vai Hưng, cố lôi anh ra khỏi hình ảnh bi thương của
quá khứ:
-
Rất dễ hiểu. Nếu không duy trì lòng căm thù thì chủ
nghĩa họ không thể tồn tại được. Nhưng thôi, không
nên bàn chuyện đó nữa, phiền lòng lắm. Tôi đang nghĩ
đến việc chị Hồng và vợ tôi bàn tính với nhau về
nội dung lá thơ viết cho anh. Sáng mai, vợ tôi sẽ mang
thơ đó lên đây và giấu ở nơi tôi đã chỉ một cách
cặn kẽ. Ngày thứ hai, chúng ta sẽ ra đó làm lao động.
Mấy cô thôn nữ sẽ cuốn hút ông quản giáo và chú bộ
đội về bên đó và anh sẽ đến moi để lấy thơ lên.
Hưng
cười vui vẻ:
-
Tôi có cảm tưởng như anh đang kể chuyện thần tiên cho
con nít nghe vậy.
Tôi
cũng cười, tự hài lòng vì đã an ủi và tạo được nụ
cười tươi trên môi bạn mình.
Ngày
thứ bảy đi qua, ngày chủ nhật tiếp nối, không khí vui
vẻ và hứng khởi vẫn tràn ngập trại tù. Buổi chiều,
trời đổ xuống một trận mưa tầm tã. Tôi và Hưng nhìn
nhau lo lắng. Cái thư mà vợ tôi mới vùi lấp sáng nay có
ở yên dưới mặt đất hay đã lòi lên và trôi mất
trong dòng nước của trận mưa to nầy? Kể cả khi nó may
mắn còn trong đất thì nước mưa có xóa mất những dòng
chữ quí giá trong thư hay không?
Ngày
chủ nhật đi qua trong nỗi lo lắng của chúng tôi. Sáng
thứ hai, từ tinh mơ, hai chúng tôi hồi hộp mong cho đến
giờ đi lao động. Tôi đứng bật dậy khi thoáng thấy
ông quản giáo từ trên văn phòng đi xuống. Tôi chụp
ngay cây cuốc, các anh em khác cũng chuẩn bị lên đường.
Nhưng
kỳ lạ thay, ông quản giáo không dừng lại mà đi thẳng
đến tổ năm. Tôi vội vàng bỏ cuốc đi theo ông ta. Quản
giáo gọi bếp trưởng ra bảo:
-
Anh thông báo đến các tổ tập họp lên hội trường để
học tập về đợt thăm nuôi vừa qua. Chiều nay, các anh
được nghỉ lao động để thảo luận tổ về những
điều sẽ được học trên hội trường.
Tôi
quay lui, thấy Hưng thở dài ngao ngán. Lại thêm một buổi
sáng nghe chửi rủa và một buổi chiều ngồi thành vòng
tròn nhại đi nhại lại những câu nói nhàm chán của
quản giáo trưởng.
Rồi
ngày cũng qua. Sau cái gọi là bữa ăn chiều, trời lại
đổ mưa to. Hưng ra ngồi trước hiên nhà, thẫn thờ nhìn
làn mưa trắng xóa. Bụi nước bay bay, bám vào mặt và áo
quần, tay chân của anh. Ngoài trời, những hạt mưa cứ
ào ào rơi xuống một cách vô tình, không cần biết đến
tâm trạng của con người đang khắc khoải đớn đau vì
chúng.
Trận
mưa kéo dài đến khuya. Đêm hôm đó, cứ mỗi lần thức
giấc, tôi lại nghe Hưng trở mình. Có lẽ anh đã trằn
trọc suốt đêm dài.
Sáng
ra, Hưng dậy thực sớm, đi lui đi tới, bồn chồn chờ
đợi, trông thực thương tâm. Chúng tôi thở dài nhẹ
nhõm khi ông quản giáo xuất hiện và ra lệnh lên đường
ra khu lao động. Hưng đi kế bên tôi, chốc chốc lại nắm
tay tôi bóp mạnh, có lẽ để đè nén sự bồn chồn lo
lắng của mình.
Kia
rồi, trước mặt chúng tôi, cái cây cao sừng sững, lá
còn đẫm nước mưa, lóng lánh phản chiếu ánh mặt trời
ban mai. Chung quanh cây đó, những luống khoai và đậu,
xanh mơn mởn chào đón bình minh. Công việc sáng nay của
chúng tôi là nhổ cỏ và vun lại các luống đã bị sạt
lở vì những trận mưa vừa qua.
Chúng
tôi đi thẳng về khu canh tác của mình. Ông quản giáo đi
trước đã biến mất vào khu đất của dân, nhưng sau
lưng chúng tôi vẫn còn chú cảnh vệ vai vác súng đủng
đỉnh đi theo. Hỡi ơi, chú đi thẳng đến cây cao rồi
từ từ cởi súng ra khỏi vai.
Chúng
tôi đành bắt tay vào công việc. Hưng và tôi ngồi kế
bên nhau, tay nhổ cỏ mà mắt thì liên tục nhìn về hướng
cây cao. Chú cảnh vệ đã ngồi xuống đất, lưng tựa
vào gốc cây, súng gác lên đùi, há miệng ngáp, mắt lim
dim.
Một
giờ đã trôi qua trong sự chờ đợi của chúng tôi. Nhìn
thấy vẻ mặt bồn chồn trông thực thảm hại của Hưng,
tôi thấy tội nghiệp quá chừng. Tôi xích lại gần và
tìm cách pha trò cho bớt căng thẳng:
-
Anh Hưng, anh để ý nầy. Tôi đếm một tới mười là có
ông thần đèn đến mang chú lính nầy quăng vào nhà cô
thôn nữ bên kia. Anh nghe tôi đếm đây.
Hưng
quay sang mỉm cuời:
-
Anh cứ đếm đi thử coi ông thần đèn có can đảm còn
theo anh vào trại cải tạo hay không.
Tôi
lấy giọng, bắt đầu đếm một cách chậm rãi và nghiêm
trang:
-
Một...hai...ba...bốn...năm...sáu...
Hưng
trố mắt nhìn:
-
Ối, ối, ông thần đèn xuất hiện!
Chú
cảnh vệ vương vai đứng dậy, vác súng lên và thủng
thẳng bước về hướng những ngôi nhà dân.
Hưng
nhỏm dậy, tôi vội chụp tay lôi xuống:
-
Khoan, chờ nó đi khuất đã. Anh ngồi đây, tôi đi lấy
thơ. Anh không bình tĩnh bằng tôi. Để lộ thì nguy.
Hưng
nghe lời, ngồi xuống tiếp tục nhổ cỏ. Tôi nhướng cổ
nhìn, chú cảnh vệ đã đi khuất bóng. Tôi vội đứng
lên, xách bi đông nước, lảo đảo đi đến gốc cây.
Tôi đến nơi rồi, dừng lại, đưa hai tay áo lên lau mặt,
mở bi đông tu một ngụm nước và ngồi thụp xuống, gục
mặt vào hai đầu gối. Chắc chắn, từ xa, người ta sẽ
cho rằng tôi bị say nắng chóng mặt. Nhưng nếu ở gần,
ắt sẽ thấy tay tôi thò ra sau lưng cào trên mặt đất.
Các ngón tay tôi bỗng thọc sâu qua lớp đất mềm của
một lỗ trũng bên dưới và chạm vào lớp giấy nhựa.
Tôi mừng rỡ, vội lôi lên, liếc nhanh. Đó là một bao
nhựa bọc bên ngoài một mảnh giấy xếp nhỏ. Tôi lôi
ra, mảnh giấy còn nguyên vẹn và khô ráo. Tôi thầm phục
sự cẩn thận của vợ. Tôi nhét vội mảnh giấy vào túi
quần, ấn bao nhựa vào hốc đất và lấp lại, khỏa
bằng mặt.
Tôi
đứng dậy vương vai, làm như hết bị choáng nắng, trở
lại ngồi gần Hưng. Giọng anh thì thào đầy xúc động:
-
Có hay không?
-
Có.
-
Đâu, đưa đây nhanh.
-
Chưa được, đợi giờ giải lao. Phải cẩn thận.
Hưng
đành ngồi yên nhưng nhìn vẻ mặt, ai cũng thấy ngay anh
đang ngồi trên đống lửa.
-
“Giải lao mười lăm phút, anh em ơi”.
Tiếng
la dõng dạc của anh tổ trưởng làm Hưng nhảy dựng lên.
Mọi người đứng dậy, phủi tay, đi về phía cây to. Tôi
nói với Hưng:
-
Đến đám khoai mì kia để tránh nắng.
Hưng
theo tôi đến đó, chui vào giữa hai luống khoai um tùm,
cao ngang đầu người. Chúng tôi ngồi bên nhau, lưng quay
ra ngoài. Trước mặt chúng tôi là đám lá khoai dày bịt,
phía sau thì đã có hai cái lưng che tầm mắt mọi người.
Tôi móc túi lấy mảnh giấy ra, cả hai cũng đọc ngấu
nghiến.
“Anh
thân yêu,
Hôm
qua em về đến nhà lúc bốn giờ chiều, nên sáng nay mới
đi làm công việc mà bạn anh nhờ. Em rủ chị Tuyết đi
theo cho có bạn. Chị ấy trước ở Thủ đức nên quen
thuộc đường đi ở đây. Chúng em lên đường từ sáng
sớm và sau đó đến nơi muốn tìm một cách dễ dàng,
nhờ bản vẽ rất rõ ràng của bạn anh.
Từ
xa lộ đi vào hơn ba trăm mét, chúng em nhận ra ngay cái
nền nhà trơ trụi hoang tàn. Phía trước còn dấu vết
của một vườn hoa. Không còn hoa nữa, chỉ toàn cỏ dại,
nhưng em nhận ra vì có hai ba cây hoa nhỏ xíu, có lẽ mọc
lên từ những hạt còn sót lại của những cây đã trồng
trước đây.
Phía
sau nền nhà là một mô đất thấp, bên trên cũng có
những đám cỏ dại xen lẫn với những vết chân trâu bò
lỗ chỗ.
Cách
nền nhà độ một trăm mét, có một nhà lá còn mới.
Chúng em vào đó để hỏi thăm. Chủ nhà là một chị
nông dân khoảng bốn mươi tuổi, người xóm trong, ra đây
cất nhà ở được hơn một tháng nay. Chị ta bảo có
biết gia đình bạn anh, trước ở cái nhà bên đó. Em ghi
lại đây gần đúng như lời chị ta kể, nếu bạn anh
buồn thì em xin lỗi trước.
Chị
ta bảo trong ngôi nhà đó có ba người, hai vợ chồng và
đứa em gái. Họ sống hoàn toàn biệt lập và chưa hề
có ai bước vào nhà, lúc họ còn ở đó. Cô vợ thì điên
và tàn tật phải ngồi xe lăn, ông chồng thì khỏe mạnh
nhưng thân thể mảnh mai như người thành phố. Cô bé thì
trông dễ thương, tuổi độ mười lăm muời sáu. Người
ta thường gặp cô ấy đạp xe đến chợ, nhưng không ai
bắt chuyện được với cô ta.
Khoảng
ba hay bốn tháng sau ngày giải phóng, một đêm tối trời,
nhũng người đi soi ếch và đặt bẫy chuột nghe văng
vẳng từng chặp, tiếng gào thét suốt đêm của cô gái,
sáng ra mới biết người thiếu phụ tàn tật vừa qua đời
trong đêm. Chính quyền và bà con xóm trong đến phụ chôn
cất. Ông chồng không có nhà, chỉ có cô em ngơ ngơ ngác
ngác mà thôi. Nhà nghèo lắm, chỉ có chiếc xe lăn là
đáng giá. Người ta hùn tiền lại mua một cái hòm rẻ
tiền và chôn ngay sau nhà. Lúc hạ huyệt, cô bé nhảy
xuống ôm chặt cái hòm và gào lên, kêu người ta lấp
đất lại. Phải hai người đàn ông mới lôi cô bé lên
được để hoàn tất việc chôn cất. Mọi người chứng
kiến đều khóc hoặc rơm rớm nước mắt kể cả ông
đại diện chính quyền cách mạng.
Sau
đó, cô bé bỏ đi đâu mất. Lúc đó, đời sống bắt
đầu gay go, ai cũng phải lo việc nhà mình, nên không có
thì giờ để tìm xem cô gái đó đi đâu. Căn nhà trở
thành hoang phế. Người lạ đến lấy trộm đồ vật bên
trong rồi cuối cùng, giở luôn căn nhà, chỉ còn cái nền
trơ trụi.
Đó
là lời kể của chị nông dân. Câu chuyện làm em và chị
Tuyết ứa nước mắt.
Chúng
em quay lại nấm mồ lạnh lẽo, van vái và ra về. Sáng
mai, em phải trở lên chỗ các anh làm lao động và giấu
lá thơ nầy vào nơi anh đã dặn. Ngày mốt, em và chị
Tuyết sẽ thuê người đến đắp lại nấm mồ hoang phế
đó. Em muốn dựng một tấm bia sơ sài, kẻo sợ lâu ngày
trâu bò dẫm lên mất dấu, sau nầy thân nhân khó tìm ra.
Tuy nhiên, em không biết tên tuổi người nằm dưới đó
nên chưa biết tính sao.
Em
nhờ anh gởi lời cho em xin chia sẻ nỗi đau đớn cùng
cực của bạn anh. Em cầu chúc linh hồn người quá cố
đã lên đến cõi tiên, vĩnh viễn rời bỏ chốn trần
gian đầy bi lụy nầy. Em cũng cầu chúc bạn anh và tất
cả mọi người trong trại khỏe mạnh để vượt qua đoạn
đường gian lao trước mặt.
Em,
người vợ yêu quý của anh.”
Trời
đất như tối sầm lại khi tôi đọc xong lá thư. Nhìn
sang kế bên, tôi thấy Hưng ngồi yên như pho tượng, mặt
hướng thẳng về trước, hai giọt nước mắt lăn xuống
đôi má phong trần.
Hết
giờ giải lao, tôi cất lá thư, lôi Hưng đứng dậy. Anh
đưa tay áo lau mắt và ngoan ngoãn theo tôi ra nhổ cỏ. Từ
đó đến tối, anh làm theo tôi như cái máy, không nói một
tiếng nào, nét mặt thẫn thờ như người mất hồn.
Đêm
đến, anh giăng mùng và ngủ như thường lệ. Tôi nằm kế
bên lắng nghe. Tôi đoán anh sẽ âm thầm khóc trong đêm
khuya. Nhưng không, anh nằm im lìm, không một cử động,
không một tiếng rên nho nhỏ.
Bức
thư của vợ tôi làm tôi trằn trọc, chốc chốc lại
nhìn sang Hưng. Trong bóng tối lờ mờ, tôi thấy anh vẫn
nằm yên không động đậy. Đến nửa đêm, tôi ngủ
thiếp đi một lát rồi giật mình thức giấc. Đêm thực
vắng lặng, có lẽ còn khuya. Xoay người nhìn sang phía
Hưng, tôi sửng sốt thấy chỗ nằm trống trơn. Để cẩn
thận, tôi thò tay sang sờ, cái bao dùng làm gối và tấm
đắp vẫn còn nguyên, nhưng Hưng không còn nữa. Tôi vén
mùng, tụt xuống đất và ra sân nhìn quanh. Hoàn toàn vắng
lặng, không một bóng người. Tôi không dám đi xa hơn để
tìm, sợ lính canh bên ngoài trông thấy.
Tôi
trở vào phòng, ngồi suy nghĩ độ nửa giờ rồi bước
sang thò tay kéo nhẹ chân anh Tứ tổ trưởng. Anh vùng
dậy, vén mùng chui ra. Tôi thì thầm:
-
Hưng đi mất rồi.
-
Sao? Có phải nó đi tiểu không?
-
Không, tôi đã ra ngoài xem và ngồi đây đợi đến hơn
nửa giờ rồi. Chắc chắn Hưng đã bỏ trốn.
Tứ
đưa tay bụm miệng tôi lại và nói nhỏ vào tai tôi:
-
Ngủ lại đi, đừng làm kinh động. Đợi đến sáng cho
nó có thì giờ đi xa mới báo cáo quản giáo. Nhớ đừng
nói với ai rằng mình biết việc nầy từ đêm khuya.
Nói
xong, anh leo lên nằm. Tôi cũng trở về chỗ mình, thao
thức đến sáng. Trong khoảng thời gian tôi nằm im để
chờ ngày đến, nguyên quãng đời đầy bi thương của
Hưng và Thu Hồng diễn lại trong đầu tôi, kể từ lúc
hai người tình cờ gặp nhau ở Đà nẵng cho đến lúc
người thiếu phụ đáng thương nằm xuống dưới nấm mồ
hoang phế và cô đơn.
Tôi
biết Hưng đã trốn ra khỏi trại rồi. Cái hàng rào
quanh trại với một lớp kẽm gai làm sao giữ nỗi một
đại úy thủy quân lục chiến. Nhưng ra khỏi trại xong
thì Hưng sẽ đi đâu, liệu thoát được sự truy lùng
trong bao lâu. Có lẽ, anh sẽ tìm cách trở về thăm mộ
Thu Hồng và anh sẽ lọt vào ngay cái bẫy mà họ sắp
giăng tại đó. Hay là anh sẽ bôn ba đi tìm cô bé Thanh
tội nghiệp. Tôi nghĩ đó là hai nguyện ước cuối cùng
của thân phận bi thảm của anh. Nhưng liệu anh có làm
được hai điều mong ước sau cùng đó không? Theo lời
quản giáo thì bên ngoài đã thiết lập hộ khẩu rồi.
Điều đó có nghĩa là chính quyền cách mạng đã áp đặt
xong sự quản lý, mỗi bước chân của mỗi người dân
đều được đảng và nhà nước ân cần theo dõi. Những
ý nghĩ nầy thực nặng nề đối với tôi nhưng giúp đêm
qua nhanh.
Bình
minh ló dạng, cảnh vật dần dần hiện rõ trong ánh sáng
ban mai. Không khí buổi sớm thực trong lành nhưng đầu
tôi nặng chình chịch như đeo đá. Tôi nhìn sang chỗ nằm
trống vắng của Hưng, lòng bồi hồi cảm xúc. Kể từ
hôm nay, tôi không còn bao giờ thấy mặt, không còn bao
giờ nghe tiếng nói của người bạn tù đáng thương đó
nữa.
Tin
Hưng trốn trại nhanh chóng gây chấn động trong toàn thể
anh em. Ban quản giáo xuống tận nơi để điều tra. Cũng
chẳng phải mất nhiều công. Một người tù leo qua hàng
rào kẽm gai trong đêm tối và đi mất. Thế thôi, kết
luận nhanh chóng và giản dị.
Lệnh
trên ban xuống: hôm nay nghỉ lao động, tập họp lên hội
trường. Ai cũng biết đề tài học tập là vụ vượt
ngục của Hưng. Anh em lầm lủi đến hội trường, ngồi
xuống, hàng ngũ chỉnh tề.
Quản
giáo trưởng tiến đến bục thuyết trình. Lời mở đầu
thì như thường lệ, kêu ba đời ngụy quân, ngụy quyền
ra mà chửi là ôm chân đế quốc, liếm gót giày thực
dân. Lời mở đầu đó thì anh em đều thuộc nằm lòng
rồi, nhưng nghe thì cứ phải nghe.
Sau
đó mới đến phần chính yếu. Quản giáo trưởng hét
vào máy vi âm:
-
Tên Hưng, trong quá khứ đã vì lợi riêng làm lính đánh
thuê cho đế quốc Mỹ, làm tay sai cho giặc, phản lại Tổ
quốc, giết hại đồng bào, giày xéo mồ mả tổ tiên,
bắn chết rất nhiều người già và trẻ em, hãm hiếp vô
số đàn bà và thiếu nữ. Tên Hưng phải chết bốn năm
lần cũng không hết tội. Cách mạng có lòng đại nhân
đại nghĩa, đã khoan hồng, tha tội chết lại còn nuôi
nấng tử tế và cho học tập đàng hoàng để trở thành
người lương thiện. Với công ơn trời biển đó của
đảng và nhà nước, tên khốn khiếp đó không lo báo đền
mà còn bỏ trốn để tiếp tục chống phá cách mạng,
tiếp tay với bọn phản cách mạng đã chạy trốn ở
nước ngoài để mưu đồ giết hại nhân dân một lần
nữa. Nếu đem công lý của ông cha ta mà luận tội thì
tên Hưng phải lãnh hình phạt nào?
Có
tiếng la to bên dưới:
-
Tử hình!
Không
cần quay lại, mọi người đều biết đó là tiếng của
tên cò mồi trong trại. Hắn cũng trong số cựu sĩ quan
như anh em nhưng tự nguyện làm cò mồi để chứng tỏ
mình đã được cải tạo tốt, sớm về với gia đình
theo chủ trương đường lối của cách mạng. Anh em không
ưa nhưng chẳng thù ghét gì hắn. Hắn có mẹ già và
người vợ trẻ vừa mới sanh con đầu lòng. Hắn chưa
được thấy mặt con vì khi hắn đi trình diện “cải
tạo tập trung”, vợ hắn mới mang bầu sáu tháng. Hắn
làm mọi cách để sớm về nuôi mẹ, nuôi vợ, nuôi con.
Điều đó, anh em rất thông cảm.
Thực
ra, trong cái loại “toà án nhân dân” nầy, nếu hắn
không hô “tử hình” thì cũng sẽ có người khác hô
thay hắn. Thủ tục phải là như thế, không khác được.
Vả lại, cái án “tử hình” nầy chỉ có tính tượng
trưng để “giáo dục” anh em đừng bắt chước “tên
Hưng” mà thôi chứ có ý nghĩa thực tiễn gì lắm đâu,
vì Hưng đã đi mất rồi và nếu có bắt lại được thì
người ta vẫn có thể bắn chết tại chỗ mà chẳng cần
phải lên án.
Sau
tiếng thét “tử hình” đó của thằng cò mồi, quản
giáo trưởng có vẻ hài lòng, hỏi to trong máy:
-
Anh nào đồng ý tử hình tên Hưng thì đưa tay lên.
Nhiều
cánh tay uể oải đưa lên khỏi đầu. Tiếng loa lại vang
lên, chọc thủng màng nhĩ:
-
Còn những anh khác, không thấy được tội ác của tên
Hưng hay sao?
Những
người còn lại vội vã đưa tay lên đồng ý. Tôi cũng
làm như mọi người. Tiếng nói trong loa trở nên vui vẻ
và thân mật hơn:
-
Được, khá lắm, anh em đã có chuyển biến tốt trong tư
tưởng. Tất cả đều đồng ý tử hình tên Hưng.
Vâng,
tất cả đều đồng ý. Tôi cũng đã đưa tay đồng ý tử
hình tên Hưng, tử hình tên Hưng, tử hình tên Hưng...!
Một
tay tôi vẫn đưa cao, tay kia che mặt để người khác đừng
thấy hai giọt nước đang trào ra bên khóe mắt của tôi.
HẾT